Vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ
giúp con trong gia đình
Phạm Thị Duyên
Trường Đại học KHXH&NV
Luận văn ThS. Chuyên ngành: Xã hội học; Mã số: 60 31 30
Người hướng dẫn: TS. Mai Thị Kim Thanh
Năm bảo vệ: 2013
Abstract: Mô tả về nhận thức của Người cao tuổi người cao tuổi về hoạt
động trợ giúp con trong gia đình. Làm rõ những công việc trợ giúp chính của
người cao tuổi trong gia đình. Phân tích các nhân tố cơ bản quyết định đến
sự tham gia của người cao tuổi vào các hoạt động trợ giúp con trong gia
đình.
Keywords: Người cao tuổi; Gia đình; Xã hội học
Content
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 9
1. Lý do chọn đề tài 9
2.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 10
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 13
4. Câu hỏi nghiên cứu 13
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 13
6. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 14
7. Giả thuyết nghiên cứu 14
8.Phƣơng pháp nghiên cứu 15
9.Khung lý thuyết 18
19
NỘI DUNG CHÍNH 20
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 20
1.1. Những khái niệm công cụ 20
1.1.1. Khái niệm vai trò xã hội 20
1.1.2. Khái niệm ngƣời cao tuổi 21
1.1.3. Khái niệm gia đình 22
1.2 Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu 24
1.2.1 Lý thuyết cấu trúc- chức năng 24
1.2.2 Lý thuyết xã hội hoá 26
1.2.3 Lý thuyết về vai trò 27
1.2.4 Lý thuyết sự chọn lựa hợp lý của Coleman, Friedman và Hechter 29
1.3 Vài nét về địa bàn nghiên cứu 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TRỢ GIÚP CON TRONG GIA ĐÌNH Ở
THÀNH PHỐ THANH HÓA CỦA NGƢỜI CAO TUỔI 38
5
2.1. Nhận thức của NCT về hoạt động trợ giúp con trong gia đình 38
2.2.Hoạt động trợ giúp con của ngƣời cao tuổi 41
2.2.1 Hoạt động trợ giúp trực tiếp 41
2.2.2 Hoạt động trợ giúp gián tiếp 45
2.2.3 Mức độ tham gia hoạt động trợ giúp 48
CHƢƠNG 3: CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN ẢNH HƢỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG
TRỢ GIÚP CON CỦA NGƢỜI CAO TUỔI 56
3. 1Các nhân tố tác động 56
3.1.1 Cấu trúc gia đình 56
3.1. 2 Những đặc điểm tâm sinh lý của NCT 60
3.1.3 Những đặc điểm nhân khẩu xã hội của NCT 62
3.1. 4 Hoạt động của Hội NCT và các cơ quan đoàn thể 66
3.1.5 Chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về NCT 69
3.2 Hệ quả từ sự trợ giúp của Ngƣời cao tuổi 70
3.2.1 Đối với con cháu 72
3.2.2 Đối với NCT 76
3.2.3 Đối với xã hội 83
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 86
1. Kết luận 86
2. Khuyến nghị 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN 92
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tính đến năm 2011, tỷ lệ NCT Việt Nam chiếm 9,9% dân số(Tổng cục thống kê (2012),
Điều tra biến động dân số - kế hoach hóa gia đình 01/4/2012) Điều này cho thấy Việt Nam đã
bước vào giai đoạn “ già hóa dân số”- giai đoạn mà nhiều người cho rằng có ảnh hưởng không
nhỏ tới sự phát triển kinh tế- xã hội của một Quốc gia. Tuy nhiên, với nét đặc thù riêng của Văn
hóa Việt, NCT vẫn chiếm một vị trí và đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cả gia đình và
ngoài xã hội. Trong gia đình, họ là điểm tựa vững trãi, là “kho” kinh nghiệm sống quý báu và
với bên ngoài xã hội, họ không chỉ là một lực lượng chính trị, xã hội ngày càng đông đảo tham
gia vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong địa phương, mà còn là nguồn lực quý giá
trong sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân dân tộc, góp phần thúc đẩy sự nghiệp
đổi mới đất nước và giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc gia.
Việc nghiên cứu về vai trò của người cao tuổi trong hoạt động trợ giúp con cái là một vấn
đề hết sức cấp thiết. Nó không chỉ cho chúng ta một cái nhìn về hoạt động trợ giúp của một
nhóm xã hội – nhóm mà trong xã hội không ít người còn nghi ngờ về sự đóng góp của họ, thậm
chí có người còn cho rằng đó chỉ là những người ăn theo, những người hay gây ra những khó
chịu cho con cái do sự khác biệt về hệ giá trị sống, mà còn hình thành nên một cái nhìn tổng
quan, toàn diện về họ. Điều này đòi hỏi phải được nhìn nhận một cách khoa học và hợp lí dười
góc độ xã hội học. Đây cũng chính là ý tưởng gợi nên trong tôi hướng nghiên cứu đề tài: “Vai
trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ giúp con trong gia đình ở Thành phố Thanh
Hóa (Qua nghiên cứu tại phường Tân Sơn, xã Đông Lĩnh, Thành phố Thanh Hóa).
2.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Ở Việt Nam, những nghiên cứu xã hội học về NCT mới chỉ được bắt đầu vào những năm
1990 khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường và khi tỷ lệ NCT trong dân số có xu hướng tăng nhanh. Các cuộc điều tra nghiên cứu tập
trung chủ yếu vào những nội dung như: quy mô dân số NCT; cơ cấu dân số NCT; về tình trạng
sức khoẻ, bệnh tật, việc làm, thu nhập, điều kiện sinh hoạt, mức sống của NCT; chăm sóc sức
khoẻ NCT; phát huy vai trò của NCT. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã góp phần cung
cấp những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách xã hội đối với NCT. Đáng
chú ý là các công trình sau đây: Nghiên cứu cơ sở thực tiễn và lý luận xây dựng chính sách xã
hội với người già ở Việt Nam (Vụ các vấn đề xã hội của Quốc hội, 2000); Nghiên cứu điều tra
thực trạng thu nhập và mức sống của NCT Việt Nam (Hội NCT Việt Nam, 2005); Trong miền
an sinh xã hội; Nghiên cứu về tuổi già Việt Nam (Bùi Thế Cường, 2005) Nghiên cứu một số đặc
trưng kinh tế - xã hội và đánh giá thử nghiệm mô hình chăm sóc sức khoẻ nâng cao đời sống
của NCT (Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, 2005); Thực trạng và các giải pháp nâng cao
chất lượng cuộc sống của phụ nữ cao tuổi (Hội LHPN Việt Nam, 2005); Chăm sóc và phát huy
4
vai trò NCT trong sự nghiệp đổi mới (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, 1999), NCT và
những vấn đề đặt ra đối với chính sách xã hội (Bộ Lao động-TB và Xã hội, 1999) . Một số vấn
đề cơ bản trong chính sách xã hội đối với NCT (Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2008-2009);
Thực trạng đời sống của NCT các dân tộc bản địa Tây Nguyên (Viện nghiên cứu NCT Việt
Nam, 2006); Thực trạng đời sống của NCT từ 80 trở lên (Viện nghiên cứu NCT Việt Nam,
2007); Thực trạng sức khỏe và bệnh tật của NCT Việt Nam (Viện nghiên cứu NCT Việt Nam,
2008); Thực trạng NCT tham gia khôi phục và truyền nghề cho thế hệ trẻ Việt Nam (Viện
nghiên cứu NCT Việt Nam, 2010); Thực trạng NCT tham gia xóa đói, giảm nghèo (Viện nghiên
cứu NCT Việt Nam, 2011)…
Mỗi một nghiên cứu đều hướng đến người cao tuổi, đi sâu vào đời sống của họ, phân
tích nhiều vấn đề. Tuy nhiên, về khía cạnh vai trò trợ giúp con cái của người cao tuổi thì cho
đến nay, chưa ghi nhận thấy có một công trình nghiên cứu riêng biệt nào về vai trò của người
cao tuổi đối với hoạt động trợ giúp con trong gia đình. Chính ở điều này đề tài đã thể hiện
những đóng góp mới qua nỗ lực tìm hiểu về vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ
giúp trong gia đình dưới góc độ xã hội học, vận dụng lý thuyết xã hội học vào việc phân tích
những hoạt động trợ giúp của người cao tuổi trong gia đình hiện nay.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
3.1 Ý nghĩa lí luận.
Đề tài nghiên cứu vận dụng một số lý thuyết, các khái niệm xã hội học nói chung và
xã hội học gia đình nói riêng vào tìm hiểu, mô tả và phân tích vai trò của NCT đối với hoạt
động trợ giúp con trong gia đình và qua đó đóng góp thêm những phát hiện có tính quy luật các
khái niệm, quan điểm trong lý luận về vai trò…
3.2 Ý nghĩa thực tiễn.
Đề tài nghiên cứu này có các ý nghĩa thực tiễn như sau:
Giúp Hội người cao tuổi, tổ chức đoàn thể, nhà quản lý, hoạch định chính sách có một cách
nhìn đầy đủ và toàn diện về những đóng góp của người cao tuổi cho dù hiện tại họ có những hạn
chế về sức khỏe.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh, học viên, sinh
viên quan tâm đến NCT, đến hoạt động của các thành viên trong gia đình.
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Nhận thức của NCT về hoạt động trợ giúp con trong gia đình như thế nào?
- NCT chủ yếu trợ giúp con cái trong gia đình những công việc gì?
- Nhân tố nào là cơ bản quyết định đến việc có trợ giúp cho con cái của mình hay không
ở người cao tuổi?
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Mục đích và nhiệm vụ:
5
Thông quan thực trạng trợ giúp cho con của người cao tuổi trong gia đình để tìm hiểu nhận
thức của NCT về hoạt động trợ giúp con, vai trò của họ trong những hoạt động này, các nhân tố
cơ bản tác động đến sự tham gia hay không tham gia trợ giúp con. Từ đó đưa ra giải pháp có
tính khả thi.
5.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mô tả về nhận thức của NCT về hoạt động trợ giúp con trong gia đình.
- Làm rõ những công việc trợ giúp chính của NCT trong gia đình.
- Phân tích các nhân tố cơ bản quyết định đến sự tham gia của người cao tuổi vào các hoạt
động trợ giúp con trong gia đình.
6. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
6.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
Vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ giúp con trong gia đình.
6.2 Khách thể nghiên cứu:
Người cao tuổi trên địa bàn TP Thanh Hóa.
Khách thể khảo sát: Người cao tuổi phường Tân Sơn, xã Đông Lĩnh, TP Thanh Hóa.
6.3 Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi không gian: Tiến hành khảo sát tại TP Thanh Hóa. Chúng tôi lựa chọn 2 phường
là phường Tân Sơn và xã Đông Lĩnh trực thuộc TP Thanh Hóa.
+ Phạm vi Thời gian: Tháng 10/2012 đến tháng 12/2012
7. Giả thuyết nghiên cứu
Đại đa số NCT đều có nhận thức đúng về vai trò của mình và xuất phát từ mong muốn giúp
đỡ con cháu mà NCT tham gia trợ giúp con trong gia đình.
NCT trợ giúp con trong nhiều công việc chủ yếu là trông nom, chăm sóc con cháu, nội trợ,
giáo dục giá trị đạo đức lối sống.
Có nhiều nhân tố tác động đến sự trợ giúp con trong gia đình của người cao tuổi. Nhưng
nhân tố cơ bản quan trọng nhất ảnh hưởng quyết định đến sự trợ giúp con của NCT là gia đình
8.Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1 Phƣơng pháp luận
Nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Áp dụng lý luận này vào đề tài nghiên cứu, chúng tôi muốn tìm hiểu, giải thích
sự tác động của xã hội tới nhận thức và hành động trợ giúp con trong gia đình của người cao
tuổi.Vận dùng nguyên lí này vào đề tài tác giả muốn tìm hiểu những hoạt động trợ giúp đặc biệt
là trợ giúp trực tiếp và gián tiếp, những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới nhận thức và hành động
trợ giúp con trong gia đình của người cao tuổi. Chủ nghĩa Mac – Lê Nin là cơ sở lý luận chính
trong đề tài nghiên cứu này.
8.2 Phƣơng pháp thu thập thông tin.
8.2.1 Phƣơng pháp trƣng cầu ý kiến
6
Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phiếu trưng cầu ý kiến đã được xây dựng từ trước
với số lượng là 200 người cao tuổi của hai phường, xã của TP Thanh Hóa : Phường Tân Sơn và
xã Đông Lĩnh. Trong đó, đã tính tới sự cân bằng giới tính và cân bằng giữa phường và xã trực
thuộc Thành phố Thanh Hóa.
Nội dung của khảo sát bao gồm thông tin về vai trò trợ giúp con của NCT, trợ giúp
trực tiếp, trợ giúp gián tiếp, và một số thông tin cá nhân. Số phiếu thu về được xử lý trên phần
mềm SPSS 16.0.
8.2.2 Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
Mục đích phỏng vấn sâu:Các mẫu phỏng vấn sâu được thiết kế để thu thập thông tinh định
tính thực hiện mục tiêu của đề tài: Vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ giúp con và
các nhân tổ tác động tới hoạt động trợ giúp mà bảng hỏi chưa trả lời được.
Đối tượng phỏng vấn: Người cao tuổi và thành viên gia đình có người cao tuổi.
Số lượng phỏng vấn: 10 phỏng vấn sâu
8.2.3 Phƣơng pháp quan sát
Phương pháp quan sát được áp dụng trong suốt quá trình nghiên cứu, với phương pháp này tác
giả có thể nắm bắt được một số thông tin sơ bộ tại địa bàn nghiên cứu.
Thông qua quá trình tri giác trực tiếp để thu thập thông tin cần thiết liên quan đến đề tài, những
hành động, biểu hiện bên ngoài của người cao tuổi, những biểu hiện trong nhận thức cũng như
thái độ của người cao tuổi đối với hoạt động trợ giúp con trong gia đình.
8.2.4 Phƣơng pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng nhằm bổ sung thông tin luận văn. Các tài liệu
liên quan đến nội dung nghiên cứu đã được thu thập và phân tích bao gồm: tài liệu, sách báo,
công trình nghiên cứu, các văn bản pháp luật, chính sách của nhà nước… có nội dung liên quan
tới đề tài nghiên cứu.
9. Khung lý thuyết
7
Nhận thức của người cao tuổi đối
với hoạt động trợ giúp con trong
gia đình
Các cơ quan,đoàn thể,
cộng đồng, hội người cao
tuổi
Chính sách, pháp
luật người cao tuổi
Điều kiện KT – VH - XH
Trông nom,
chăm sóc
con cháu
Giáo dục
Đặc điểm gia đình (Văn
hóa, cơ cấu, quy mô gia
đình….)
Định hướng
lựa chọn
bạn đời
Trợ giúp các hoạt
động trong gia đình
Không trợ giúp
Định hướng
việc làm
8
NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Những khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm vai trò xã hội
1.1.2. Khái niệm ngƣời cao tuổi
1.1.3. Khái niệm gia đình
1.1.4. Khái niệm trợ giúp
1.2Các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu
12.1 Lý thuyết cấu trúc- chức năng
Về mặt thuật ngữ, chủ thuyết chức năng còn được gọi là thuyết chức năng – cấu trúc hay
thuyết cấu trúc – chức năng. Nguồn gốc lý luận của thuyết cấu trúc – chức năng là: thứ nhất:
truyền thống khoa học xã hội Pháp coi trọng sự ổn định, trật tự của hệ thống với các bộ phận có
quan hệ chức năng – hữu cơ với chỉnh thể hệ thống. Thứ hai: truyền thống khoa học Anh với
thuyết tiến hóa, thuyết kinh tế, thuyết vị lợi, thuyết hữu cơ phát triển mạnh. Từ hai truyền thống
này đã nảy sinh những ý tưởng khoa học về xã hội như là một thể hữu cơ đặc biệt với hệ thống
gồm các thành phần có những chức năng nhất định tạo thành cấu trúc ổn định.
1.2.2 Lý thuyết xã hội hoá
Xã hội hóa là quá trình tiếp thu những tri thức, những tri thức, những khuôn mẫu,
những giá trị, những biểu trưng, tóm lại đó là “những cách suy nghĩ, cảm giác và hành động
riêng của các nhóm, của xã hội, của nền văn minh mà một cá nhân phải sống trong đó.
1.2.3 Lý thuyết về vai trò
Vai trò xã hội của cá nhân được xác định trên cơ sở các vị thế xã hội tương ứng. Nó
chính là mặt động của vị thế xã hội vì luôn biến đổi trong xã hội.
Vai trò xã hội là mô hình hành vi được xác lập một cách khách quan căn cứ vào đòi hỏi
của xã hội đối với từng vị thế nhất định để thực hiện quyền và nghĩa vụ tương ứng với các vị thế
đó.
Như vậy vai trò là những đòi hỏi của xã hội đặt ra với các vị thế xã hội. Những đòi hỏi
này được xác định căn cứ vào các chuẩn mực xã hội.
1.2.4 Lý thuyết sự chọn lựa hợp lý của Coleman, Friedman và Hechter
Lý thuyết này dù có ảnh hưởng tới sự phát triển của lý thuyết trao đổi, nhưng thuyết
chọn lựa hợp lý nói chung vẫn nằm ngoài lề dòng lý thuyết xã hội học chủ đạo. Tuy nhiên, với
nỗ lực của Coleman mà thuyết chọn lựa hợp lý đã trở nên một trong các lý thuyết nóng của xã
hội học đương thời.
1.3Vài nét về địa bàn nghiên cứu
1.3.1 Vài nét về địa bàn TP Thanh Hóa
1.3.1.1 Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội – an ninh – quốc phòng của TP Thanh
Hóa
9
1.3.1.2 Về ngƣời cao tuổi TP Thanh Hóa
1.3.2 Vài nét về địa bàn phƣờng Tân Sơn
1.3.2.1 Tình hình kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội – an ninh – quốc phòng.
1.3.2.2 Về ngƣời cao tuổi phƣờng Tân Sơn
1.3.3 Vài nét về địa bàn xã Đông Lĩnh
1.3.3.1 Tình hình kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội – an ninh – quốc phòng.
1.3.3.2 Vài nét về ngƣời cao tuổi xã Đông Lĩnh
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TRỢ GIÚP CON TRONG GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ
THANH HÓA CỦA NGƢỜI CAO TUỔI
2.1. Nhận thức của NCT về hoạt động trợ giúp con trong gia đình
Theo từ điển Tiếng Việt: “Nhận thức là quá trình hay kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực
vào tư duy, quá trình con người nhận biết thế giới khách quan trên kết quả nghiên cứu đó. Tức
là nhận thức là nhận ra, biết được và hiểu được”. Nhận thức là một quá trình, ở con người quá
trình này thường gắn với mục đích nhất định nên nhận thức của con người là hoạt động. Đặc
trưng nổi bật của hoạt động nhận thức là phản ảnh hiện thức khách quan. Vì thế trong xã hội,
nhận thức là những hiểu biết mà mỗi cá nhân lĩnh hội được trong quá trình tương tác với những
cá nhân khác trong xã hội. Hiểu theo một cách khác, nhận thức là quan điểm, cách nhìn nhận,
đánh giá của một cá nhân, một nhóm xã hội về một đối tượng hay vấn đề nào đó. Mỗi NCT tùy
theo đặc điểm gia đình, hiện trạng sống, trình độ học vấn, tuổi, giới tính….sẽ có nhận thức khác
nhau về vai trò và vị trí của chính họ. Người cao tuổi có một vai trò vị trí quan trọng trong gia
đình. Mỗi một người cao tuổi trước khi về già đều trải qua nhiều công việc trong xã hội và gia
đình. Người cao tuổi là nam giới thường đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh tế gia đình.
Người cao tuổi là nữ thường quán xuyến việc gia đình, dạy dỗ con cái, chi tiêu gia đình. Mỗi
người đều nỗ lực đều nỗ lực đảm nhiệm vị trí, vai trò của mình một cách toàn tâm toàn ý. Mặc
dù sức yếu nhưng vẫn cố gắng tham gia các sinh hoạt của hội NCT, hoạt động xã hội, chăm sóc
con cháu. NCT mong rằng những việc mình làm mang lại niềm vui cho người khác. Đó chính là
ý nghĩa và giá trị cuộc sống của NCT.
Từ đó, NCT sẽ có những lựa chọn nhất định có tham gia trợ giúp con cái trong gia đình hay
không. Vậy nhận thức của NCT về hoạt động trợ giúp con cái trong gia đình như thế nào?
Nhìn chung, qua khảo sát về người cao tuổi tại TP Thanh Hóa cho thấy, mặc dù có nhiều quan
điểm khác nhau song khi được hỏi về sự trợ giúp con cái thì họ đều nhận thức đúng đắn và tích
cực về vấn đề này. Ở hầu hết các phỏng vấn sâu không phân biệt độ tuổi, giới tính, nơi cư trú
NCT đều cho rằng xuất phát từ mong muốn của bản thân người cao tuổi, tinh thần tự nguyện
muốn giúp đỡ con cháu để con cháu có thời gian làm việc, chăm lo học hành nên NCT trợ giúp
con .Thêm nữa, tâm lý “ sống vui, sống khỏe, sống có ích” cũng là một trong những suy nghĩ
của mà NCT tham gia trợ giúp con trong gia đình.
Điều này hoàn toàn đúng với thuyết lựa chọn hợp lý, khi NCT lựa chọn công việc trợ giúp con
cháu trong gia đình thay vì dành toàn bộ thời gian cho bản thân.
2.2.Hoạt động trợ giúp con của ngƣời cao tuổi
10
2.2.1 Hoạt động trợ giúp trực tiếp
Chính những nhận thức đúng đắn và tích cực của NCT về hoạt động trợ giúp con cái trong gia
đình sẽ là một con đường, kim chỉ nam hướng sự tiếp cận của họ tới hoạt động này. Không chỉ
là nhận thức đúng đắn hướng đến hành động chuẩn mực mà nhận thức cũng chính là lát cắt để
NCT để hiện thái độ, quan điểm của họ đối với hoạt động trợ giúp con cháu và ngược lại.
Nói đến vai trò của người cao tuổi, không chỉ là vị trí công tác của họ đảm nhiệm trong xã hội
mà còn là vai trò của họ trong gia đình, trong xử lý công việc nhà, trong cuộc sống gia đình.
Mỗi một người có một vai trò nhất định. Những người tuổi cao, nhưng sức khỏe tốt vẫn tham
gia giúp đỡ con cháu trong gia đình như chăm sóc con cháu, đưa đón, dạy bảo con cháu học tập,
nội trợ…Đó là những công việc hợp với sức khỏe của NCT để giúp đỡ con cháu. Do đó, trong
tổng số những NCT được hỏi khi tham gia trợ giúp con cháu thì có đế 61.5% là tham gia trợ
giúp trực tiếp, 23,5% tham gia trợ giúp gián tiếp.
Tóm lại, Mọi hoạt động lao động từ đơn giản nhất cũng đều thể hiện tình yêu thương của ông
bà dành cho con cháu trong gia đình. Bản chất tốt đẹp của con người là lao động để nuôi sống
bản thân mình, chứ không phải sống dựa dẫm vào người khác. NCT hiểu hơn ai hết điều đó. Do
vậy, đối với NCT được tham gia giúp đỡ con cháu cũng là một cách lao động và giúp bản thân
mình có thêm sức khỏe, cách thể hiện tình yêu thương con cháu và một phần kinh tế.
2.2.2 Hoạt động trợ giúp gián tiếp
Dù là hình thức trợ giúp trực tiếp hay trợ giúp gián tiếp NCT đều thể hiện vai trò của mình đối
với hoạt động trợ giúp con cháu. Bản thân NCT có những ưu điểm mà người trẻ không thể có
được là tình thương vô bờ, luôn dành cho con cháu những điều tốt đẹp nhất. Họ cũng là một kho
kinh nghiệm; là cầu nối giữ gìn truyền thống của gia tộc và có vai trò quan trọng trong việc điều
hoà cuộc sống gia đình, trong việc trông nom chăm sóc con cháu, nội trợ, định hướng làm kinh
tế, định hướng dựng vợ gả chồng.
2.2.3 Mức độ tham gia hoạt động trợ giúp
Trong xã hội hiện nay, hệ thống tri thức khoa học càng phong phú, mở rộng, có nhiều hình
thức khác nhau để tiếp thu kiến thức như giáo dục trong nhà trường với hệ thống trường học và
các nhà giáo dục, giáo viên giảng dạy trực tiếp hay tìm hiểu thông tin qua mạng. Song vai trò và
tác dụng của giáo dục gia đình mà đặc biệt là vị trí của NCT trong giáo dục và truyền kinh
nghiệm về nhiều mặt trong xã hội để thế hệ trẻ trở thành người công dân chân chính, có ích cho
xã hội vẫn chiếm một vị trí quan trọng và rất cần thiết. Đối với con cháu trong gia đình, NCT
đặt vấn đề giáo dục đạo đức quan trọng hơn giáo dục tri thức theo quan niệm từ trước đến nay:
“Tiên học lễ, hậu học văn”.
Sự có mặt và giúp đỡ của ông, bà là một yếu tố thuận lợi cho gia đình. Mặc khác, ông bà
chăm sóc cháu, giúp đỡ con cháu khi còn đủ sức khỏe cũng là hạnh phúc.Không chỉ đỡ đần con
cháu về chăm sóc con cháu,nội trợ… NCT còn là trung tâm hòa giải, gỡ rối tơ lòng cho con,
cháu. NCT có rất kinh nghiệm sống, cách đánh giá và nhìn nhận con người rất chuẩn xác. Với
những giá trị, tiêu chuẩn phù hợp, NCT nhìn nhận rất chuẩn khi đánh giá tính cách, gia đình
của “đối tượng” có phù hợp với con cháu hay không? Vì vậy khi được hỏi có đến 20,5% NCT
thường xuyên định hướng chọn bạn đời cho con cháu, 8% NCT chọn rất thường xuyên, chiếm
tỷ lệ cao nhất là thỉnh thoảng chiếm 56%, hiếm khi:15%, không bao giờ 0,5%.
11
CHƢƠNG 3: CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN ẢNH HƢỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP
CON CỦA NGƢỜI CAO TUỔI
3. 1Các nhân tố tác động
3.1.1 Cấu trúc gia đình
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động trợ giúp con của NCT là đặc điểm sống của
họ. Trong các nhân tố về đặc điểm sống được nhìn nhận dưới các khía cạnh gia đình mở rộng có
ông bà, bố mẹ , con cháu và sống cùng con cháu và không sống cùng. Là người ông, người bà
trong gia đình, người cao tuổi có vai trò không kém quan trọng trong việc giữ gìn truyền thống
gia đình, truyền thụ những kinh nghiệm sống, chăm sóc cho con cháu. Mối quan hệ giữa người
cao tuổi và conn cái và vấn đề lớn mà cả xã hội quan tâm. Sự khác nhau về cách sống, lứa tuổi,
hệ thống quan điểm giá trị dẫn đến hành vi của người người cao tuổi và con cái khác nhau. Khi
con cái trưởng thành, lập gia đình cũng là lúc bố mẹ bước vào hoặc sắp bước vào giai đoạn trở
thành người cao tuổi. Càng về già thì con cái càng chiếm vị trí quan trọng hơn trong cuộc sống
của người cao tuổi. Tình yêu của cha mẹ giành cho con cái bao la và tâm huyết nhiều hơn là tình
cảm của con cái dành cho cha mẹ. Con cái dành tình cảm cho cha mẹ chủ yếu là hàm ơn và
trách nhiệm. Tuy nhiên, khi con cái bắt đầu chuyển sang giai đoạn làm cha mẹ thì thấu hiểu hơn
tình cảm của cha mẹ giành cho mình. Và khi đó, tình cảm của con cái dành cho cha mẹ ở mức
độ cao hơn. Tình cảm của cha mẹ lúc đó cũng chuyển tình thương và tình yêu dành cho cháu
nhiều hơn. Sau khi con cái kết hôn sống chung với cha mẹ thì cảm giác chăm sóc và được chăm
sóc của người cao tuổi tốt hơn, tuy nhiên, cũng xuất hiện một số mâu thuẫn nhất định. Đó cũng
là một trong những lý do dẫn đến tình trạng sống chung với con cái, hay sống riêng với con cái,
hoặc sống chung ăn riêng hay sống riêng ăn chung của người cao tuổi hiện nay. Điều tra tại 2
phường xã ở thành phố Thanh Hóa cho thấy. Mô hình gia đình người cao tuổi sống chung với
con cháu chiếm 39,5%, NCT sống vừa riêng, vừa chung (ăn chung ở riêng, ăn riêng ở chung)
chiếm 26,5%, tình trạng NCT sống riêng hoàn toàn không ở cùng với con cháu chiếm 34%.
Tóm lại, có nhiều lý do khác nhau dẫn đến tình trạng sống chung, sống riêng, hay vừa sống
chung và vừa sống riêng của người cao tuổi. Nhưng chủ yếu xuất phát từ tình hình kinh tế, hoàn
cảnh gia đình, ý muốn của người cao tuổi. Đặc điểm gia đình là một trong những nhân tố đầu
tiên ảnh hưởng đến hoạt động trợ giúp hay không của NCT. Điều này hoàn toàn đúng với lý
thuyết cấu trúc chức năng.Mỗi người trong gia đình đều được phân công một công việc phù hợp
với năng lực, trình độ, hoàn cảnh sống của người đó.
3.1. 2 Những đặc điểm tâm sinh lý của NCT
Xây dựng một cuộc sống hòa hợp giữa NCT với thế hệ con cháu trong gia đình là một cách
chăm sóc đời sống tinh thần cho NCT và phát huy vai trò trợ giúp con cháu của NCT. Gia đình
chính là nơi đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất, đời sống tình cảm, đời sống tâm linh của NCT.
3.1.3 Những đặc điểm nhân khẩu xã hội của NCT
* Giới tính
Giới tính có ảnh hưởng đến quyết định hoạt động trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp của NCT.
NCT là nữ giới thường “chăm chỉ” hơn cho hoạt động trợ giúp con cháu về các vấn đề như cơm
nước, nội trợ trong gia đình. Còn NCT là nam giới có “thế mạnh” trong hoạt động trợ giúp con
cháu về định hướng làm kinh tế, dựng vợ gả chồng.
12
*Độ tuổi
Sự trợ giúp con của NCT có sự khác biệt về độ tuổi. NCT ở độ tuổi từ 60-69 là độ tuổi trợ giúp
con cháu được nhiều hơn độ tuổi từ 70-79 và độ tuổi trên 80.
Ở độ tuổi sơ lão từ 60-69: NCT trợ giúp tích cực nhất ở hoạt động “trông nom chăm sóc con
cháu và cơm nước” chiếm 34.4%. Điều này có thể lý giải là do độ tuổi từ 60-69 là độ tuổi sức
khỏe tốt hơn so với độ tuổi trung lão và đại lão. Ở độ tuổi này nhu cầu tập luyện thể dục thể
thao cũng cao hơn so với các độ tuổi khác.
Độ tuổi từ 70-79, trợ giúp khá nhiều cho con cái khi giúp đỡ trực tiếp như cơm nước nội trợ
chiếm 5,6%, quét dọn nhà cửa, trông nom chăm sóc con cháu(20%).
* Trình độ học vấn
Trình độ học vấn khác nhau cũng có sự khác nhau trong việc trợ giúp trực tiếp con của NCT.
Trình độ đại học, cao đảng trợ giúp về trông nom chăm sóc con cháu chiếm 10,4%, trình độ
trung học chiếm 17,6%Tuy nhiên, hầu hết những công việc trợ giúp trực tiếp đều là những công
việc giản đơn không đòi hòi nhiều về trình độ học vấn, chủ yếu đòi hỏi về vấn đề sức khỏe. Do
vậy, có sự khác nhau giữa trình độ học vấn khi tham gia trợ giúp con của NCT, nhưng không
gây ảnh hưởng nhiều.
3.1. 4 Hoạt động của Hội NCT và các cơ quan đoàn thể
Bằng thực tiễn hoạt động của NCT và Hội NCT, Hội NCT Việt Nam đã có những đóng góp cụ
thể. Ban chấp hành TW Hội NCT và các cấp Hội đã trực tiếp tham gia bằng nhiều hình thức:
Góp ý kiến bằng văn bản vào các báo cáo chính trị tại Đại hội Ĩ, Đại hội X, tham mưu giúp nhà
nước những vấn đề cụ thể về NCT như:Thành lập Ủy ban quốc gia về NCT Việt Nam, xây dựng
chương trình hành động Quốc gia về NCT giai đoạn 2006-2010, sơ kết 5 năm thực hiện pháp
lệnh NCT, chế độ trợ cấp cho NCT từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm
xã hội, chế độ khám chữa bệnh cho NCT, chế độ cho cán bộ Hội các cấp theo công văn
372/BNV của Bộ Nội vụ đầu xuân năm 2008.
3.1.5 Chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về NCT
Chăm sóc và phát huy vai trò của NCT là một chính sách nhất quán và rất quan trọng của Đảng
và Nhà nước. Pháp lệnh NCT năm 2000, khẳng định “Việc chăm sóc và phát huy đời sống vật
chất, tinh thần và phát huy vai trò của NCT là trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và toàn xã
hội, là thể hiện bản chất tốt đẹp, đạo lý truyền thống của dân tộc ta”.
Pháp lệnh 2000 và luật người cao tuổi 2009 nêu khung pháp lý để phát huy vai trò NCT Việt
Nam trong gia đình, xã hội. Các chính sách, chương trình hành động quốc gia về NCT đã quy
định những điều kiện và cơ chế để NCT có cơ hội tham gia phát huy vai trò.
Trong đó, có những chính sách như: đưa NCT tham gia xây dựng chính quyền xã, cơ sở, có đại
diện tại Quốc hội. Chính quyền các cấp khi thiết kế kế hoạch thực hiện các chủ trương đều mời
đại diện hội NCT tham gia.
NCT có tổ chức Hội của mình để nắm bắt nhu cầu, nguyện vọng và tổ chức các hoạt động đáp
ứng nhu cầu, bảo vệ lợi ích hợp pháp của NCT. NCT là nhân tố quan trọng để giữ gìn truyền
thống văn hóa dân tộc, xây dựng gia đình hạnh phúc.
Trong hoạt động kinh tế, NCT tham gia theo khả năng của mình, trở thành người làm kinh tế
giỏi.
13
Luật người cao tuổi thực sự đi vào cuộc sống, giúp cho người cao tuổi hiểu hơn nữa vai trò đi
đầu gương mẫu của mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Hình thức hỗ trợ 180.000 đồng/
1 tháng dành cho những người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên giúp cho người cao tuổi có một khoản
trợ cấp nho nhỏ để dành hoặc chi trả cho cuộc sống của họ, giúp họ bớt phần nào lệ thuộc vào
con cái.
3.2 Hệ quả từ sự trợ giúp của Ngƣời cao tuổi
Sống vui, sống khỏe, sống có ích là tiêu chí mà bất kỳ NCT nào cũng mong muốn thực hiện.
Thực tế cho thấy NCT đã thực hiện được điều đó. Khi được hỏi có 16% NCT trả lời rất hài lòng
với công việc tham gia trợ giúp con. 56% NCT hài lòng với công việc tham gia trợ giúp con
cháu. 25% NCT cảm thấy bình thường khi tham gia trợ giúp con cháu và chỉ có 3% NCT không
hài lòng với hoạt động trợ giúp con cháu vì cho rằng tuổi cao sức yếu chưa giúp đỡ được nhiều
cho con cháu.
Ngày nay, trong những gia đình con cháu sống chung với NCT, con cháu được rất nhiều “cái
lợi” từ NCT. Khi con cái mải mê kiếm sống thì cháu được ông bà chăm sóc. Khi đó giáo dục
gia đình do ông bà thực hiện. Nếu cháu còn bé thì NCT vừa chăm sóc, vừa dạy bảo. Trẻ em lớn
hơn một chút thì ông bà uốn nắn về đạo đức và lối sống. Không thể phủ nhận được vai trò chăm
sóc của ông bà trong gia đình. Ngoài bố mẹ thì ông bà là người chăm sóc trẻ tốt nhất. NCT có
thời gian và tràn đầy tình cảm yêu thương trìu mến dành cho con cháu. Không chỉ giúp đỡ con
chăm sóc cháu,hay giúp đỡ trực tiếp về nội trợ… NCT trong gia đình còn đóng vai trò điều hòa
các mối quan hệ, khi con cái nảy ra xích mích,lục đục. Lời khyên của người đi trước, người lớn
trong gia đình luôn được con cháu nghe theo. NCT vẫn giữ vai trò trọng yếu trong việc tạo
không khí ấm cúng trong gia đình.
Khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cuộc sống của mỗi gia đình và cả
xã hội được cải thiện. Nhịp sống và sự giao lưu văn hóa rộng mở, tác động thường xuyên nhiều
chiều các giá trị văn hóa rộng mở, tác động thường xuyên, nhiều chiều và các giá trị văn hóa gia
đình đứng trước những câu hỏi: Tiếp thu, lưu giữ, loại bỏ và phát huy…các chuẩn mực giá trị
văn hóa truyền thống. Khi đó, NCT có vai trò rất lớn trong việc hình thành những giá trị văn
hóa mới, người chọn lọc, phát triển và là người truyền lại những giá trị văn hóa tốt đẹp cho các
thế hệ. Là tấm gương chăm lo giáo dục, truyền thụ văn hóa cho các thế hệ sau. NCT luôn có vị
trí tôn kính, là sự bảo đảm cho các chuẩn mực văn hóa gia đình được duy trì và thực hiện.
Thông qua việc răn dạy hay phê phán những biểu hiện xa rời các giá trị văn hóa, NCT cũng
động viên khen ngợi sự trưởng thành của con cháu, các thế hệ trong gia đình. Đồng thời là
người giữ gìn những chuẩn mực văn hóa gia đình có sức sống mạnh mẽ, có giá trị thực tiễn và
các thành viên tự giác tuân theo như các quy phạm đạo đức.
Trong gia đình, NCT là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại là những người giữ gìn những giá trị
vât chất và tinh thần của các bậc tiền bối. Vì vậy, họ là người truyền thụ, bổ sung cho thế hệ trẻ
nền văn hóa gia đình dòng tộc, giữ cho nó ngày càng thêm trong sáng, phong phú, có nét đặc
thù văn hóa chung của dân tộc. NCT cũng là tấm gương sáng trong lao động,học tập, cống hiến
và nghệ thuật ứng xử để con cháu noi theo thông qua lời nói, việc làm, thông qua cách nghĩ, lý
giải của NCT về các giá trị của cuộc sống và thông qua tín ngưỡng, tôn giáo, cách thờ cúng tổ
14
tiên. Thời gian, sự trải nghiệm và cách sống mẫu mực hàng ngày chính là bài học về văn hóa có
sức tryền cảm trực tiếp, mạnh mẽ và thấu sâu vào các thế hệ con cháu.
3.2.1 Đối với con cháu
Người cao tuổi hiện nay là lớp người có công sinh thành, nuôi dạy con cháu, giáo dục lý tưởng
và truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ, đồng
thời là lớp người đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về nhiều mặt, có uy tín, có vai trò,
trách nhiệm quan trọng trong gia đình và xã hội như trách nhiệm nêu gương trong gia đình,
trách nhiệm điều hòa các mối quan hệ trong gia đình, giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống
cho con cháu, giáo dục gia phong của dòng họ, gia đình, giáo dục truyền thống lịch sử của đất
nước, dân tộc, tryền thụ kinh nghiệm nghề nghiệp, làm ăn cho con cháu.Với những vai trò đóng
góp của NCT, được con cháu nhìn nhận, tôn trọng và học tập.
3.2.2 Đối với NCT
Trong cuộc sống gia đình, truyền thống tôn trọng NCT luôn được duy trì, NCT luôn có vị trí cao
nhất trong gia đình. Họ luôn được kính trọng, tiếng nói của họ luôn có ảnh hưởng quyết định
đến các hoạt động của gia đình. Kết quả điều tra cho thấy, 73% NCT được hỏi trả lời ý kiến của
mình có ý nghĩa quyết định và con cháu nghe theo.
Suốt cả cuộc đời, NCT đã góp nhặt, tích lũy được một số kinh nghiệm cá nhân về một lĩnh vực
nào đó và được coi trọng, như những bài học quý giá bất di, bất dịch có thể áp dụng trong mọi
điều kiện hoàn cảnh khác nhau. Trong xã hội hiện nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường
kéo theo nhiều tệ nạn xã hội, sức mạnh của đồng tiền chi phối nhiều giá trị xã hội như tình yêu,
hôn nhân, tình cảm vợ chồng, đạo làm con, tình cảm anh em họ hàng. Những lời khuyên, ý kiến
của NCT có tác động mạnh mẽ đối với việc giữ gìn giá trị truyền thống tốt đẹp, gia giáo trong
gia đình.
3.2.3 Đối với xã hội
Nhìn chung, đời sống NCT còn nhiều khó khăn, nguồn thu nhập chính của các cụ là nhờ bảo
hiểm, trợ cấp xã hội, tự sản xuất kinh doanh, nông nghiệp kiếm sống hoặc từ sự trợ giúp của
người thân. Số người NCT lao động kiếm sống khá cao. Tuy nhiên, do tuổi già, sức yếu nên khả
năng lao động hạn chế, chủ yếu làm những công việc nhẹ nhàng, mức thu nhập thấp.
Tóm lại, từ những phân tích ở trên chúng ta thấy được hiệu quả trợ giúp về mặt vật chất và tinh
thần của NCT. Điều này đã chia sẻ một phần nào khó khăn về mặt vật chất của con cháu, hỗ trợ
về mặt tinh thần, sẽ tạo điều kiện, một sức bật giúp cho con cháu có thời gian, điều kiện dành
thời gian cho công việc cũng như chăm sóc con cháu. Chính những điều này có tác động rất lớn
về mặt xã hội giúp cho NCT thể hiện phần nào vị thế, vai trò của mình trong xã hội.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đề tài “Vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ giúp con trong gia đình ở thành phố
Thanh Hóa (Qua nghiên cứu tại phường Tân Sơn và xã Đông Lĩnh, thành phố Thanh Hóa). Tuy
được tiến hành trên quy mô không phải là lớn nhưng đã thu được những kết quả khả quan, đáp
ứng được mục tiêu nghiên cứu ban đầu mà chúng tôi đề ra.
15
Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết xã hội học như lý thuyết xã hội hóa, lý thuyết cấu trúc chức
năng, lý thuyết vai trò làm cơ sở phương pháp luận, luận văn đã góp phần tạo nên một cách nhìn
đầy đủ và sâu sắc hơn về vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ giúp con trong gia
đình.
Trong luận văn đã trình bày ở trên, chúng tôi tập trung chú trọng đến hai vấn đề chính là: Vai
trò của người cao tuổi thể hiện qua các hoạt động trợ giúp và các nhân tố tác động đến hoạt
động trợ giúp con trong gia đình.
Vai trò của người cao tuổi đối với hoạt động trợ giúp con
Nhận thức của người cao tuổi khi tham gia trợ giúp: Xuất phát từ mong muốn của bản thân mà
NCT tham gia trợ giúp con cháu trong gia đình
Hình thức trợ giúp: Nghiên cứu cho thấy người cao tuổi khi trợ giúp con có xu hướng trợ giúp
trực tiếp khi ở cùng với con cháu và trợ giúp gián tiếp khi không ở cùng với con cháu.
Khi trợ giúp trực tiếp thì người cao tuổi thường trông nom con cháu hoặc nội trợ, cơm nước
trong gia đình để giúp đỡ con cháu
Khi trợ giúp gián tiếp NCT thường đến, gọi điện tâm sự hỏi thăm con cháu, giáo dục về mặt đạo
đức lối sống
Các nhân tố tác động tới hoạt động trợ giúp con cháu của người cao tuổi. Qua những phân tích
trên có thể thấy gia đình có vai trò quan trọng trong hoạt động trợ giúp con của người cao tuổi.
Khi người cao tuổi sống chung với con cái thì hoạt động trợ giúp của người cao tuổi thường là
trợ giúp trực tiếp, và giúp đỡ con cái được nhiều hơn là khi người cao tuổi sống riêng.
Những đặc trưng về nhân khấu xã hôi của NCT tác động rất lớn đến hoạt động trợ giúp con của
NCT.
NCT là nam giới trợ giúp gián tiếp nhiều hơn NCT là nữ giới, gọi điện, hỏi thăm con cháu, cho
những lời khuyên khi gặp khó khăn trong cuộc sống, định hướng làm kinh tế, đinh hướng dựng
vợ gả chồng. Còn NCT là nữ giới thường trợ giúp trưc tiếp thông qua các hoạt động nội trợ,
cơm nước hay trông nom, chăm sóc con cháu.
Hội người cao tuổi hàng năm phát động phong trào “tuổi cao – gương sáng” để người cao tuổi
phát huy vai trò của mình.
Pháp lệnh 2000 và luật người cao tuổi 2009 nêu khung pháp lý để phát huy vai trò NCT Việt
Nam trong gia đình, xã hội. Các chính sách, chương trình hành động quốc gia về NCT đã quy
định những điều kiện và cơ chế để NCT có cơ hội tham gia phát huy vai trò.
2. Khuyến nghị
Trên cơ sở phân tích về vai trò của người cao tuổi và các nhân tố tác động đến vai trò trợ giúp
con trong gia đình. Đề tài xin được đưa ra một số khuyến nghị như sau:
Hội NCT cần đổi mới hoạt động theo hướng coi trọng vận động quần chúng, khơi dậy tiềm
năng sức mạnh của NCT và phối kết hợp các hoạt động của Hội với các bộ, ban ngành liên quan
của Nhà nước, MTTQ và các đoàn thể cũng như các tổ chức xã hội để thực hiện có hiệu quả
cuộc vận động toàn xã hội chăm sóc và phát huy vai trò của NCT từ cơ sở
Phát huy phong trào “tuổi cao - gương sáng” trong hội NCT
Có chính sách nâng cao thu nhập và mức sống cho NCT, tạo điều kiện cho NCT tiếp tục phát
huy vai trò của mình
16
Cho phép lập quỹ của NCT phát huy vai trò của NCT ở cấp tỉnh đến cơ sở.
2.2 Gia đình
Mỗi một người cao tuổi trước khi về già đều trải qua nhiều công việc trong xã hội và gia đình.
Người cao tuổi là nam giới thường đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh tế gia đình.
Người cao tuổi là nữ thường quán xuyến việc gia đình, dạy dỗ con cái, chi tiêu gia đình. Mỗi
người đều nỗ lực đều nỗ lực đảm nhiệm vị trí, vai trò của mình một cách toàn tâm toàn ý. Mặc
dù sức yếu nhưng vẫn cố gắng tham gia các sinh hoạt của hội NCT, hoạt động xã hội, chăm sóc
con cháu. NCT mong rằng những việc mình làm mang lại niềm vui cho người khác. Đó chính là
ý nghĩa và giá trị cuộc sống của NCT. Vì vậy, gia đình, con cháu cần quan tâm chăm sóc đến
người cao tuổi, hiểu tâm sinh lý của họ đồng thời tạo điều kiện để NCT phát huy vai trò của
mình trong hoạt động trợ giúp con cháu và xã hôi.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Huy Bích (2003) Xã hội học gia đình. NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
2. Bộ Y tế, Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình (10/2009), Tài
liệu Hội thảo Thách thức về già hóa dân số ở Việt Nam.
3. Hoàng Trọng Chu, Nguyễn Mộng Ngọc (2005), phân tích dữ liệu
nghiên cứu với SPSS, NXB Thống kê, Hà Nội.
4. Phạm Khắc Chương – Huỳnh Phước (2000), Ông bà cha mẹ trong
gia đình. NXB Thanh Niên, Hà Nội
5. Bùi Quang Dũng, Lê Ngọc Hùng (2005), Lịch sử Xã hội học,
NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
6.Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2001), Xã hội học đại cương,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Trần Thị Minh Đức (1996), Tâm lý học đại cương, NXB Giáo dục
Hà Nội, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Hằng – Đàm Hữu Đắc (1999) Người cao tuổi Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp. NXB Lao Động, Hà Nội
9. Nguyễn Thế Huệ(2006), Những điều kiêng kỵ của người cao tuổi,
tập 1, tập 2, Hà Nội.
17
10. Nguyễn Thế Huệ (2005), Chủ tịch Hồ Chí Minh với người cao
tuổi Việt Nam, Hà Nội
11. Nguyễn Thế Huệ (2005), Sổ tay chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
người cao tuổi, Hà Nội
12. Nguyễn Thế Huệ (2007), Người cao tuổi và bạo lực gia
đình, NXB Pháp lý.
13. Nguyễn Thế Huệ (2010), Thực trạng đời sống của người cao tuổi
từ 80 trở lên. NXB Văn hóa thông tin
14. Lê Ngọc Hùng (2001), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
15. Hội người cao tuổi (2003), Về người cao tuổi và tổ chức của
người cao tuổi, Hà Nội
16. Hệ thống các văn bản pháp chính sách của Đảng và Nhà nước về
người cao tuổi Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (2005),Hà Nội
17. Trần Xuân Kỳ (2008), Giáo trình trợ giúp xã hội. NXB Lao
động, Hà Nội.
18. Từ điển xã hội học: NXB Fiddzroy Dearmmon, United Kingdom
và United State, 1995
19. Thích Quang Tâm – Lý thuyết vai trò, dưới ánh sáng nguyên
khởi ngày truy
cập 15 tháng 6 năm 2012
20. Tiến sỹ Nguyễn Minh Phương, Viện khoa học tổ chức, Bộ Nội
vụ, Viện Triết học, ngày 10/6/2009. Đề tài: Vai trò của các tổ chức xã hội
dân sự />_chitiet&muccsdl=15&tin+62 ngày truy cập 10 tháng 6 năm 2012.
21. Luật người cao tuổi (2010), NXB chính trị quốc gia, Hà Nội
22. Nguyễn Kim Lân, Ứng xử với người cao tuổi trong gia
đình, NXB Phụ Nữ, Hà Nội
18
23. Luận án của Nguyễn Thị Phương Lan về “Đời sống văn hóa
người cao tuổi (Trong xã hội Việt đồng bằng Bắc Bộ từ truyền thống đến
hiện đại)
24. Nhóm tác giả của Bộ văn hóa, thể thao và du lịch (2010), Gia
đình với người cao tuổi. NXB Văn hóa thông tin.
25. Bùi Xuân Mỹ - Phạm Minh Thảo, Bách khoa người cao
tuổi. NXB Từ điển Bách Khoa.
26. Lê Văn Nhẫn – Nguyễn Thế Huệ (2004), Người cao tuổi Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. NXB Khoa học xã
hội.
27. Bế Quỳnh Nga (Tháng 1/2005,),Chiến lược sống của người cao
tuổi trước những biến đổi của gia đình nông thôn hiện nay. Tạp chí xã hội
học (Tr65-72
28. Đỗ Hồng Ngọc(1999), Già ơi- chào bạn, NXB Trẻ, Hà Nội.
29. Bs. Huỳnh Kim Oanh – Phạm Viêm Phương (2005), Cách ứng
xử trong gia đình. NXB Phụ nữ, Hà Nội
30. Đinh Văn Tư- Nguyễn Thế Huệ (2010), Nâng cao chất lương
hoạt động của hội người cao tuổi Việt Nam trong thời kỳ mới. NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội
31. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp
nghiên cứu xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
32. Lê Ngọc Văn (1998) Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội
hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội
33. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2005)Vài nét về người cao tuổi
Việt Nam nhìn từ quan điểm giới, dự án điều tra bình đẳng giới.
34.Viện Khoa học lao động và xã hội (2012) Báo cáo kết quả nghiên
cứu “Vai trò của chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng đối với người cao tuổi
Việt Nam(nghiên cứu trường hợp ở Thanh Hóa do Viện khoa học lao động
19
và xã hội phối hợp với tổ chức evanplan thuộc trường Đại học Heidelberg,
cộng hòa liên bang Đức thực hiện.
35. Đoàn Yên(2011), Cuộc sống sau nghỉ hưu. NXB Y học, Hà Nội.
36. Tony Bilton và những người khác (1993), Nhập môn xã hội học,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.