Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

một số biện pháp tăng cường quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động chủ nhiệm lớp trong các trường thpt tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.11 KB, 116 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Chủ nhiệm lớp là một trong những hoạt động giáo dục chủ yếu trong nhà
trường phổ thông. Chủ nhiệm lớp thay mặt hiệu trưởng quản lý một lớp nhằm
thực hiện các mục tiêu giáo dục đề ra, chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng các
hoạt động của một lớp. Để hoạt động này mang lại hiệu quả cao, thì không chỉ
có sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm mà cần phải có sự quản lí, chỉ đạo
của ban giám hiệu mà trực tiếp là của Hiệu trưởng nhà trường. Vì vậy nếu Hiệu
trưởng triển khai linh hoạt và sáng tạo các biện pháp tổ chức, quản lý hoạt động
chủ nhiệm lớp sẽ góp phần to lớn vào việc nâng cao hiệu quả của công tác này.
Thực tế ở Tỉnh Bắc Ninh hiệu trưởng các trường THPT đã có những đổi
mới nhất định về quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp, song kết quả đạt chưa cao.
Những biện pháp quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp mà các hiệu trưởng đã áp
dụng vào hoạt động quản lý của mình chủ yếu là do kinh nghiệm bản thân và tự
học hỏi, vì cho đến hết năm 2004 hầu hết các hiệu trưởng các trường THPT trên
địa bàn Tỉnh chưa qua đào tạo dài hạn về công tác quản lý nhà trường, các đồng
chí hiệu trưởng vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế. Do ảnh hưởng của nền
kinh tế thị trường, do việc tổ chức giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường
còn nhiều hạn chế, hoạt động chủ nhiệm lớp của giáo viên còn thiếu kinh
nghiệm, các nhà quản lý giáo dục đã có những biện pháp chỉ đạo hoạt động chủ
nhiệm lớp, song các biện pháp còn ít, nên trong các nhà trường hiện nay, chất
lượng đạo đức học sinh còn có những vấn đề cần phải bàn.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng hoạt động quản lý hoạt động chủ
nhiệm lớp của hiệu trưởng các trường THPT Tỉnh Bắc Ninh nhằm đề ra các biện
pháp quản lý đồng bộ có tính khả thi cao, phù hợp với sự phát triển của giáo dục
trong thời kỳ đổi mới là vấn đề cấp thiết sớm được nghiên cứu và làm sáng tỏ.
1
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tế trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu là:
“Một số biện pháp tăng cường quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động chủ
nhiệm lớp trong các trường THPT tỉnh Bắc Ninh” với mong muốn đóng góp
một phần nhỏ bé công sức của mình vào việc xác định hệ thống các biện pháp


quản lý nhà trường, đặc biệt là các biện pháp quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp
của hiệu trưởng các trường THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý của hiệu trưởng đối
với hoạt động chủ nhiệm lớp ở các trường THPT tỉnh Bắc Ninh, đề xuất các
biện pháp tăng cường quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp ở các trường THPT, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý của hiệu trưởng trường THPT đối với công tác chủ
nhiệm lớp của giáo viên trường THPT.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng các trường
THPT tỉnh Bắc Ninh.
4. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng các trường THPT
tỉnh Bắc Ninh những năm qua đã được tiến hành có kế hoạch và đã mang lại
hiệu quả nhất định. Tuy nhiên việc vận dụng các thành tựu khoa học hiện đại
vào công tác quản lí, cũng như các biện pháp nhằm kích thích tính tích cực và
trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm còn hạn chế nhất định, chỉ đạo hoạt động
chủ nhiệm lớp chủ yếu bằng các biện pháp hành chính. Nếu hiệu trưởng các
trường THPT tăng cường các biện pháp quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của
giáo viên một cách khoa học và phù hợp hơn thì công tác chủ nhiệm lớp của
giáo viên chủ nhiệm sẽ có hiệu quả hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
2
5.1 Nghiên cứu vấn đề lý luận của quản lý, quản lý giáo dục, quản lý trường
THPT.
5.2 Tìm hiểu thực trạng các biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động
chủ nhiệm lớp của giáo viên trong một số trường THPT ở Bắc Ninh.

5.3 Đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt
động chủ nhiệm lớp của giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
6. Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp tăng cường quản lý của hiệu
trưởng các trường THPT tỉnh Bắc Ninh đối với hoạt động chủ nhiệm lớp của
giáo viên. Việc điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng các biện pháp quản lý hoạt
động chủ nhiệm lớp của giáo viên đối với hiệu trưởng được tiến hành ở các
trường THPT: Hàn Thuyên, Thuận Thành I, Quế Võ I, của tỉnh Bắc Ninh.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Để có cơ sở lý luận làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu chúng tôi tiến
hành thu thập tài liệu lý luận, đọc tài liệu các văn bản pháp quy về giáo dục đào
tạo, các công trình nghiên cứu khoa học về quản lý giáo dục, quản lý chuyên
môn, quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp từ đó phân tích tổng hợp vấn đề từ góc lý
luận có liên quan đến luận văn.
7.2 Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1 Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát các hình thức biểu hiện hoạt động quản lý của hiệu
trưởng và hoạt động chủ nhiệm lớp của đội ngũ giáo viên ở trường THPT.
7.2.2 Phương pháp thống kê xã hội học
Điều tra thu thập số liệu đối với thống kê về thực trạng quản lý hoạt động
chủ nhiệm lớp của giáo viên, của hiệu trưởng ở các trường THPT.
Điều tra, khảo sát lấy ý kiến của các cán bộ quản lý nhà trường nhằm mục
đích đánh giá thực trạng việc quản lý hoạt động của hiệu trưởng.
7.2.3 Phương pháp phỏng vấn
3
Phỏng vấn các hiệu trưởng, phó hiệu trưởng ở các trường THPT, làm rõ
thực trạng quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng các trường.
7.2.4 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các bảng hỏi sau:

a. Bảng hỏi giáo viên.
Mục đích:Tìm hiểu nhận thức của giáo viên về lĩnh vực hoạt động chủ
nhiệm lớp : Nội dung hình thức, hiệu quả, thuận lợi, khó khăn của hoạt động
chủ nhiệm lớp. Đối tượng học sinh hiện nay như thế nào?Tìm hiểu đánh giá của
giáo viên về quản lý của hiệu trưởng.
b. Bảng hỏi cán bộ quản lý nhà trường: Hiệu trưởng, hiệu phó, chủ tịch
công đoàn, bí thư đoàn trường.
Mục đích:Tìm hiểu nhận thức của cán bộ quản lý về hoạt động chủ nhiệm
lớp của giáo viên chủ nhiệm. Đánh giá của các nhà quản lý về hoạt động của
giáo viên chủ nhiệm lớp trên các lĩnh vực nội dung, hình thức, hiệu quả, thuận
lợi, khó khăn của hoạt động chủ nhiệm lớp. Tìm hiểu đánh giá của cán bộ quản lí
về các biện pháp quản lí của mình đối với hoạt động chủ nhiệm lớp
7.3 Phương pháp toán thống kê
Sử dụng phương pháp toán thống kê để xử lý và phân tích các số liệu từ
các phiếu hỏi thu thập được.
8. Đóng góp mới của đề tài
Làm sáng tỏ các khái niệm cơ bản và phát hiện thực trạng các biện pháp
quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng THPT tỉnh Bắc Ninh.
Đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý có khả năng thực thi của
người hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp
của hiệu trưởng các trường THPT tỉnh Bắc Ninh. Đồng thời góp phần vào việc
phổ biến kinh nghiệm quản lý trong nhà trường THPT.
9. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm mở đầu và 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
4
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng các
trường.
Chương 3: Đề xuất các biện pháp nhằm tăng cường quản lý các hoạt động chủ
nhiệm lớp

Kết luận và kiến nghị.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ, QUẢN LÝ GIÁO DỤC,
QUẢN LÝ NHÀ TRƯỜNG
1.1.1. Quản lý
I.1.1.1 Khái niệm quản lý
Trong quá trình hình thành và phát triển loài người, con người phải luôn
luôn lao động để duy trì và phát triển nòi giống. Trong khi lao động cần sự hợp
tác của một nhóm người hoặc nhiều người, do sự hợp tác này mà xã hội xuất hiện
một loại hình lao động mới mang tính đặc thù là tổ chức điều khiển các hoạt động
lao động theo yêu cầu nhất định loại hình lao động, đó là hoạt động quản lý.
Quản lý là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng nhằm
thực hiện các mục tiêu mà tổ chức hoặc xã hội đặt ra. Trong xã hội loài người,
quản lý là một hoạt động bao trùm mọi mặt đời sống xã hội. Quản lý là nhân tố
không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển của xã hội. Loài người đã
trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau nên cũng
trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ
thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và phát
triển của xã hội. Nó là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử
Theo Các Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ
đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung
phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí
quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một
dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”[4]
Trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lý, đặc biệt trong quá trình
xây dựng lý luận về quản lý, khái niệm quản lý được nhiều nhà lý luận đưa ra,
6

nó thường phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, nghiên cứu của mỗi người. Chẳng
hạn:
Theo Frederich Wiliam Taylor (1856-1915) người Mỹ: “Quản lý là nghệ
thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương
pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất”[20]. Hoặc theo nhà lý luận quản lý quốc tế Henri
Fayol (1841-1925) người Pháp cho rằng: “Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố
gắng sử dụng tốt nhất các nguồn lực của nó”[13]
Khi nói về vai trò của quản lý trong xã hội, ý kiến của Paul Herscy và Ken
Blanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” là: quản lý là một quá trình
cùng làm việc giữa nhà quản lý và người bị quản lý, nhằm thông qua hoạt động của
cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức”[31].
Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định”[29].
Theo Mai Hữu Khuê: “Hoạt động quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt
của người lãnh đạo mang tính tổng hợp các loại lao động trí óc, liên kết bộ máy
quản lý, hình thành một chỉnh thể thống nhất điều hoà phối hợp các khâu và các
cấp quản lý, làm sao cho hoạt động nhịp nhàng, đưa đến hiệu quả”[14]
Quan điểm của Nguyễn Văn Lê: “Quản lý là một hệ thống xã hội khoa
học và nghệ thuật tác động vào từng thành tố của hệ bằng phương pháp thích
hợp nhằm đạt các mục tiêu đặt ra cho hệ và từng thành tố của hệ”
Giáo trình “ Quản lý giáo dục và đào tạo ” của trường cán bộ quản lý
GD&DT nêu rằng
- Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào
hệ thống con người nhằm đạt các mục tiêu kinh tế – xã hội.
- Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên
các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự
vận hành của đối tượng ổn định và phát triển đến mục tiêu đã định.
7
- Quản lý là sự tác động có ý thức, hợp quy luật giữa chủ thể quản lý đến

khách thể quản lý nhằm đạt các mục tiêu đề ra.
- Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
là đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến đổi của môi trường [13].
Từ các định nghĩ trên có thể rút ra một số điểm chung:
 Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động, hoạt
động khác.
 Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý
- Trong quản lý, bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý,
quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý. Những tác động quản lý chính là
những quyết định quản lý, là những nội dung chủ thể quản lý yêu cầu đối với đối
tượng quản lý. Các Mác so sánh một cách hình ảnh: Nhạc trưởng đối với hệ
thống nhạc công, trong đó nhạc trưởng là một chủ thể quản lý, nhạc công là chủ
thể bị quản lý (các nhạc công chịu sự tác động của nhạc trưởng) để đưa đến một
sản phẩm “kép” một sản phẩm “siêu sản phẩm” - Đó là cả chủ thể quản lý và
chủ thể bị quản lý đều phát triển (hoạt động tạo ra các chủ thể và về sự phát triển
của con người).
 Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của một quá trình lao
động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội
loài người tồn tại, vận hành và phát triển.
 Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó
cũng xác lập rằng quản lý phải có một cấu trúc và vận hành trong một môi
trường xác định.
Có mô tả cấu trúc của một hệ thống quản lý qua sơ đồ 1.1.
8
Mục tiêu quản lý
Môi trường quản

Chủ thể quản lý Khách thể quản lý


Sơ đồ 1.1. Cấu trúc của một hệ thống quản lý.
Hiện nay quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình đạt
đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng của các hoạt động (chức năng) kế
hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
1.1.1.2. Các chức năng quản lý
- Chức năng kế hoạch hoá
Peter Drucker, một trong những chuyên gia quản lý đương đại hàng đầu, đã
đề xuất tiêu chuẩn về tính hiệu nghiệm (tức là khả năng làm những việc “đúng”)
và tính hiệu quả (tức là khả năng làm đúng việc). ông cho rằng, tính hiệu nghiệm
là quan trọng hơn, bởi vẫn có thể đạt được hiệu quả khi chọn sai mục tiêu. Hai
tiêu chuẩn này song hành cùng với hai khía cạnh của kế hoạch: xác định những
mục tiêu “đúng” và lựa chọn những biện pháp “đúng” để đạt các mục tiêu này.
Cả hai khía cạnh đó đều có ý nghĩa sống còn đối với quá trình quản lý [32].
Để phản ánh bản chất của khái niệm chức năng kế hoạch hoá, chúng ta có
thể định nghĩa như sau: chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định mục tiêu
và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Như vậy, thực
chất của kế hoạch hoá là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch
hoá, với mục đích, biện pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và ấn định tường minh các
điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
Nhiều lý thuyết gia quản lý cho rằng, kế hoạch là cái khởi nguyên của mọi
hoạt động, mọi chức năng quản lý khác. Họ ví kế hoạch như một chiếc đầu tầu
kéo theo các toa “tổ chức”, “chỉ đạo”, “kiểm tra”. Như vậy, người quản lý, nếu
không có kế hoạch thì không biết phải tổ chức nhân lực và các nguồn nhân lực
khác như thế nào, thậm chí họ còn không rõ phải tổ chức cái gì nữa. Không có
9
kế hoạch, người quản lý không thể chỉ dẫn, lãnh đạo người thuộc quyền hành
động một cách chắc chắn với những kỳ vọng đặt vào kết quả mong đạt tới. Cũng
vậy, không có kế hoạch thì cũng không xác định được tổ chức hướng tới đúng
hay chệch mục tiêu, không biết khi nào đạt được mục tiêu và sự kiểm tra trở

thành vô căn cứ.
Trong QLGD, quản lý nhà trường, kế hoạch hoá là một chức năng quan
trọng vì trên cơ sở phân tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng
đã có và những khả năng sẽ có mà xác định rõ hệ thống mục tiêu, nội dung hoạt
động, các biện pháp cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của nhà trường khi
kết thúc các hoạt động. Kế hoạch hoá có vai trò to lớn như vậy bởi bản thân nó
có những chức năng cơ bản cụ thể sau:
Chức năng chẩn đoán: Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và
những phân tích về trạng thái đó. Đối với nhà trường đó là trạng thái về cơ sở
vật chất, về đội ngũ giáo viên, về các kết quả về hoạt động sư phạm của các năm
học trước đó, những mặt tốt và mặt tồn tại, nguyên nhân của chúng…Dựa trên
những số liệu của năm học trước rút ra kết luận cụ thể về trạng thái xuất phát của
nhà trường trong năm học mới.
Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu trên
cơ sở phân tích và căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ của năm học
mới để suy ra những hướng phát triển cơ bản của nhà trường, trong đó có tính
tới nhu cầu bên ngoài và bên trong của nhà trường, lựa chọn những hướng ưu
tiên, dự kiến những mục tiêu cần đạt và các tiêu chuẩn đánh giá.
Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phác thảo các phương án chọn lựa có
tính tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.
- Chức năng tổ chức
Bamard định nghĩa tổ chức như là “ Hệ thống các hoạt động hay tác động có
ý thức của hai hay nhiều người”.
10
Cuốn “Cơ sở khoa học quản lý” đã xác định: “Tổ chức là hoạt động
hướng tới hình thành cấu trúc tối ưu của hệ thống quản lý và phối hợp tốt nhất
giữa các hệ thống lãnh đạo và bị lãnh đạo (chấp hành)” [9].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
đã chỉ rõ: “Kiện toàn tổ chức và nâng cao trách nhiệm các cơ quan quản lý nhà
nước” [42.tr72]. Xuất phát từ quan điểm trên, trong quản lý giáo dục, quản lý

trường trung học, điều quan trọng nhất của công tác tổ chức là phải xác định rõ
vai trò của mỗi bộ phận, cá nhân, bảo đảm các mối quan hệ ngược, sự thống nhất
và đồng bộ về tổ chức trong quản lý giáo dục ở trường trung học.
Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho phép
các cá nhân góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là điều kiện
của quản lý, đúng như V.I.Lê-nin đã khẳng định: “Chúng ta phải hiểu rằng,
muốn quản lý tốt…còn phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa” [23]. Thực chất
của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa các bộ phận
trong hệ thống quản lý. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực, tổ chức không
tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.
- Chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi
và thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo thể
hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ
chức nhằm góp phần thực hiện hoá các mục tiêu đã đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy
động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ
giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó để
họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.
- Chức năng kiểm tra
Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những biện pháp tốt nhất để đạt
tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để thực hiện hoá
các mục tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động kiểm tra để xem xét việc
11
triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần thiết
trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định.
Như vậy, kiểm tra có vị trí quan trọng trong việc đổi mới công tác quản lý
như đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tổ chức, chỉ đạo cũng như đổi mới cơ
chế quản lý, phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý.
Tóm lại: Sự phân công và chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý đã

hình thành nên các chức năng quản lý, đó là chức năng kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ đạo và kiểm tra. Các chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như
minh hoạ ở sơ đồ dưới đây:

Sơ đồ1.2: Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý
1.1.2. Quản lý giáo dục
1.1.2.1. Khái niệm giáo dục
Để tồn tại và phát triển, con người phải trải qua quá trình lao động. Trong
lao động và trong cuộc sống hàng ngày, con người nhận thức thế giới xung
quanh, dần dần tích luỹ được những kinh nghiệm, từ đó nảy sinh những nhu cầu
truyền đạt những hiểu biết ấy cho nhau. Đó chính là nguồn gốc phát sinh của
hiện tượng giáo dục.
Sơ khai, giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, sau đó trở thành
một hoạt động có ý thức. Ngày nay, giáo dục đã trở thành một hoạt động được tổ
Kế hoạch hoá
Tổ chứcChỉ đạo
Kiểm tra
12
chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có chương trình kế hoạch, có nội dung,
phương pháp hiện đại và trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng
của xã hội loài người.
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ
có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc,
nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó xã hội loài người không ngừng
tiến lên.
1.1.2.2. Khái niệm quản lý giáo dục
Nhà nước quản lý mọi hoạt động của xã hội, trong đó có hoạt động giáo
dục. Nhà nước quản lý giáo dục thông qua tập hợp các tác động hợp quy luật
được thể chế hoá bằng pháp luật của chủ thể quản lý, nhằm tác động đến các

phân hệ quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất
lượng, hiệu quả đào tạo thế hệ trẻ.
Đã có nhiều nghiên cứu về quản lý nói chung cho nên cũng có nhiều quan
niệm khác nhau về quản lý giáo dục.
Theo M.I.Kônđacôp: QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý
thức và hướng đích của chủ quản lý ở các cấp khác nhau, đến tất cả các mắt xích
của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân
cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của
xã hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và
tâm lý trẻ em [21tr124].
Theo P.V.Khuđôminxky (nhà lý luận Xô Viết): QLGD là tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến các khâu của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích bảo đảm
việc giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, bảo đảm sự phát triển toàn diện
và hài hoà của họ.
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là nhà trường vận hành theo
13
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành
giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh…” [16].
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lý là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng
thái mới về chất [30].
Từ những quan niệm trên chúng ta có thể khái quát rằng: Quản lý giáo
dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh
công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Trong
hệ thống giáo dục, con người giữ vai trò trung tâm của mọi hoạt động. Con

người vừa là chủ thể vừa là khách thể quản lý. Mọi hoạt động giáo dục và
QLGD đều hướng vào việc đào tạo và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, bởi vậy
con người là nhân tố quan trọng nhất trong QLGD.
1.1.3. Quản lý nhà trường
1.1.3.1. Khái niệm nhà trường
Nhà trường là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, thực hiện chức năng
kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho mọi nhóm dân cư nhất định của xã
hội đó. Nhà trường được tổ chức sao cho việc kiến tạo nói trên đạt được các mục
tiêu mà xã hội đó đặt ra cho nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo này
một cách tối ưu theo quan niệm của xã hội.
Quá trình sư phạm là quá trình kiếm tạo các điều kiện và cơ hội để cá thể
người lĩnh hội, chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội, thực hiện việc xã hội hoá nhân
cách của mình. Nhà trường thực hiện chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội
thông qua quá trình sư phạm hay nói cách khác, nhà trường là thiết chế chủ yếu
để thực hiện quá trình sư phạm.
Trong bối cảnh hiện đại, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một
thiết chế chuyên biệt của xã hội để giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những
14
công dân có ích cho tương lai. Thiết chế đó có mục đích rõ ràng, có tổ chức chặt
chẽ, được cung ứng các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện chức năng của
mình mà không một thiết chế nào có thể thay thế được. Những nhiệm vụ của nhà
trường cũng được đề cập đến từ nhiều khía cạnh khác nhau. Việc quản lý nhà
trường cũng có nhiều cách để tiếp cận. Bản chất giai cấp của nhà trường được
khẳng định bởi tính mục đích cũng như cách thức vận hành của nó và một điều
được khẳng định là: Khi nhà trường thực hiện chức năng giáo dục trong một xã
hội cụ thể, bản sắc văn hoá dân tộc in dấu sâu đậm trong toàn bộ hoạt động của
nhà trường.
Ta có thể thấy rõ các dấu hiệu phân biệt nhà trường với các thiết chế khác
là: Tính mục đích tập trung hay mục đích hẹp, mục đích được “chiết xuất”; Tính
tổ chức và tính kế hoạch cao; Tính hiệu quả giáo dục - đào tạo cao nhờ quá trình

truyền thụ có ý thức; Tính biệt lập tương đối hay tính lý tưởng hoá các giá trị xã
hội; Tính chuyên biệt cho từng đối tượng hay tính chất phân biệt đối xử theo
phát triển tâm lý và thể chất [13].
1.1.3.2 Quản lý nhà trường
Bản chất của việc quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy – học, tức
là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần
tiến tới mục tiêu giáo dục [15tr72].
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lý nhà trường là: “Tập hợp những
tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp…) của
chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các cán bộ khác. Nhằm tận
dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp, do lao
động xây dựng và vốn lao động tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động
của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất
lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới”
[30].
Theo Phạm Viết Vượng: Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ
quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và
15
các lực lượng giáo dục khác, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng
cao giáo dục và đào tạo trong nhà trường [44tr205].
Quản lý nhà trường bao gồm hai loại tác động sau: Tác động của những
chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường (đó là những tác động quản lý
của các cơ quan QLGD cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động
giảng dạy, học tập, giáo dục của nhà trường, hoặc những chỉ dẫn, những quyết
định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp đến nhà
trường như cộng đồng được đại diện dưới hình thức Hội đồng giáo dục nhằm
định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực
hiện phương hướng phát triển đó); Tác động của những chủ thể quản lý bên
trong nhà trường (bao gồm các hoạt động: Quản lý giáo viên, quản lý học sinh,
quản lý quá trình dạy học – giáo dục, quản lý cơ sở vật chất trang thiết bị trường

học, quản lý tài chính trường học, quản lý mối quan hệ giữa nhà trường và cộng
đồng.[13].
Như vậy, quản lý nhà trường chính là QLGD trong một phạm vi xác định,
đó là nhà trường (đơn vị giáo dục). Quản lý nhà trường là một hoạt động được
thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của quản lý, đồng thời có những nét
riêng mang tính đặc thù của giáo dục. Do đó quản lý nhà trường cần vận dụng tất
cả các nguyên lý chung của QLGD để đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường
theo mục tiêu đào tạo.
Mục đích của quản lý nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang có
tiến lên một trạng thái phát triển mới bằng phương thức xây dựng và phát triển
mạnh mẽ các nguồn lực phục vụ cho việc tăng cường chất lượng giáo dục. Mục
đích cuối cùng của QLGD là tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả để đào tạo
lớp trẻ thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh
phúc của bản thân và của xã hội [13tr20].
Tóm lại: Nhà trường là một thành tố cơ bản của hệ thống giáo dục nên
quản lý nhà trường cũng được hiểu như là một bộ phận của QLGD. Thực chất
của quản lý nhà trường, suy cho cùng là tạo điều kiện cho các hoạt động trong
16
nhà trường vận hành theo đúng mục tiêu, tính chất của nhà trường XHCN ở Việt
Nam.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ CÔNG TÁC
CHỦ NHIỆM LỚP
1.2.1.Giáo viên chủ nhiệm
1.2.1.1 Vị trí và chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp
“Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh
tương lai của một dân tộc. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện
con người Việt Nam XHCN, đồng thời chuẩn bị lực lượng lao động dự trữ và
nguồn tuyển chọn để đào tạo công nhân và cán bộ cần thiết cho sự nghiệp xây
dựng kinh tế, phát triển văn hoá và tăng cường quốc phòng” (Nghị quyết của Bộ
Chính trị Ban CHTƯ Đảng CSVN về CCGD). Vì vậy, trường phổ thông có

nhiệm vụ giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ từ 6 tuổi đến tuổi trưởng thành.
Chính các giáo viên, trong đó có giáo viên chủ nhiệm, là một lực lượng cốt cán
thực hiện nhiệm vụ này.
Ở cấp tiểu học, mỗi lớp do một giáo viên phụ trách. Công tác của giáo
viên cấp tiểu học có tính đặc thù của nó: giáo viên vừa đảm đương việc giảng
dạy tất cả các môn học, vừa đảm đương việc giáo dục học sinh trong nội khoá và
ngoại khoá, trong trường và ngoài trường, vừa đảm đương việc quản lý toàn diện
học sinh trong mối quan hệ với các lớp khác, với bộ phận lãnh đạo của nhà
trường, với gia đình và xã hội. Như vậy, giáo viên cấp tiểu học phải thực hiện
các chức năng dạy học, giáo dục, quản lý trong sự thống nhất với nhau. Họ trở
thành người giáo dục chủ yếu, người gần gũi nhất đối với trẻ em lần đầu tiên
bước vào ngưỡng cửa nhà trường, dẫn dắt các em đi vào thế giới khoa học; giúp
đỡ, hướng dẫn các em nhận thức và giải thích các hiện tượng của thế giới chung
quanh; dạy các em biết sống và làm việc trong tập thể mới của lớp; hình thành ở
các em những cơ sở đầu tiên của thế giới quan khoa học và các phẩm chất đạo
đức của con người mới.
17
Song ở các cấp trên của trường phổ thông, công tác dạy học – giáo dục
học sinh được tiến hành với nội dung ngày càng toàn diện hơn, phong phú hơn,
sâu sắc hơn, hệ thống hơn và nhiều hình thức hoạt động đa dạng ở trong và
ngoài trường. Trong đó, các môn học đã được đưa vào quá trình dạy học với sự
phân hoá ngày càng sâu. Do vậy, toàn bộ công tác dạy học – giáo dục học sinh
không thể chỉ do một giáo viên đảm đương; trái lại phải do một tập thể sư phạm
bao gồm nhiều giáo viên phụ trách: các giáo viên bộ môn và giáo viên chủ
nhiệm.
Các giáo viên bộ môn có trách nhiệm tổ chức việc dạy và học các môn mà
mình phụ trách, và qua đó, góp phần tích cực nhất vào việc giáo dục cho học
sinh cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng và những phẩm
chất đạo đức của con người lao động mới làm chủ tập thể. Song do tính chất của
môn học và khối lượng thời gian dành cho việc học từng môn ở từng lớp, một

giáo viên bộ môn có thể phải đảm đương công tác giảng dạy ở nhiều lớp khác
nhau. Như vậy, học sinh ở mỗi lớp đồng thời phải học nhiều giáo viên khác
nhau. Vấn đề đặt ra là, ai sẽ là người đứng ra phối hợp hoạt động của tất cả các
giáo viên giảng dạy trong cùng một lớp nhằm đảm bảo được sự tác động giáo
dục thống nhất? Người đó chính là giáo viên chủ nhiệm.
Hơn nữa, như chúng ta đều biết, mỗi lớp bao gồm một số lượng học sinh
nhất định, ở lứa tuổi nhất định, có trình độ phát triển nhất định…Chúng họp
thành một tập thể có tổ chức chặt chẽ với những hoạt động chung và cùng nhằm
mục đích chung: xây dựng nhân cách con người mới phù hợp với mục tiêu giáo
dục của từng cấp học. Do đó, có thể nói rằng, mỗi lớp được coi như một đơn vị,
một tế bào hữu cơ của cả hệ thống nhà trường, một bộ phận hữu cơ của cả tập
thể trường học. Sự trưởng thành của nó gắn liền với sự trưởng thành của toàn
trường. Mỗi thành công hay không thành công của nó đều ảnh hưởng đến sự
thành công hay không thành công của cả trường. Vì vậy, một yêu cầu có tầm
quan trọng đặc biệt là phải làm thế nào xây dựng được tập thể lớp thành tập thể
tốt, góp phần xây dựng tập thể, nhà trường tốt. Người đứng ra đảm đương vai trò
18
chủ đạo chính trong công tác giáo dục học sinh của từng lớp, trên cơ sở phối hợp
các lực lượng giáo dục cũng chính là giáo viên chủ nhiệm.
Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm có thể được coi là người thay mặt hiệu
trưởng làm công tác quản lý và giáo dục học sinh một lớp nhất định. Thông
thường, đó là các giáo viên có nhiều kinh nghiệm giáo dục học sinh được hiệu
trưởng tín nhiệm và giao trách nhiệm.
Giáo viên chủ nhiệm có thể vẫn tiến hành giảng dạy môn học nào đó ở lớp
mình làm chủ nhiệm và ở các lớp khác trong trường, nhưng chức năng cơ bản
của họ là chức năng quản lý – giáo dục. ở đây, mặt quản lý và mặt giáo dục
thống nhất với nhau mật thiết, để giáo dục tốt, phải quản lý tốt và quản lý tốt sẽ
giúp cho giáo dục được tốt. Thực tiễn giáo dục đã chứng tỏ rằng, nếu không
thống nhất được hai mặt này thì kết quả giáo dục cho cả tập thể hay từng cá nhân
học sinh đều không mang lại hiệu quả mong muốn.

Vậy chức năng quản lý – giáo dục của giáo viên chủ nhiệm lớp được thể
hiện như thế nào?
Trước hết, giáo viên chủ nhiệm phải quan tâm đến sự phát triển toàn diện
của mọi học sinh trong tập thể lớp: phải nắm vững được những đặc điểm chung
của lớp, những đặc điểm của từng học sinh; có mục tiêu, nội dung, hình thức
giáo dục thích hợp, có những tác động sư phạm hợp quy luật, mang lại hiệu quả
cao; chú ý giáo dục cá biệt, cá nhân hoá giáo dục; đánh giá kết quả học tập, tu
dưỡng toàn diện của lớp, của từng học sinh.
Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm phải biết tổ chức, quản lý tập thể học sinh.
Như trên đã nói, lớp là một tập thể, là một đơn vị cơ sở, là một tế bào của tập thể
nhà trường. Vì vậy, bộ máy quản lý của lớp nằm trong bộ máy quản lý chung
của toàn trường. Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng, chịu trách
nhiệm trước hiệu trưởng, phụ trách công tác quản lý trong phạm vi lớp mình làm
chủ nhiệm. ở đây giáo viên chủ nhiệm phải:
a. Thiết kế được kế hoạch xây dựng và phát triển tập thể học sinh.
19
b. Phát huy được ý thức tự quản của học sinh, xây dựng được bộ máy của
lớp có đủ năng lực và uy tín điều hành các hoạt động chung.
c. Cố vấn cho bộ máy này hoạt động; bồi dưỡng một cách có kế hoạch
các phần tử tích cực nhằm làm cho tập thể lớp đạt được các mục tiêu đã đề ra
thông qua việc tổ chức các hoạt động tập thể một cách có kế hoạch và có phương
pháp.
d. Tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động của lớp, của từng học sinh.
e. Báo cáo, thỉnh thị hiệu trưởng theo chế độ đã quy định.
Cuối cùng, chức năng quản lý – giáo dục của giáo viên chủ nhiệm còn
được thể hiện ở chỗ tổ chức tập hợp và khai thác sức mạnh tổng hợp của các lực
lượng giáo dục trong và ngoài trường nhằm xây dựng được tập thể học sinh, thúc
đẩy sự phát triển nhân cách toàn diện của từng thành viên của nó.
1.2.1.2. Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm
với tập thể học sinh

Để giáo dục tốt học sinh lớp mình phụ trách, giáo viên chủ nhiệm phải
tiến hành một số công việc với chúng.
 Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục
K.Đ.Usinxki cho rằng, muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu
con người về mọi mặt. Học sinh tồn tại với tư cách là đối tượng giáo dục, nhưng
đồng thời chúng cũng là chủ thể giáo dục với tính năng động có ý thức của
chúng. Để giáo dục học sinh, giáo viên phải hiểu chúng một cách toàn diện và cụ
thể, từ đó mới có thể có những tác động sư phạm thích hợp. Trái lại, nếu không
hiểu chúng hoặc hiểu chúng không đầy đủ, thiếu chính xác thì những tác động sư
phạm được lựa chọn sẽ không mang lại hiệu quả mong muốn, thậm chí thất bại.
Kinh nghiệm cho thấy, giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu và nắm được
các đặc điểm cơ bản về tâm lý, tư tưởng, chính tri, đạo đức, về năng lực nhận
thức, về thể lực, về khả năng và ý thức lao động, về hoàn cảnh sống và các mối
quan hệ với tập thể, với những người chung quanh…Qua đó, thấy được những
mặt mạnh, những mặt yếu cơ bản của từng học sinh cũng như của cả lớp. ở đây
20
điều quan trọng là phải hình dung được rõ nét quá trình phát triển nhân cách,
phát triển tập thể với những yếu tố mới, những mầm mống mới tích cực.
Để tìm hiểu và nắm được học sinh, giáo viên chủ nhiệm có thể vận dụng
nhiều cách thức sau:
- Nghiên cứu hồ sơ học sinh (học bạ, y bạ, sơ yếu lý lịch của bố mẹ, các
bản tự nhận xét và tự đánh giá định kỳ của học sinh các lớp trên, biên
bản của hội đồng kỷ luật (nếu có).
- Nghiên cứu các sản phẩm học tập, lao động…của học sinh (bài làm,
báo tường, nhật ký, các sản phẩm lao động…).
- Nghiên cứu các sổ sách, giấy tờ của lớp (sổ điểm danh, sổ điểm, sổ
biên bản sinh hoạt lớp, tổ, các giấy khen, bằng khen…).
- Quan sát hằng ngày về hoạt động, về thái độ, và hành vi của học sinh
(ở trong lớp, ngoài lớp, trong trường, ngoài trường…).
- Đàm thoại với cá nhân và tập thể học sinh, với các giáo viên, các cán

bộ Đoàn, Đội về những vấn đề cần tìm hiểu.
- Thăm gia đình học sinh và trò chuyện với các bậc cha, mẹ.
- Tiến hành thực nghiệm tự nhiên…
Nhờ vậy, những thông tin thu được sẽ phong phú, cụ thể, có độ tin cậy,
giúp giáo viên chủ nhiệm nắm được các đặc điểm của học sinh và quá trình phát
triển của chúng cũng như những nguyên nhân cơ bản tương ứng. ở đây, có điều
cần chú ý là, phải liên tục tìm hiểu học sinh, liên tục thu những thông tin ngược;
phải xử lý một cách khoa học những thông tin này; tuyệt đối không hời hợt, tuỳ
tiện, chủ quan. A.X.Macarenco cho rằng, nhà giáo dục cần ghi nhật ký nghiên
cứu học sinh, thường xuyên ghi chép các sự kiện quan trọng nhất về hành vi của
học sinh, từ đó, thấy được xu hướng phát triển của chúng.
Những kết quả nghiên cứu, tìm hiểu học sinh sẽ tạo ra tiền đề quan trọng
để thực hiện công tác giáo dục chúng một cách có hiệu quả.
 Xây dựng và phát triển tập thể học sinh
21
Tập thể được coi như môi trường, như phương tiện giáo dục học sinh,
trong đó, mỗi thành viên của nó có các điều kiện thuận lợi để phát triển nhân
cách nói chung, phát triển tài năng nói riêng. Theo A.X.Macarenco, tập thể là
một cơ thể xã hội sinh động thể hiện sức mạnh tổng hợp của các thành viên của
nó. Sức mạnh của các thành viên một khi đã được liên kết lại một cách có mục
đích, có tổ chức thì sẽ tạo ra sức mạnh chung của tập thể mạnh gấp nhiều lần
tổng số sức mạnh của các thành viên riêng rẽ, và đồng thời lại có tác dụng làm
tăng thêm sức mạnh của từng thành viên. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm phải cùng
các lực lượng giáo dục, đưa lớp mình tiến nhanh và vững chắc từ giai đoạn nhà
giáo dục đề ra yêu cầu thống nhất cho học sinh đến giai đoạn xuất hiện những
phần tử tích cực chung quanh nhà giáo dục và cuối cùng, đến giai đoạn cả tập
thể tự đề ra yêu cầu, nghĩa là biến được yêu cầu từ bên ngoài thành yêu cầu của
bản thân tập thể và cả tập thể có nhu cầu thực hiện tốt yêu cầu này. Đây là quá
trình phát triển trình độ giáo dục và sự chín mùi của tập thể học sinh.
Muốn vậy, trước hết, giáo viên chủ nhiệm cần đề ra những yêu cầu thống

nhất, nhất quán, hợp lý, vừa sức cho học sinh sao cho phù hợp với những yêu
cầu giáo dục chung của nhà trường, có tính đến những đặc điểm, những điều
kiện cụ thể của lớp. Những yêu cầu này được coi là công cụ điều khiển và lãnh
đạo học sinh, có tác dụng định hướng và điều chỉnh hành vi của chúng. ở đây,
giáo viên chủ nhiệm phải giải thích cho học sinh hiểu đầy đủ và đúng đắn những
tiêu chuẩn, những quy tắc hành vi được thể hiện trong các yêu cầu. Từ đó, làm
nảy sinh trong chúng mâu thuẫn giữa yêu cầu phải đạt và trình độ phát triển hiện
có và kích thích chúng có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn này.
Do tác động của những yêu cầu, trong tập thể học sinh xuất hiện những
phần tử tích cực. Đó là những học sinh tự giác, quyết tâm thực hiện tốt những
yêu cầu do giáo viên chủ nhiệm đề ra. Không những thế, những học sinh này lại
mong muốn thu hút cả lớp vào việc hoàn thành những yêu cầu đó. Vì thế, giáo
viên chủ nhiệm phải kịp thời phát hiện, lựa chọn một cách chính xác và tế nhị
những phần tử tích cực và bồi dưỡng chúng trở thành những hạt nhân đoàn kết,
22
làm nòng cốt cho bộ máy tự quản, cho mọi hoạt động của lớp. Tất nhiên những
phần tử tích cực là lực lượng tiên tiến được cả lớp yêu mến, tín nhiệm, nghĩa là
được tập thể công nhận.
Để bồi dưỡng những phần tử tích cực, giáo viên chủ nhiệm cần
a. Làm cho họ ý thức được vị trí, vai trò, nhiệm vụ của mình trong tập
thể.
b. Giúp họ nắm được nội dung công tác và đặc biệt là các phương pháp
công tác qua các hoạt động thực tiễn trên cơ sở thống nhất được tính tích cực
sáng tạo của họ với tính chủ đạo của mình.
c. Tổ chức cho họ phân tích, đánh giá hệ thống hoá và khái quát hoá các
kinh nghiệm hoạt động.
d. Kiểm tra, đánh giá hoạt động của họ; giúp đỡ họ khắc phục những khó
khăn; động viên kịp thời về những cố gắng của họ; xây dựng, phát triển và bảo
vệ uy tín cho họ trước tập thể, tuyệt đối không tạo ra sự đối lập giữa họ và các
thành viên trong lớp.

Dựa vào vai trò nòng cốt của các phần tử tích cực giáo viện chủ nhiệm
lãnh đạo, tổ chức các hoạt động (học tập, lao động, vui chơi, giải trí, thể dục thể
thao ). Qua đó, thu hút toàn thể học sinh tham gia tích cực, tạo ra và củng cố,
phát triển những mối quan hệ lành mạnh trong tập thể. ở đây cần chú ý đề phòng
tình trạng một số học sinh tách khỏi hoạt động chung và "liên kết" với nhau
thành những nhóm tự phát không trong sáng.
Các hoạt động này gắn liền với việc tổ chức phong trào thi đua tập thể
theo từng đợt với những chủ để nhất định có ý nghĩa giáo dục. Trong đó, cần có
những hình thức hấp dẫn nhằm kích thích ở học sinh những nhu cầu hoạt động,
chính qua phong trào thi đua, giáo viên chủ nhiệm lớp phát huy được tính tự
giác, tính tích cực, lòng say mê và hứng thú học tập, tu dưỡng ở học sinh; củng
cố và phát triển được tình cảm tập thể, tình cảm thầy trò; gây được dư luận lành
mạnh; phát huy được truyền thống của lớp, của trường
23
Trong quá trình xây dựng tập thể, rất có thể xuất hiện phần tử cá biệt tiêu
cực. Điều quan trọng là, cần thấy rõ bản chất tiêu cực ở chúng; phát hiện chính
xác các nguyên nhân; có những tác động về phía giáo viên chủ nhiệm cũng như
về phía tập thể một cách thích hợp; tuyệt đối không được cô lập chúng, đẩy
chúng xa rời tập thể và đối lập với tập thể.
 Giáo dục cơ sở thế giới quan khoa học và những phẩm chất đạo đức
cách mạng cho học sinh
Trong quá trình giáo dục, một công tác lớn được đặt ra là giáo dục cho
học sinh cơ sở thế giới quan khoa học và những phẩm chất đạo đức cách mạng
theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ thể là phải hình thành được ở học
sinh niềm tin tưởng, đạo đức, động cơ và thái độ học tập đúng đắn. Kết quả cuối
cùng của việc giáo dục là học sinh tự giác biến được những yêu cầu của xã hội
về mặt tư tưởng, đạo đức thành hành vi và thói quen tương ứng,
Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm phối hợp với các giáo viên
giảng dạy ở lớp mình phụ trách để đảm bảo được hiệu quả giáo dục của quá trình
dạy và học các môn học.

Bên cạnh đó, giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với các lực lượng giáo
dục khác, đặc biệt là với tổ chức Đoàn TNCS và Đội TNTP tổ chức các hoạt
động với nhiều hình thức khác nhau (như báo cáo thời sự, hội thảo về đạo đức,
tổ chức các ngày kỉ niệm, lao động công ích, xem phim, hành quân cắm trại ).
Trong quá trình giáo dục, giáo viên chủ nhiệm không thể không quan tâm
đến việc kết hợp sự đánh giá của mình và sự tự đánh giá của học sinh về kết quả
rèn luyện của chúng. Sự đánh giá của giáo viên chủ nhiệm được tiến hành trên
cơ sở tham khảo ý kiến của các giáo viên khác, của các tổ chức Đoàn, Đội và
đồng thời của cả bản thân tập thể học sinh. Sự đánh giá này phải có hệ thống, có
tính toàn diện, đặc biệt phải có tính khách quan. Có như vậy mới mang lại hiệu
quả giáo dục; kích thích các em phát huy ưu điểm và trên cơ sở đó, tự khắc phục
khuyết điểm. Đáng tiếc rằng, trong thực tiễn, còn có những giáo viên chủ nhiệm
24
đánh giá học sinh một cách cảm tính, thành kiến hoặc thiên vị gây ảnh hưởng
xấu đến quá trình rèn luyện của học sinh.
 Nâng cao thành tích học tập của học sinh
Nâng cao thành tích học tập của học sinh là một trong những nhiệm vụ
hàng đầu của giáo viên chủ nhiệm lớp. Thành tích học tập này không những thể
hiện kết quả nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn thể hiện ở kết quả phát triển
năng lực hoạt động trí tuệ nói chung và năng lực tư duy sáng tạo nói riêng. Giáo
viên chủ nhiệm cần thông qua tập thể lớp đề ra những yêu cầu học tập đối với
học sinh, xây dựng dư luận lành mạnh, làm cho mọi học sinh ý thức được nghĩa
vụ học tập của mình, xác định được động cơ học tập đúng đắn, thái độ học tập
trung thực, tìm tòi các phương pháp học tập tích cực để đạt được chất lượng học
tập cao nhất.
Đồng thời, giáo viên chủ nhiệm phải lãnh đạo tập thể lớp tổ chức các
nhóm học tập, các nhóm ngoại khoá, trao đổi kinh nghiệm tự học, thảo luận khoa
học, thực nghiệm khoa học để giúp học sinh có thêm điều kiện mở rộng và đào
sâu tri thức, đặc biệt là tập vận dụng những điều đã học được.
Đối với học sinh kém, giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu kỹ nguyên nhân

để có thể giúp đỡ chúng nâng cao thành tích học tập, ví như, nếu học kém do
tinh thần, thái độ không tốt thì cần có những biện pháp giáo dục thích đáng; nếu
học kém do năng lực nhận thức yếu, do có những lỗ hổng trong tri thức, do lúng
túng về phương pháp học tập thì cần dựa vào giáo viên bộ môn, vào tập thể lớp
để giúp đỡ cải tiến cách học, bổ xung thêm những tri thức cần thiết; nếu học kém
do điều kiện học tập ở gia đình không thuận lợi thì cần đề nghị gia đình quan
tâm tạo điều kiện Đối với học sinh giỏi, nên thu hút chúng vào các nhóm ngoại
khoá với tư cách là lực lượng nòng cốt, giới thiệu cho chúng những nguồn tài
liệu và hướng dẫn chúng sử dụng hợp lý và vừa sức
 Giáo dục lao động và hướng nghiệp
Ở trường phổ thông, học sinh tham gia nhiều hình thức lao động khác
nhau: lao động tự phục vụ, lao động công ích và lao động sản xuất. Giáo viên
25

×