MỞ ĐẦU
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, các mối quan hệ kinh tế trên mọi
lĩnh vực của một quốc gia ngày càng được mở rộng ra các nước, do đó vấn đề thanh toán,
định giá, so sánh, phân tích, đánh giá về mặt giá trị và hiệu quả trở nên phức tạp hơn nhiều.
Đơn vị thanh toán không chỉ còn bó hẹp tiền tệ trong nước mà còn phải sử dụng các loại
ngoại tệ khác nhau liên quan đến việc trao đổi tiền tệ của nước khác. Tiền của mỗi nước được
quy định theo pháp luật của nước đó và đặc điểm riêng của nó, vì vậy phát sinh nhu cầu tất
yếu là phải so sánh giá trị, sức mua của đồng tiền trong nước với ngoại tệ và giữa các ngoại tệ
với nhau. Hoạt động chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền khác trong quá trình quan hệ
giữa các nước nhóm nước với nhau đã làm nảy sinh phạm trù tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế nhạy cảm và rất phức tạp. Kinh tế thị trường
thường xuyên vận động thì tỷ giá hối đoái cũng như những hiện tượng kinh tế khác biến
động là lẽ tất nhiên, là hợp với quy luật vận động của sự vật, của hiện tượng. Tuy nhiên
những diễn biến có tính bất thường, khác lạ của hiện tượng kinh tế tất phải do những nguyên
nhân, hoặc do những trục trặc nào đó làm cho hiện tượng kinh tế đó diễn ra “chệch hướng”
theo logic bình thường. Điều đó làm chúng ta phải thận trọng xem xét các nguyên nhân từ
mọi phía, một cách toàn diện để có nhận thức, quan điểm đúng đắn, làm cơ sở tin cậy cho
việc điều chỉnh các hoạt động thực tiễn …
Nghiên cứu sự vận động của tỷ giá hối đoái là một vấn đề phức tạp nhưng cũng đầy
mới mẻ và hấp dẫn, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế phát triển và vận động không ngừng.
Do đó, để lựa chọn đề tài nghiên cứu trong đề án môn học Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ, tôi
đã lựa chọn việc tìm hiểu về "Tỷ giá hối đoái và vai trò của ngân hàng Trung ương "
Cơ cấu bài viết gồm 3 chương :
Chương I. Tổng quan về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái;
Chương II. Vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều chỉnh chính sách tỷ giá;
Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều
hành chính sách tỷ giá.
Do thời gian hạn chế nên tiểu luận còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được góp ý
của thầy cô và các bạn học viên.
Xin chân thnh cm ơn!
1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Tỷ giá hối đoái
1.1. Khái niệm:
Tỷ giá là giá cả của một đơn vị tiền tệ một được biểu hiện bằng số lượng đơn vị tiền tệ
của nước khác hay là bằng số lượng ngoại tệ nhận được khi đổi một đơn vị nội tệ hoặc bằng
số lượng nội tệ nhận được khi đổi một đơn vị ngoại tệ.
Các nước có giá trị đồng nội tệ thấp hơn giá trị ngoại tệ thường sử dụng cách thứ hai.
Chẳng hạn ở Việt Nam người ta thường nói đến số lượng đồng Việt Nam nhận được khi đổi
một đồng USD, DEM hay một FFR …
Có hai loại giá: giá trong nước (giá quốc gia) phản ánh những điều kiện cụ thể của sản
xuất trong một nước riêng biệt, và giá ngoại thương (giá quốc tế) phản ánh những điều kịên
sản xuất trên phạm vi thế giới. Tiền tệ là vật ngang giá chung của toàn bộ khối lượng hàng
hoá và dịch vụ trong nước. Tỷ giá thể hiện sự tương quan giữa mặt bằng giá trong nước và
giá thế giới. Tỷ giá dùng để tính toán và thanh toán xuất, nhập khẩu (không dùng để ổn định
giá hàng hoá sản xuất trong nước). Tỷ giá hàng xuất khẩu là lượng tiền trong nước cần thiết
để mua một lượng hàng xuất khẩu tương đưong với một đơn vị ngoại tệ. Tỷ giá hàng nhập
khẩu là số lượng tiền trong nước thu được khi bán một lượng vàng nhập khẩu có giá trị một
đơn vị ngoại tệ.
1.2. Các loại tỷ giá thông dụng trên thị trường
- Dựa trên tiêu thức là đối tượng quản lý:
+ Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do ngân hàng công bố chính thức trên thị trường để
làm cơ sở tham chiếu cho các hoạt động giao dịch, kinh doanh, thống kê…
+ Tỷ giá thị trường: tỷ giá được hình thành thông qua các giao dịch cụ thể của các
thành viên thị trường .
+ Tỷ giá danh nghĩa : là tỷ lệ giữa giá trị của các đồng tiền so với nhau, đồng này đổi
được bao nhiêu đồng kia .
+ Tỷ giá thực: là tỷ giá phản ánh tương quan giá cả hàng hoá của hai nước được tính
theo một trong hai loại tiền của hai nước đó hoặc là giá trị tính bằng cùng một đồng tiền của
hàng xuất khẩu so với giá hàng nhập khẩu.
- Dựa trên kỹ thuật giao dịch:
+ Tỷ giá mua/bán trao ngay, kéo theo việc thay đổi ngay các khoản tiền
+ Tỷ giá mua/bán kỳ hạn ,kéo theo việc trao đổi các khoản tiền vào một ngày tương
lai xác định.
1.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở
- Thứ nhất, Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) và ngoại thương: Tỷ giá giữa đồng nội tệ và
ngoại tệ là quan trọng đối với mỗi quốc gia vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng
2
hoá xuất nhập khẩu của chính quốc gia đó. Khi đồng tiền của một quốc gia tăng giá (tăng trị
giá so với đồng tiền khác) thì hàng hoá nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá
nước ngoài tại nước đó trở nên rẻ hơn. Ngược lại khi đồng tiền một nước sụt giá, hàng hoá
của nước đó tại nước ngoài trở nên rẻ hởn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở nên
đắt hơn (các yếu tố khác không đổi). Tỷ giá tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu vì vậy nó
tác động tới cán cân thanh toán quốc tế,gây ra thâm hụt hoặc thặng dư cán cân.
- Thứ hai, TGHĐ và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát: Tỷ giá hối đoái không
chỉ quan trọng là vì tác động đến ngoại thương ,mà thông qua đó tỷ giá sẽ có tác động đến
các khía cạnh khác của nền kinh tế như mặt bằng giá cả trong nước, lạm phát khả năng sản
xuất, công ăn việc làm hay thất nghiệp…
1.4. Những nhân tố tác động tới tỷ giá
- Năng suất lao động (NSLĐ) trong nước tăng lên tương đối so với nước ngoài, đồng
nghĩa với việc các nhà kinh doanh có thể hạ giá thành sản phẩm, dich vụ của mình tương đối
so với hàng ngoại nhập, dẫn đến sự gia tăng mức cầu của hàng nội dịa so với hàng ngoại
nhập, làm cho hàng nội địa vẫn bán tốt khi giá đồng nội tệ tăng lên giảm xuống và ngược lại.
Một nền kinh tế phát triển có NSLĐ cao trong thời kì nào đó thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến sự tăng giá của đồng tiền nước đó.
- Mức giá tương đối ở thị trường trong: Theo thuyết mức giá cả tương đối, khi mức
giá cả hàng nội địa tăng tương đối so với hàng ngoại nhập thì cầu của hàng nội địa sẽ giảm
xuống và đồng nội địa có xu hướng giảm giá để cho hàng nội bán được tốt hơn và ngược lại.
- Thuế quan và hạn mức nhập khẩu là những công cụ kinh tế mà Chính phủ dùng để
điều tiết và hạn chế nhập khẩu. Chính công cụ này đã tác động và làm tăng giả cả của hàng
ngoại nhập, làm giảm tương đối nhu cầu với hàng nhập khẩu, góp phần bảo hộ và khuyến
khích tiêu dùng hàng sản xuất trong nước. Những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế
nhập khẩu sẽ ảnh hưởng và làm cho tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ có xu hướng giảm.
- Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại: Nếu sự ham thích của người nước ngoài về
mặt hàng trong nước tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm đồng nội tệ tăng giá, bởi
hàng nội địa vẫn bán được nhiều ngay cả với giá cao hơn của đồng nội tệ. Cầu đối với hàng
xuất của một nước tăng lên làm cho đồng tiền nước đó giảm giá.
2. Chính sách tỷ giá hối đoái v những tiền đề, mục tiêu cho việc hoạch định
chính sách tỷ giá hối đoái.
2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái .
3
2.1.1. Khái niệm: Chính sách TGHĐ là một hệ thống các công cụ dùng để tác
động tới cung cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái
nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản, chính sách tỷ giá hối đoái tập trung
chú trọng vào hai vấn đề lớn là : vấn đề lựa chọn chế độ (hệ thống) tỷ giá hối đoái (cơ chế
vận động của tỷ giá hối đoái) và vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái .
2.1.2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái
Trong nền kinh tế mở, động cơ hoạch định chính sách là những mục tiêu cân đối bên
trong và bên ngoài. Trên đây là hai nhóm mục tiêu cơ bản mà chính sách tỷ giá cuối cùng
phải hướng đến .Tuy nhiên trong giai đoạn nhất định nào đó, chính sách tỷ giá cũng có thêm
những mục tiêu cụ thể như: thường xuyên xác lập và duy trì mức tỷ giá cân bằng, duy trì và
bảo vệ giá trị đồng nội tệ, tiến tới thực hiện đầy đủ chức năng của đồng tiền (bao gồm việc
thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng tiền), gia tăng dự trữ ngoại tệ.
* Mục tiêu cân bằng nội: Là trạng thái ở đó các nguồn lực của một quốc gia được
sử dụng đầy đủ, thể hiện ở sự toàn dụng nhân công và mức giá cả ổn định. Mức giá biến
động bất ngờ có tác động xấu đến các khoản tín dụng và đầu tư. Chính phủ cần ngăn chặn
các đợt lên hay xuống phát triển đột ngột của tổng cầu để duy trì một mức giá cả ổn định có
thể dự kiến trước được. Vì vậy, tỷ giá hối đoái được xem như là một công cụ đắc lực, hỗ trợ
hiệu quả cho Chính phủ trong việc điều chỉnh giá cả, đặc biệt là trong nền kinh tế, xu thế hội
nhập quốc tế như hiện nay.
* Mục tiêu cân bằng ngoại: Khái niệm "cân bằng ngoại" khó xác định hơn nhiều
so với "cân bằng nội", nó chủ yếu là sự cân đối trong "tài khoản vãng lai". Tuỳ thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của một quốc gia mà Chính phủ phải có cách để điều chỉnh
tỷ giá hối đoái của họ cho phù hợp, hiệu quả, chủ yếu tác động vào các hoạt động xuất nhập
khẩu và đầu tư xuyên quốc gia.
2.1.3. Các công cụ của chính sách tỷ giá hối đoái
- Phương pháp lãi suất chiết khấu: Lãi suất chiết khấu tăng nên lãi suất trên thị trường
cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi suất
cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu về ngoại tệ sẽ bớt đi, làm cho tỷ giá không có
cơ hội tăng nữa. Tuy nhiên, những yếu tố để hình thành tỷ giá và lãi suất là không giống
nhau, do vậy mà biến động của lãi suất không nhất thiết kéo theo sự biến động của tỷ giá.
- Các nghiệp vụ của thị trường hối đoái: Việc mua bán ngoại tệ được thực hiện trên
nguyên tắc diễn biến giá cả ngoại tệ trên thị trường và ý đồ can thiệp mang tính chất chủ quan
của nhà nước. Việc can thiệp này phải là hành động có cân nhắc những nhân tố thực tại cũng
như chiều hướng phát triển trong tương lai của kinh tế, thị trường tiền tệ và giá cả.
- Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái:
Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thường là: phát hành trái khoán
kho bạc bằng tiền quốc gia. Khi ngoại tệ vào nhiều, thì sử dụng quỹ này để mua nhằm hạn
4
chế mức độ mất giá của đồng ngoại tệ. Ngược lại, trong trường hợp vốn vay chạy ra nước
ngoài quỹ bình ổn hối đoái tung ngoại tệ ra bán và tiếp tục mua các trái khoán đã phát hành
để ngăn chặn giá ngoại tệ tăng. Theo phương pháp này, khi cán cân thanh toán quốc tế bị
thâm hụt, quỹ bình ổn hối đoái sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh
toán, khi ngoại tệ và nhiều, quỹ sẽ tung vàng ra bán thu về đồng tiền quốc gia để thu ngoại tệ
nhằm duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái.
2.2. Lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
2.2.1. Các chế độ tỷ giá hối đoái
- Chế độ tỷ giá hối đoái cố định:
Chế độ đồng giá vng (1880 - 1932): Vàng đóng vai trò là vật ngang giá chung, chỉ
có tiền đúc bằng vàng hoặc dấu hiệu của nó mới có thể đổi lấy nó. Theo đó, đồng tiền của
các nước được đổi trực tiếp ra vàng, tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở so sánh hàm
lượng vàng của các đồng tiền, sự so sánh đó được gọi là ngang giá vàng (gold parity).
Trong chế độ bản vị vàng, khi việc đúc tiền vàng, đổi tiền ra vàng và xuất nhập khẩu
vàng được thực hiện tự do thì tỷ giá hối đoái tách khỏi ngang giá vàng là rất ít vì nó bị giới
hạn bởi các điểm vàng. Thực hiện xuất nhập khẩu vàng sẽ quay quanh "điểm vàng". Giới
hạn lên xuống của tỷ giá hối đoái là ngang giá vàng cộng (hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng
giữa các nước hữu quan. Điểm cao nhất của tỷ giá hối đoái gọi là "điểm xuất vàng" vì vượt
quá giới hạn này, vàng bắt đầu "chảy ra khỏi nước". Điểm thấp nhất của tỷ giá hối đoái là
"điểm nhập vàng" vì xuống dưới giới hạn này, vàng bắt đầu "chảy vào trong nước".
Chế độ bản vị vàng có tính ổn định cao, tiền tệ không bị mất giá, tỷ giá ít biến động,
cán cân thương mại tự động cân bằng. Chế độ này có khả năng tự điều tiết khối lượng tiền tệ
trong lưu thông mà không cần đến sự can thiệp của Nhà nước, do đó nó có tác động tích cực
đối với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn đầu phát triển. Tuy nhiên chế độ bản vị
vàng tồn tại không lâu, đến 1914 nó sụp đổ do nhiều nguyên nhân
Chế độ tỷ giá cố định theo tho ước Bretton Woods (1946 - 1971)
Nhằm ổn định lại sự phát triển thương mại quốc tế và thiết lập một trật tự thế giới mới
sau thế chiến thứ hai, Mỹ, Anh và 42 nước đồng minh đã họp hội nghị tại Bretton Woods
(Mỹ) tháng 7/1944 để bàn bạc xây dựng hệ thống tiền tệ và thanh toán chung. Tại đây 56
nước ký tên hiệp định chấp nhận thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới
(WB) và một chế độ tỷ giá hối đoái mới. Theo chế độ này, các nước cam kết duy trì giá trị
đồng tiền của mình theo đồng USD hoặc theo nội dung vàng trong phạm vi biến động không
quá ± 1% tỷ giá đăng ký chính thức tại quỹ. Nếu các nước tự thay đổi tỷ giá mà không được
sự đồng ý của IMF thì sẽ bị phạt cấm vận. NHTW các nước phải can thiệp vào thị trường
tiền tệ nước mình để giữ cho tỷ giá nước mình không thay đổi bằng cách mua bán đồng
USD.
5
Trong 25 năm độc quyền phát hành tiền tệ, Mỹ đã lợi dụng đồng USD để thu hút của
cải các nơi trên thế giới về tay mình. Hàng trăm tỷ USD được thả lang thang đi khắp các
nước mà không có gì bảo đảm, gây ra lạm phát USD. Chế độ Bretton Woods ngày càng bộc
lộ những hạn chế mà bản thân nó không tự khắc phục được.
Vào những năm 60, bối cảnh kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, khoa học kỹ thuật phát
triển làm cho các nước phục hồi kinh tế. Các nước đã xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ và Mỹ trở
thành nước nhập siêu. Về phía mình, hàng hoá Mỹ không còn sức hấp dẫn như trước làm
cho cán cân thương mại Mỹ thường xuyên thâm hụt, dự trữ vàng ngày càng giảm, nợ nước
ngoài tăng, USD mất giá nghiêm trọng. Các nước khủng hoảng lòng tin với USD, đã chuyển
đổi USD dự trữ ra vàng, làm cho dự trữ vàng của Mỹ giảm sút nhanh chóng. Trước những
diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, tổng thống Mỹ Nixon sau 2 lần tuyên
bố phá giá: Lần 1(tháng8/1971) 1USD = 0,81gram vàng ròng và 42 USD = 1ounce vàng, lần
2 (tháng 3/1973) 1USD = 0,7369 gram vàng ròng và 45 USD = 1 ounce vàng. Đồng USD bị
phá giá (-10%) thì chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods hoàn toàn sụp đổ.
- Chế độ tỷ giá thả nổi (từ năm 1973 đến nay):
Sau thất bại của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods, vào tháng 7/1976, tại hội nghị
Jamaica, các thành viên của IMF đã thống nhất đưa ra những quy định mới cho hệ thống tiền
tệ quốc tế là "tỷ giá linh hoạt" hay "tỷ giá thả nổi" . Theo chế độ mới, tỷ giá được xác định và
vận động một cách tự do theo quy luật thị trường mà cụ thể là quy luật cung - cầu ngoại tệ.
NHTW các nước không có bất kỳ một tuyên bố hay cam kết nào về chỉ đạo, điều hành tỷ
giá.
Ưu điểm
+ Giúp cán cân thanh toán cân bằng: Giả sử một nước nào đó có cán cân vãng lai thâm
hụt khiến nội tệ giảm giá. Điều đó thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cho đến khi cán
cân thanh toán trở nên cân bằng.
+ Đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ.
+ Góp phần ổn định kinh tế, tránh được những cú sốc bất lợi từ bên ngoài, vì khi giá cả
nước ngoài tăng sẽ làm cho tỷ giá tự điều chỉnh theo cơ chế PPP để ngăn ngừa các tác động
ngoại lai.
Nhược điểm:
+ Là nguyên nhân gây nên sự bất ổn do các hoạt động đầu cơ làm méo mó, sai lệch
thị trường, có khả năng gây nên lạm phát cao và tăng nợ nước ngoài.
+ Hạn chế các hoạt động đầu tư và tín dụng do tâm lý lo sợ sự biến động theo hướng
bất lợi của tỷ giá.
- Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý (bán thả nổi):
6
Đây là chế độ tỷ giá hối đoái có sự can thiệp của hai chế độ cố định và thả nổi. Ở đó,
tỷ giá được xác định và hoạt động theo quy luật thị trường, chính phủ chỉ can thiệp khi có
những biến động mạnh vượt quá mức độ cho phép. Có 3 kiểu can thiệp của chính phủ:
+ Kiểu can thiệp vùng mục tiêu: Chính phủ quy định tỷ giá tối đa, tối thiểu và sẽ can
thiệp nếu tỷ giá vượt quá các giới hạn đó.
+ Kiểu can thiệp tỷ giá chính thức kết hợp với biên độ dao động: Tỷ giá chính thức có
vai trò dẫn đường, chính phủ sẽ thay đổi biên độ dao động cho phù hợp với từng thời kỳ.
+ Kiểu tỷ giá đeo bám: Chính phủ lấy tỷ giá đóng cửa ngày hôm trước làm tỷ giá mở
cửa ngày hôm sau và cho phép tỷ giá dao động với biên độ hẹp.
2.2.2 Cơ sở lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
Việc lựa chọn chế độ tỷ giá xoay quanh 2 vấn đề chính : Mối quan hệ giữa các nền
kinh tế quốc gia với cả hệ thống toàn cầu và mức độ linh hoạt của các chính sách kinh tế
trong nước.
Thứ nhất, lựa chọn chế độ tỷ giá là lựa chọn hệ thống mở của hay đóng cửa.Các
phương án lựa chọn hệ thống tỷ giá thiên về hoặc tỷ giá cố định hoặc tỷ giá linh hoạt.Một
quốc gia lựa chọn tỷ giá cố định tức là chấp nhận sự ràng buộc đối với các chính sách kinh tế
quốc gia.Các chính sách kinh tế của quốc gia phải phù hợp với duy trì tỷ giá hối đoái cố
định,vì vậy việc hoạch định chính sách đối nội trở thành ngoại sinh và tuân thủ theo thoả ước
tỷ giá.Từ đó có thể thấy rằng sự lựa chọn này ngang với việc áp đặt các ràng buộc quốc tế
vào các chính sách kinh tế quốc gia.Nói rộng hơn, lựa chọn cơ chế tỷ giá cố định tương
đương với lựa chọn một hệ thống mở cửa,trong đó luôn có sự tương tác giữa các nhân tố
quốc gia và cả hệ thống thế giới.Ngược lại,phương án tỷ giá linh hoạt, về nguyên tắc không
chấp nhận một sự ràng buộc nào vào các chính sách kinh tế đối nội.Các chính sách có tác
động gì đi nữa thì sự giao động tỷ giá sẽ giữ chúng chỉ gây ảnh hưởng trong phạm vi quốc
gia.Và tương ứng với điều đó,kết quả của các chính sách kinh tế nước ngoài dù thế nào đi
chăng nữa thì điều chỉnh tỷ giá sẽ giữ chúng ngoài phạm vi quốc gia.Thực tế, lựa chọn này
giữ cho chính sách quốc gia không bị ràng buộc quốc tế.Nói rộng hơn,lựa chọn cơ chế hối
đoái linh hoạt sẽ tach rời nền kinh tế quốc gia khỏi môi trường quốc tế.
Thứ hai, chúng ta cần quan tâm đến mức độ linh hoạt của các chính sách kinh tế đối
nội.Mức độ này khác nhau rõ ràng giữa việc lựa chọn nột trong hai loại chế độ tỷ giá.Vì tỷ
giá cố định thể hiện sự cam kết áp đặt các ràng buộc đối với các chính sách kinh tế quốc gia,
có nghĩa rằng không thể theo đuổi các chính sách kinh tế đối nội một cách độc lập.Ngược
lại,tỷ giá linh hoạt là một công cụ có thể sử dụng để giữ cho các hoạt động kinh tế của hệ
thống quốc tế không ảnh hưởng tới các chính sách quốc gia.Vì vậy có thể theo đuổi các
chính sách quốc gia mà không cần quan tâm đến thế giới bên ngoài và như vậy đặc thù của
chúng là hệ thống đóng.
7
CHƯƠNG II. VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
1. Sự hình thnh v vận động của tỷ giá cùng chính sách tỷ giá hối đoái trong
giai đoạn trước tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá, tập trung kinh tế
Năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội Đông Âu thiết lập
quan hệ ngoại giao với Việt Nam, đặt nền móng đầu tiên cho việc hình thành các quan hệ
kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các nước. Từ ngày 25/11/1955, tỷ giá chính thức
được quy định giữa đồng Việt Nam(VND) và nhân dân tệ Trung Quốc (CNY) là 1 CNY=
1.470 VND, giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô là 1 SUR = 735VND.
Năm 1977, các nước xã hội chủ nghĩa thoả thuận thanh toán với nhau bằng tiền Rup
chuyển nhượng có hàm lượng vàng quy định là 0,98712 gam trên mỗi đồng Rup chuyển
nhượng. Bên cạnh tỷ giá Nhà nước còn sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ 1SUR=5,64VND
được hình thành từ năm 1958 và được xác định trên cơ sở so sánh giá cả hàng hoá xuất khẩu
của Việt Nam bằng đồng Rup nhân dân tệ với giá hàng hoá đó bằng đồng Việt Nam trong 3
năm 1955, 1956, 1957. Sau khi bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài (1985)
thì vấn đề luồng ngoại tệ bằng Dola Mỹ vào Việt Nam phải được tính và TGHĐ chính thức
giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ đã được xác định một cách chủ quan theo tỷ giá hiện tại
giữa đồng Việt Nam và đồng Rup (năm 1985: 1SUR=18VND và mối tương quan Dola-Rup
xem như tương đương 1:1. Do đó, TGHĐ chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ vào
năm 1985 là 1USD=18VND)
Cũng bắt đầu từ năm này, thị trường ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trường Dola
Mỹ bắt đầu bột phát một cách mạnh mẽ, dòng kiều hối của kiều bào đổ về thay thế cho
những kiện hàng quà biếu mà một phần đáng kể là dưới hình thức bất hợp pháp. Những
lượng lớn Dola Mỹ được cất trữ từ khi miền Nam được giải phóng bởi các tiểu tư sản Sài
Gòn cũ cũng bắt đầu được tung ra ít nhiều.Thứ ba, cùng với việc xoá bỏ ngăn sông cấm chợ
thì dòng chảy hàng buôn lậu qua biên giới cũng gia tăng theo. Mức TGHĐ trên thị trường
chợ đen được hình thành và vận động theo những tín hiệu quy luật thị trựờng đã có một sự
chênh lệch lớn so với tỷ giá chính thức.
Tóm lại, TGHD được xác lập và vận hành ở Việt Nam trong giai đoạn trước tháng
3/1989 là một hệ thống khá phức tạp, được xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch do Nhà
nước quyết định, không xuất phát từ luật thực tại trong nền kinh tế trong và ngoài nước mà
hậu quả là làm cho việc tính toán,phản ánh thu chi ngân sách Nhà nước bị sai lệch, công tác
điều hành ngân sách Nhà nước gặp khó khăn, cản trở các quan hệ kinh tế cả trong và ngoài
nước. Đây cũng là vừa một biểu hiện và cũng vừa là kết quả của một nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung.
8
2. Sự vận động của tỷ giá v chính sách TGHĐ từ tháng 3/1989 đến nay, thời kì
nền kinh tế vận hnh theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1. Giai đoạn từ 1989-1992
Sự bao cấp của Việt Nam từ các thị trường truyền thống Đông Âu và Liên Xô (cũ)
bị gián đoạn khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng dola
Mỹ. Kể từ đó cơ chế tỷ giá ổn định đã được thay thế dần bằng cơ chế Nhà nước điều tiết theo
quan hệ thị trường. Để đi tới một chính sách TGHĐ tự chủ như ngày nay, cơ chế quản lý
ngoại tệ nói chung, quản lý hối đoái nói riêng đã trải qua những điều chỉnh lớn.
Chính trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động của chính sách thả nổi tỷ giá.
Ngày 4/12/1991 giá dola Mỹ trên thị trường tư nhân tại Hà nội và TP Hồ Chí Minh là 14.450
VND/USD . Giá dola trong tháng 12/1990 đã tăng từ 60 đến 80% so với mức giá đầu năm.
Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý ngoại tệ của Nhà Nước đã có nhiều
thay đổi, như chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất cả các
nhóm hàng hoá và duy trì tương đối ổn định các tỷ giá này, hoặc nếu có thay đổi thì cũng chỉ
ở mức nhỏ nhằm ổn định hệ thống giá vật tư và xuất nhập khẩu nên tỷ giá công bố vẫn cách
xa mức giá hình thành trên thị trường.
Năm 1990, giá trị đồng dola vào thời điểm cuối năm đã tăng tới 50% so với đầu năm.
Mức tăng giá USD trong 1991 còn cao hơn. Đến đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải
cách trong việc điều chỉnh tỷ giá ( như buộc các doanh nghiệp có dola phải gửi vào ngân
hàng , bãi bỏ hình thức quy địng tỷ giá theo nhóm hàng ) làm cho giá dola bắt đầu giảm
( cuối năm 1991 tỷ giá VND/USD có lúc lên tới 14500 đến tháng 3/1992chỉ còn 11550
VND/USD và tiếp tục giảm cho đến cuối năm 1992.
2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996
Vào thời điểm cuối năm 1992, can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ khiến tỷ
giá dần ổn định, lượng ngoại tệ đầu cơ trong các doanh nghiệp được tung ra, hướng mạnh
vào kinh doanh xuất nhập khẩu. Một lượng ngoại tệ được chuyển về do người Việt Nam ở
nước ngoài gửi về cho người thân tăng lên khoảng 300-400 triệu USD làm cung ngoại tệ lớn
hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm mạnh. Sự chênh lệch lớn giữa TGHĐ ở
thị trường chính thức và thị trường chợ đen dẫn đến việc các đại lý lợi dụng danh nghĩa của
Nhà nước để buôn bán trục lợi, các ngân hàng không thu mua được lượng ngoại tệ đáng kể
qua nguồn này.
Việc NHNN khống chế chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán là cứng nhắc, làm cho
tỷ giá vận hành thoát ly hoàn toàn quan hệ cung cầu và không khuyến khích các tổ chức tín
dụng hoạt động theo đúng quan hệ nội tại của nó, thực tế không ít các ngân hàng thương mại
đã phá rào.
NHNN cũng tăng cường thực lực kinh tế cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách
tăng mạnh dự trữ ngoại tệ, lập quỹ ổn giá
9
Từ năm 1993-1996, tình hình đồng Dola Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế thường
xuyên có sự biến động mạnh so với các đồng tiền chủ chốt như: Yên Nhật, Mác Đức, NDT
của Trung Quốc …Trong khi đó, đồng Dollar Mỹ lại có sự ổn định trên thị trường Việt Nam,
điều này cho thấy biện pháp can thiệp của NHNN đã phát huy tác dụng. Các kết luận thường
cho rằng: Chính điều này là nguyên nhân gây ra tình trạng thâm hụt lớn trong ngoại thương
của Việt Nam. Sự thâm hụt trong cán cân thương mại của Việt Nam đặc biệt nghiêm trọng
trong 3 năm liên tiếp 1994,1995, 1996, có thể nói phần lớn do tác động trực tiếp của việc
Trung Quốc phá giá mạnh của đồng NDT vào đầu năm 1994. Số liệu thực tế cho thấy, ngay
sau cuộc phá giá kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc (chính ngạch) tăng lên rất nhanh. Nếu
như trong năm 1992 kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là 31,8% USD, chiếm 1,3% tổng
kim ngạch xuất khẩu thì trong các năm 1994, 1995, 1996, con số này lần lượt là 144,2%
triệu USD chiến 2,7%, 793,9 triệu USD chiếm 10,5% và 926,5% triệu USD chiếm 8,8%.
Thực tế đó cũng đã chỉ ra rằng sự điều hành chính sách TGHĐ và chính sách ngoại thương
của Việt Nam trong giai đoạn từ cuối năm 1993 đến đầu năm 1997 đôi khi quá thụ động.
Trong suốt những năm 1993-1995, hoàn toàn không có bất kỳ một điều chỉnh nào trong
chính sách tỷ giá hối đoái nhằm phản ánh hay đối phó tình hình này (điều này phản ánh tính
tự chủ trong chính sách tiền tệ nói chung và trong đó có chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng là
chưa cao).
2.3. Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày 26/2/1999
Ngày 02/7/1997, Thái Lan thả nổi TGHĐ kết thúc gần 14 năm duy trì một chế độ cố
định đã đánh dấu nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á. Cuộc khủng hoảng này có
ảnh hưởng ít nhiều đối với nền kinh tế Việt Nam.
- Thứ nhất, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng: Tạo sức ép giảm giá đồng Việt
Nam trên thị trường ngoại tệ, tác động xấu đến hoạt động giai dịch ngoại tệ, tăng gánh nặng
nợ cho các doanh nghiệp, gây sức ép đối với lãi suất đồng tiền Việt Nam và đe doạ sự mất ổn
định của hệ thống Ngân hàng, tác động đến xuất khẩu. Thực tế cho thấy, đến cuối năm 1997,
hàng loạt các báo đi đều lên tiếng về tình trạng nhập lậu hàng gia tăng mạnh ở các tỉnh biên
giới tây nam.
- Thứ hai , đối với lĩnh vực đầu tư: Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trường hàng hoá
diễn biến phức tạp cùng với dự đoán không tốt trong tương lai tất yếu sẽ làm doanh nghiệp
hạn chế đầu tư và Ngân hàng cũng dè dặt khi cho vay. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã
có xu hướng giảm ngay từ trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng.
- Thứ ba, đối với thu chi ngân sách nhà nước: Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên
liệu tăng lên cùng với sụt giảm của thị trường tiêu dùng lẫn thị trường xuất khẩu đã làm nhiều
doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó sẽ ảnh hưởng xấu đến nguồn thu ngân sách.
- Thứ tư, tăng trưởng dự trữ quốc gia và nợ nước ngoài: Khủng hoảng khu vực đã
ảnh hưởng đến cán cân vãng lai, đầu tư nước ngoài. Từ đó, gây ra khó khăn cho sự phát triển
10
kinh tế nói chung. Tổng cầu, giảm thu nhập và tiêu dùng của cư dân. thị trường suy yếu một
phần sẽ tác động ngay lập tức đến các Ngân hàng thương mại. NHNNN đã có những điều
chỉnh nhỏ, liên tục trong chính sách TGHĐ, nói chung và công tác quản lý ngoại hối nói
riêng nhằm hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng. Nếu trong giai đoạn từ cuối năm
1992 đến 7/1997 chỉ có một lần duy nhất điều chỉnh biên độ giao dịch từ 1% đến 5% vào
ngày 27/2/1997 thì từ tháng 7/ 1997 đến đầu năm 1999 có nhiều lần thay đổi.
2.4. Giai đoạn 26/2/1999 đến nay
Trước ngày 26/2/1999, TGHĐ được NHNN công bố hàng ngày, trên cơ sở đó các tổ
chức tín dụng được phép mua bán trong một biên độ nhất định. Ngoài ra còn tồn tại tỷ giá
chợ đen tạo ra một hệ thống đa tỷ giá phức tạp.
Từ 26/2/1999, TGHĐ chính thức công bố hàng ngày được xác định trên cơ sở bình
quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất
trước đó, đồng thời biên độ giao dịch cũng được rút xuống là ± 0,1%. Đây là một bước đổi
mới rất quan trọng làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường vận động một cách khách quan
phản ảnh đúng hơn các quan hệ cung cầu về ngoại tệ ở trên thị trường.
Song song với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá NHNN Việt Nam cũng đã có
quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất (QĐ số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 2/8/2000
bằng việc bãi bỏ cơ chế điều hành lãi suất cơ bản thay bằng và tổ chức tài chính được quyền
ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng nhưng không được vượt qua mức lãi suất cơ bản
và biên độ quy định trong từng thời kì.
3. Đánh giá vai trò qun lý của NHNN đối với chính sách tỷ giá
3.1. Một số nhận định chung
Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay tuy còn một số hạn chế nhưng rõ ràng đã đem lại
nhiều kết quả tích cực cho nền kinh tế phát triển theo hướng mở cửa hội nhập. Điều đó đặc
biệt có ý nghĩa giữa bối cảnh nền Kinh tế thế giới đầy khó khăn, bởi trong khi nhiều quốc gia
lớn phải vật lộn với thực trạng và nguy cơ suy thoái thì Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng
khá và ổn định. Các nguyên nhân làm tăng tỷ giá thời gian qua là :
- Thứ nhất, đó là hậu quả của nhiều năm điều hành chính sách tỷ giá tách rời quy luật
thị trường trong một thời kỳ đóng cửa quá dài. Do đó đồng nội tệ bị đánh giá cao hơn giá trị
thực của nó.
- Thứ hai, sự mất cân đối giữa cung - cầu về ngoại tệ do giá USD tăng phổ biến trên thị
trường quốc tế (cho đến cuối năm 2001) gây sức ép mạnh mẽ lên tỷ giá trong nước ; hoạt
động XK bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái chung của toàn cầu.
- Thứ ba, tình hình thâm hụt cán cân thanh toán chưa được cải thiện: XK gặp nhiều
khó khăn về thị trường . Nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất là rất cao.
- Thứ tư, cơ chế quản lý nền Kinh tế còn nhiều bất cập: Chính phủ chưa làm tốt công
tác hướng dẫn thị trường; dự trữ ngoại tệ quá mỏng, chưa đủ để điều tiết thị trường ngoại hối
11
trong nước. Nước ta có điểm xuất phát thấp, tụt hậu nhiều năm trên con đường hội nhập nên
những khó khăn khi thực hiện mở cửa nền kinh tế không phải chỉ là vấn đề của riêng tỷ giá,
thế và lực của ta còn rất yếu.
- Thứ năm, đô la hoá ngày càng diễn biến phức tạp do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là
tâm lý găm giữ đồng USD chờ tiếp tục lên giá của dân chúng và tâm lý sợ rủi ro tỷ giá, đây là
thói quen có tính chất lịch sử do nhiều năm tiền VND liên tục mất giá để lại.
Chính sách tỷ giá hối đoái hiện hành về cơ bản là hợp lý. Tỷ giá có tính chất “bò
trườn”, thực chất có thể coi là đang phá giá Đồng Việt Nam dần dần theo diễn biến thị
trường mà không gây nên những cú sốc về tỷ giá. Đối với một nền Kinh tế mới hội nhập như
Việt Nam thì một chính sách thì chính sách tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước là phù
hợp, vì những điều kiện để áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi chưa xuất hiện đầy đủ, trong đó có
các yếu tố sau.
+ Các doanh nghiệp chưa thích ứng với sự biến động thường xuyên của thị trường ,
năng lực quản lý tài chính chưa tốt.
+ Hệ thống NHVN đang trong quá trình đổi mới còn nhiều yếu kém.
+ Thị trường hối đoái đang trong giai đoạn sơ khai , dự trữ ngoại tệ Nhà nước còn thấp.
+ NHNN chưa có sự phối hợp chặt chẽ các chính sách và các biệp pháp điều hoà cung
ứng tiền tệ trong nước , các cá nhân, tổ chức thanh toán qua NH còn ở mức độ thấp.
+ Việc điều chỉnh tỷ giá đúng đắn và hiệu quả của NHNN còn phụ thuộc rát lớn vào
chính sách huy động và sử dụng vốn, nhất là vốn nước ngoài.
Tuy nhiên, xét về lâu dài, chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà Nước phải
được giảm dần theo thời gian, để tiến tới áp dụng một chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn.
3.3. Thách thức v thnh công trong điều hnh chính sách tỷ giá của NHNN
Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới của Việt Nam từ tháng 11/2006 là một
mốc lịch sử quan trọng đem lại cho Việt Nam cả cơ hội và thách thức. Việc hội nhập với chủ
trương tự do hoá tài chính sẽ cho phép các luồng vốn di chuyển tự do vào Việt Nam với chi
phí rẻ hơn, góp phần phát triển thị trường vốn trong nước.
Từ cuối năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Mỹ khiến luồng vốn này có
dấu hiệu chững lại và chảy khỏi Việt Nam. Việc luồng vốn nước ngoài chảy vào và đổ ra
nhanh chóng với khối lượng lớn đã gây không ít khó khăn thách thức cho việc điều hành
chính sách tiền tệ và tỷ giá của NHNN. Diễn biến thị trường tiền tệ từ cuối năm 2008 thường
xuyên biến động và đổi chiều nhanh chóng từ trạng thái dư cung ngoại tệ năm 2007, thị
trường tiền tệ khan hiếm tiền đồng sang khan hiếm ngoại tệ và dư thừa vốn khả dụng VND
năm 2009 và đầu năm 2010, thị trường chứng khoán bùng nổ mạnh mẽ trong năm 2006-
2007, sụt giảm mạnh trong năm 2008, hồi phục ấn tượng năm 2009 và đi ngang trong năm
2010. Trong bối cảnh đó, NHNN thường xuyên phải có động thái can thiệp trên hai thị
12
trường này trên cả hai phương diện: (i) ban hành chính sách; và (ii) bơm hút tiền đồng và
ngoại tệ trên hai thị trường.
Nhận thức được những thách thức và khó khăn trong điều hành chính sách tiền tệ, đặc
biệt là trong điều hành tỷ giá trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, từ bước nới lỏng giao
dịch vốn, thời gian qua, NHNN đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, dưới sự chỉ đạo sát
sao của Chính phủ, đã có những thành công nhất định trong việc điều hành tỷ giá, góp phần
bình ổn thị trường ngoại hối là nhân tố quan trọng trong việc bình ổn kinh tế vĩ mô. Cụ thể:
- Trong bối cảnh dư cung ngoại tệ năm 2007, trước sức ép lên giá VND, gây ảnh
hưởng xuất khẩu, NHNN, vừa tranh thủ mua ngoại tệ vào để tăng dự trữ ngoại hối vừa chủ
động hút VND khỏi lưu thông qua kênh thị trường mở và bán tín phiếu của NHNN. Quyết
định mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối năm 2007 là hoàn toàn hợp lý vì thị trường dư
cung ngoại tệ giai đoạn này chỉ là ngắn hạn và không bền vững do ngoại tệ dư thừa là từ
nguồn ngoại tệ các nhà đầu tư nước ngoài đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam là luồng
tiền nóng có thể chảy ra bất cứ lúc nào, không bắt nguồn từ xuất khẩu như trường hợp của
Trung Quốc. Đồng thời, để giảm áp lực tăng lạm phát, khi đã mua được một lượng ngoại tệ
tương đối, NHNN đã chủ động điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng và điều chỉnh biên
độ tỷ giá đầu năm 2008 theo hướng sát hơn với tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường,
giảm áp lực bán ngoại tệ cho NHNN.
- Năm 2009 và quý I/2010 là một giai đoạn đầy sóng gió với NHNN trong điều hành
tỷ giá. Tình trạng dư cung ngoại tệ đã đảo chiều thành khan hiếm ngoại tệ. Cán cân thanh
toán tổng thể năm 2009 thâm hụt ở mức trên 8 tỷ USD. Tình hình khan hiếm ngoại tệ càng
trầm trọng hơn khi mà tình hình găm giữ ngoại tệ trong tổ chức và dân cư trở nên phổ biến.
Lượng ngoại tệ của Bộ Tài chính bán cho NHNN sụt giảm mạnh. Trước tình hình đó,
NHNN đã liên tục phải đưa ra các quyết sách đầy khó khăn như: (i) nới lỏng biên độ từ 3%
lên 5% vào những tháng đầu năm 2009; (ii) bán ngoại tệ cho các NHTM để phục vụ cho các
nhu cầu thiết yếu trong quí II, III/2009 và đặc biệt là can thiệp bán với quy mô lớn trên diện
rộng vào cuối năm 2009 và đầu năm 2010 kết hợp điều chỉnh tăng 2 lần với mức tăng khá
lớn (trên 8%); (iii) đồng thời triển khai việc yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty lớn bán ngoại
tệ cho NHTM; (iv) đưa ra quy định về trần huy động ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế là
1% (là đối tượng có số dư ngoại tệ lớn); (v) điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngoại tệ; (vi)
tăng lãi suất cơ bản VND nhằm tăng sức hấp dẫn VND, góp phần hạn chế tình trạng găm giữ
ngoại tệ của tổ chức và kéo theo là cá nhân. Ngoài ra, NHNN tăng cường đàm phán, giải
ngân hàng loạt các khoản vay song phương và đa phương như các khoản vay với Chính phủ
Nhật Bản, WB, ADB, tăng cường công tác tuyên truyền, cung cấp thông về dự trữ ngoại
hối.
- Với vai trò là cơ quan đầu mối lập bảng cán cân thanh toán quốc tế, nhận thức được
tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai ở mức độ lớn và kéo dài sẽ gây áp lực giảm quy mô dự
13
trữ ngoại hối nhà nước trong dài hạn và áp lực biến động tỷ giá, NHNN đã chủ động phối
hợp với Bộ Công thương trình Chính phủ các giải pháp hạn chế nhập siêu trong năm 2009 và
năm 2010 như tăng thuế hàng xa xỉ, không thiết yếu, xây dựng danh mục hàng khuyến khích
xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, chỉ can thiệp bán ngoại tệ cho các mặt hàng thiết yếu, có
các giải pháp hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu, rà soát lại hiệu quả sử dụng vốn của các dự án FDI,
đề nghị Bộ Tài chính có giải pháp quản lý hiệu quả dòng vốn đầu tư gián tiếp theo hướng
phát triển thị trường chứng khoán lành mạnh và bền vững
Do vậy, một số quan điểm được nêu trên một số trang báo hay tại các cuộc hội thảo
cho rằng: (i) tỷ giá USD/VND bị duy trì ổn định khá lâu; hay (ii) NHNN thường chạy theo
sự biến động tỷ giá thị trường tự do; hoặc (iii) NHNN chỉ dựa trên tỷ giá bình quân liên ngân
hàng khi công bố tỷ giá mà không tính các yếu tố vĩ mô như lạm phát, cán cân thanh toán và
tình trạng nợ nước ngoài của quốc gia là chưa phù hợp với thực tế điều hành chính sách tỷ
giá của NHNN trong thời gian qua.
Trong thời gian tới, với những thay đổi trong Luật NHNN và Luật Các tổ chức tín
dụng mới được Quốc hội thông qua, với các giải pháp đồng bộ tiếp tục được triển khai như:
(i) khuyến khích và thúc đẩy khu vực xuất khẩu và giảm tỷ trọng hàng nhập khẩu trong hàng
xuất khẩu; (ii) rà soát lại hiệu quả các dự án FDI, đề ra các giải pháp để giảm ICOR trong
khu vực FDI, giảm tỷ trọng đầu tư FDI vào các lĩnh vực có tính đầu cơ cao như bất động sản,
khách sạn, năng lượng, khuyến khích vào các khu vực xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động;
(iii) tăng tỷ lệ vay vốn bằng tiền mặt trong các khoản vay ODA; (iv) giám sát chặt chẽ luồng
vốn ngắn hạn, có các giải pháp huy động các luồng vốn nước ngoài đầu tư dài hạn trên thị
trường chứng khoán Việt Nam; (v) thường xuyên tuyên truyền và công bố thông tin vĩ mô
quan trọng nhằm hạn chế tình trạng đô la hoá sẽ góp phần tăng nguồn cung ngoại tệ cho thị
trường và tăng quy mô dự trữ ngoại hối bền vững trong tương lai cũng như góp phần bình ổn
thị trường ngoại hối.
Ngoài ra, với việc tiếp tục đánh giá được cụ thể vai trò hỗ trợ xuất khẩu của tỷ giá,
mối liên hệ qua lại với các chỉ số vĩ mô như lạm phát, vay nợ nước ngoài, tăng trưởng kinh
tế, theo dõi sát sao tình hình kinh tế trong và ngoài nước, diễn biến tình hình cung cầu ngoại
tệ trên thị trường, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương và Bộ Tài chính trong công tác điều
hành tỷ giá, NHNN sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ
mô, là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế bền vững trong tương lai.
- Những kết quả đã đạt được trong việc ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ 8 tháng
đầu năm 2013
Trong 8 tháng đầu năm 2013, bám sát mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và chỉ đạo
của Chính phủ, NHNN đã thực hiện đồng bộ các biện pháp ổn định tỷ giá và thị trường ngoại
tệ, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hỗ trợ cho việc thực thi chính sách tiền tệ,
góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
14
Một số biện pháp quan trọng cho thấy sự chủ động của NHNN trong việc điều hành
chính sách quản lý tỷ giá và thị trường ngoại tệ như công khai ngay từ đầu năm định hướng
tiếp tục duy trì ổn định tỷ giá trong năm 2013 với mức biến động 2 - 3% nhằm ổn định tâm
lý thị trường, định hướng kỳ vọng tỷ giá và củng cố niềm tin của người dân vào VND.
Bên cạnh đó, NHNN đã điều chỉnh tăng 1% tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ mức
20.828 VND/USD lên mức 21.036 VND/USD kể từ ngày 28/6/2013, đồng thời điều chỉnh
giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng
(TCTD), đảm bảo phù hợp với diễn biến cung cầu ngoại tệ, các cân đối vĩ mô, diễn biến cán
cân thanh toán quốc tế, chính sách điều hành lãi suất VND và tiếp tục khuyến khích người
dân nắm giữ VND, giảm nắm giữ ngoại tệ.
Việc điều hành linh hoạt tỷ giá mua vào USD của NHNN đã khuyến khích các
TCTD bán ngoại tệ cho NHNN để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và điều chỉnh linh hoạt tỷ
giá bán ra để can thiệp thị trường phù hợp với mục tiêu ổn định thị trường. Đồng thời,
NHNN đã kết hợp chặt chẽ việc điều hành chính sách quản lý tỷ giá và thị trường ngoại tệ
với các công cụ chính sách tiền tệ để điều hòa lượng tiền VND cung ứng khi mua ngoại tệ
tăng dự trữ ngoại hối nhà nước nhằm không gây áp lực lên lạm phát và không ảnh hưởng
đến điều hành tỷ giá.
Cùng với việc theo dõi sát diễn biến thị trường và thực hiện các biện pháp điều hành
cần thiết khi thị trường có biến động bất thường như thời điểm từ cuối tháng 2 đến đầu tháng
3 và từ giữa tháng 5 đến hết tháng 7, NHNN đã kịp thời khẳng định quyết tâm duy trì ổn định
thị trường ngoại tệ và tỷ giá theo đúng định hướng đã công bố từ đầu năm và cung cấp thông
tin đầy đủ trên Website NHNN và các phương tiện thông tin đại chúng về các giải pháp điều
hành của NHNN để ổn định tâm lý thị trường. Đồng thời, yêu cầu một số NHTM lớn tăng
cường bán ngoại tệ can thiệp trên thị trường và NHNN sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp với
mức tỷ giá hợp lý; chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tăng cường công tác quản
lý, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm nhằm ổn định thị trường.
Nhờ triển khai đồng bộ và quyết liệt các giải pháp ổn định thị trường, trong 8 tháng
đầu năm 2013, thị trường ngoại tệ và tỷ giá về cơ bản diễn biến ổn định, phù hợp với diễn
biến cung cầu ngoại tệ trên thị trường và góp phần thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hạn chế nhập siêu và tăng
dự trữ ngoại hối nhà nước, chuyển dần quan hệ huy động - cho vay ngoại tệ sang quan hệ
mua - bán ngoại tệ, đảm bảo an toàn hệ thống TCTD, tăng niềm tin vào đồng Việt Nam.
Những biến động bất thường trong một số thời điểm đã được NHNN can thiệp kịp thời nên
thị trường ngoại tệ và tỷ giá đã nhanh chóng ổn định trở lại.
15
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ HỐI CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
1. Định hướng về điều hnh chính sách tỷ giá của Ngân hng Nh nước
Như ta đã biết, một chế độ tỷ giá cố định sẽ tốt hơn cho các mục tiêu ổn định giá cả,
thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu (mặc dù không đồng nghĩa với việc thu hút mạnh vốn
đầu tư nước ngoài và cân bằng Ngoại thương). Trong khi đó, một chế độ tỷ giá thả nổi dù có
khả năng đương đầu với những cú sốc có nguồn gốc từ thị trường hàng hóa, giúp cho cân
bằng Ngoại thương lại có thể là nguồn gốc của những cơn siêu lạm phát và tình trạng tăng nợ
nước ngoài. Mỗi chế độ trên đều có những ưu, nhược điểm riêng mà thực tiễn đã chỉ ra rằng:
nếu chỉ dựa vào một trong hai thì sớm hay muộn, nền Kinh tế cũng phải trả một giá đắt.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể rút ra định hướng lâu dài cho chính sách tỷ giá
của Việt Nam là :
- Trong giai đoạn đầu ( 8/2001), thực hiện chính sách tỷ giá thấp để khuyến khích cho
việc nhập khẩu các công nghệ sản xuất hiện đại, phát triển các mặt hàng xuất khẩu .
- Bên cạnh đó thực hiện chính sách nâng cao chi tiêu trong nước(kích cầu) bằng hàng
hoá do trong nuức sản xuất ra và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng .
- Khi nền kinh tế đã vững mạnh, thoát khỏi sự lệ thuộc vào hàng hoá nhập khẩu thì
thực hiện chính sách tỷ giá cao để khuyến khích xuất khẩu. Việc XK tăng lên sẽ hạn chế tiêu
dùng trong nước vì giá cảc sẽ tăng lên nhưng sẽ tạo ra sự cân bằng đối ngoại , cân bằng cán
cân thanh toán quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam đang duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước là
phù hợp với tình hình đất nước , tuy nhiên ràng buộc lớn nhất của nó là mức dự trữ ngoại tệ
của Nhà Nước quá eo hẹp. Về dài hạn nó sẽ tiếp tục hoàn thiện thêm nếu được tăng thêm
tính linh hoạt, qua đó qui luật cung – cầu phát huy tác dụng rõ nét hơn. Chính vì vậy, chúng
ta phải nhanh chóng đưa ra các giải phát nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động XK, tăng mức
dự trữ ngoại tệ trong nước để từ đó Nhà nước có thêm sức mạnh điều hành chính sách tỷ giá
theo hướng tăng tính linh hoạt và giảm bớt mức chênh lệch kinh niên giữa cung và cầu về
ngoại tệ trong nước.
2. Một số gii pháp nâng cao hiệu qu điều hnh
-Thứ nhất, Chính phủ cần quan tâm sát sao và đầu tư mạnh cho khâu nghiên cứu, tổ
chức thị trường; tổ chức các ngành nghề xuất khẩu thành các hiệp hội; đào tạo cán bộ nghiên
cứu có năng lực, có khả năng khai thác và cung cấp thông tin thị trường, thậm chí có thể bán
thông tin cho các hiệp hội ngành xuất khẩu. Một khi đã tổ chức tốt các hiệp hội ngành sản
xuất và xuất khẩu thì chi phí để mua những thông tin thị trường là thấp nếu tính bình quân
trên số thành viên của hiệp hội thay vì những tổn thất hiện tại do quá thiếu thông tin. Song
16
song với đó phải tổ chức thu mua giữ giá, xây dựng kho bãi bảo quản hàng. Điều này là cực
kỳ cần thiết cả về ngắn và dài hạn vì đặc trưng của hàng hóa XK Việt Nam là hàng nông sản
sơ chế, khó bảo quản, dễ bị ép giá trong nhiều trường hợp. Đối với bên ngoài, cần tham gia
tích cực vào các tổ chức quốc tế theo nhóm mặt hàng, như Tổ chức các nước XK cà phê, XK
cao su hoặc phải có thoả thuận trao đổi thông tin đa chiều để tăng uy tín quốc tế, tránh tình
trạng “vừa là kẻ phá, vừa là nạn nhân của đổ vỡ thị trường”. Ngoài ra, để hàng hoá có sức
cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã, chủng
loại sản phẩm, giá cả rẻ , giữ uy tín trên thị trường quốc tế. Nhóm biện pháp trên tuy không
phải biện pháp về tỷ giá, lại tốn nhiều chi phí nhưng nó giải quyết được tận gốc vấn đề của
hoạt động XK trong môi trường “nền Kinh tế thông tin” mở cửa. Một khi hoạt động XK
thoát khỏi vòng luẩn quẩn của tình trạng thiếu tổ chức như hiện nay thì nguồn thu, và do đó
dự trữ ngoại tệ sẽ không còn quá eo hẹp, Chính phủ có đủ lực để thực thi những chính sách tỷ
giá linh hoạt hơn.
- Thứ hai, Thực hiện chính sách đa ngoại tệ : Hiện nay, trên thị trường , mặc dù
USD có ưu thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác , song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng
một loại ngoại tệ duy nhất sẽ làm cho tỷ giá bị ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi
có sự biến động về giá cả USD trên thị trường thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ
giá giữa USD và VND, mà thông thường là ảnh hưởng bất lợi. Hiện nay, có nhiều loại ngoại
tệ có giá trị thanh toán quốc tế như: EURO(EMU), JPY(Nhật), CAD( Canada), GBP( Bảng
Anh) …Điều này tạo điều kiện cho ta có thể thực hiên chính sách đa ngoại tệ trong thanh
toán quốc tế, từ đó có thể lựa chọn những ngoại tệ tương đối ít biến động về tỷ giá hoặc có
quan hệ mua bán lớn để thực hiện các khoản thanh toán lớn.
-Thứ ba, cần tranh thủ sử dụng nguồn kiều hối chuyển về nước hàng năm. Hiện nay
có hơn 2,5 triệu kiều bào mỗi năm gửi về nước gần 2 tỷ USD. Số ngoại tệ này do chưa quản
lý tốt, là nguồn cung cho hoạt động thị trường hối đoái ngầm, gây khó khăn cho Chính phủ.
Có 2 hướng quản lý có thể tiến hành song song:
a. Quy định đổi ngay ngoại tệ chuyển về cửa khẩu theo tỷ giá có ưu đãi đối với
trường hợp không có dự án kinh doanh (chỉ để tiêu dùng). Thân nhân của Việt kiều khi lĩnh
tiền gửi về sẽ được nhận bằng VND theo tỷ giá mua của NHTM ngày hôm đó cộng thêm tỷ
lệ ưu đãi 0,1% chẳng hạn. Mục đích của biện pháp này : một là làm giảm cơn khát của
NHTM đối với ngoại tệ mua vào, từ đó có thể bán ra nhiều hơn, hai là Nhà Nước qua đó tăng
phần dự trữ ngoại tệ, ba là làm giảm đáng kể nguồn cung cho thị trường tự do.
b. Khuyến khích bằng thuế thu nhập doanh nghiệp, đơn giản thủ tục đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh bằng vốn kiều hối. Chính sách khuyến khích này đã được thực hiện đối
với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài thì cũng áp dụng được đối với công ty hoạt động
17
kinh doanh bằng vốn kiều hối. Thêm vào đó, cần khuyến khích động viên lòng yêu nước của
các Việt kiều để họ xoá bỏ mặc cảm đầu tư về trong nước.
- Thứ ba, đẩy mạnh và quản lý chặt hoạt động xuất khẩu lao động, không để tình
trạng thiếu tổ chức (có cả hành vi lừa đảo) như hiện nay tiếp diễn. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, số lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc ở nước ngoài là hơn 300.000 người, hàng
năm gửi về nước 1,5 tỷ USD; riêng tiền ký kết hợp đồng Nhà nước đã thu hơn 300 triệu
USD. Có thể nói đây là nguồn thu không nhỏ của Ngân sách, lại phù hợp với chủ trương
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nước nhà bởi số lao động XK sau một vài năm làm việc trở
về sẽ mang theo trình độ kỹ năng lao động, kinh nghiệm làm việc hiện đại để phục vụ đất
nước. Vì vậy, hợp đồng XK lao động cần nghiên cứu kỹ lưỡng, có sự bảo đảm an toàn cho
người lao động, không chỉ đưa họ đi mà còn tạo điều kiện việc làm ổn định cho họ. Số ngoại
tệ do nguồn này gửi về cũng có thể áp dụng biện pháp kết hối ngay tại cửa khẩu với tỷ giá ưu
đãi như đối với nguồn kiều hối.
-Thứ tư, giữ nguyên tỷ lệ kết hối (30%) và biên độ dao động tỷ giá như hiện nay
(±0,25%), đồng thời theo dõi, phân tích thường xuyên thông tin thị trường ngoại hối trong và
ngoài nước để điều chỉnh dần theo hướng tự do hơn khi điều kiện dự trữ và các yếu tố khác
cho phép.
18
KẾT LUẬN
Nến kinh tế Việt Nam đang chuyển mình nhanh chóng theo hướng nền kinh tế hướng
ngoại thông qua một loạt các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài mua lại doanh nghiệp trong nước ,chính sách hỗ trợ xuất khẩu…Các rào
cản đối với sự di chuyển vốn giữa Việt Nam và thế giới sẽ dần được xoá bỏ . Điều này sẽ trở
thành hiện thực vào thời điểm 2006 khi Việt Nam chính thức tham gia khối thương mại tự do
Asian .Do vậy, tỷ giá hối đoái đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong thanh toán quốc tế cũng
như trong nhiều mặt của đời sống Kinh tế - Xã hội.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có những bước đi khá đúng đắn trong việc thực
hiện chính sách tỷ giá, góp phần không nhỏ vào thành tựu tăng trưởng và ổn định Kinh tế.
Tuy nhiên, khi thực tiễn thay đổi nhanh chóng như hiện nay, không một chính sách nào có
thể tồn tại mãi mà không có những điểm bất cập. Vì vậy, các nhà kinh tế đã dày công nghiên
cứu để đưa ra các kiến nghị khác nhau, nhằm xây dựng một chính sách tỷ giá hối đoái hiệu
quả cho nền Kinh tế đất nước.
Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, người thực hiện không có tham vọng gì hơn
ngoài việc tham gia tìm hiểu ban đầu về chế độ tỷ giá hiện hành ở Việt Nam, từ đó đưa ra
một số ý kiến xây dựng nhằm góp phần nhỏ bé, hoàn thiện thêm chính sách tỷ giá hối đoái
cho phù hợp với tình hình đất nước. Với những thành công ban đầu của hơn 10 năm qua và
từ kinh nghiệm của các nước đi trước, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng Việt Nam sẽ thành
công trong việc xác lập một chính sách tỷ giá linh hoạt, phù hợp nhất, góp phần đưa đất nước
tăng trưởng bền vững và nâng cao vị thế trên trường thế giới./.
19
LỜI MỞ ĐẦU Error: Reference source not found
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
HỐI ĐOÁI Error: Reference source not found
1. Tỷ giá hối đoái Error: Reference source not found
Khái niệm 2
1.2. Các loại tỷ giá thông dụng trên thị trường Error: Reference source not found
1.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở Error: Reference source not found
1.4. Những nhân tố tác động tới tỷ giá 3
2. Chính sách tỷ giá hối đoái v những tiền đề, mục tiêu cho việc hoạch định chính
sách tỷ giá hối đoái. 3
2.1. Chính sách tỷ giá hối đoái . 3
2.1.1. Khái niệm 3
2.1.2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái 4
2.1.3. Các công cụ của chính sách tỷ giá hối đoái 4
2.2. Lựa chọn chế độ TGHĐ 5
2.2.1. Các chế độ tỷ giá hối đoái 5
2.2.2 Cơ sở lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái 7
CHƯƠNG II. VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ 8
1. Sự hình thnh v vận động của tỷ giá cùng chính sách TGHĐ trong giai đoạn trước
tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá , tập trung kinh tế 8
2. Sự vận động của tỷ giá v chính sách TGHĐ từ tháng 3/1989 đến nay, thời kì nền
kinh tế vận hnh theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa 8
2.1. Giai đoạn từ 1989-1992. 9
2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996 9
2.3. Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày 26/2/1999 10
2.4. Giai đoạn 26/2/1999 đến nay 11
3.Đánh giá vai trò quản lý của NHNN đối với điều hành chính sách tỷ giá……………….11
1. Một số nhận định chung Error: Reference source not found
CHƯƠNG III. VAI TRÒ CỦA NHNN TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Error: Reference source
not found
2. Định hướng về điều hnh chính sách tỷ giá của NHNNVN . Error: Reference source
not found
Thách thức và thành công trong điều hành chính sách tỷ giá của NHNN Error: Reference
source not found
3. Một số gii pháp Error: Reference source not found
KẾT LUẬN
20