Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Anh (chị) hãy trình bày nguyên lý của mối liên hệ phổ biến. Từ đó rút ra ý nghĩa và sự vận dụng nguyên lý này vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.51 KB, 15 trang )

Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày nguyên lý của mối liên hệ phổ biến. Từ đó rút ra ý nghĩa và sự vận dụng
nguyên lý này vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Trả lời:
Khái niệm mối liên hệ: Dùng để chỉ sự tác động ràng buộc qui định và chuyển hóa lẫn nhau của sự vật hiện
tượng trong thế giới khách quan.
Tính chất của mối liên hệ:
+ Thế giới khách quan: Thế giới vật chất tồn tại khách quan nên các mối liên hệ của nó cũng tồn tại khách
quan tức là không phụ thuộc vào ý thức của con người.
+ Tính phổ biến: Mỗi sự vật hiện tượng có vô vàng các mối liên hệ, chúng có vị trí, vai trò khác nhau. Ngay
trong các yếu tố của sự vật hiện tượng cũng có vô vàng các mối liên hệ khác nhau.
+ Tính đa dạng phong phú: sự vật này có mối liên hệ này, sự vật khác có mối liên hệ khác, trong thời gian
khác nhau, không gian khác nhau là các liên hệ khác nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải quán triệt quan điểm toàn diện, tức là khi xem xét các sự vật
hiện tượng phải xem xét tất cả các mối liên hệ của sự vật hiện tượng đó càng cho chúng ta sự đánh giá, càng
chính xác và đầy đủ sự vật hiện tượng chống lại quan điểm siêu hình phiến diện một chiều.
+ Tôn trọng quan điểm lịch sử cụ thể. Khi xem xét các sự vật hiện tượng phải đặt nó trong những điều kiện
hoàn cảnh lịch sử cụ thể để có đánh giá đúng về sự vật hiện tượng. Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải,
coi mọi mối quan hệ là như nhau.
Vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam:
+ Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư
tưởng…) chứ không ở một lĩnh vực nào. Như Đại hội VII của Đảng nêu kinh nghiệm bước đầu đổi mới “Một
là phải giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, hai là đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để
nhưng phải có bước đi hình thức và cách làm phù hợp”. Thực tiễn cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc
trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt đổi mới cơ chế,
chính sách tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc.
+ Đổi mới toàn diện trên tất cả lĩnh vực, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm như xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường để tạo ra động lực nhằm phát huy, kiến trúc nền kinh tế trong nhân dân, khai thác vốn đầu tư
và trình độ cũng như vốn của nước ngoài, nâng cao tay nghề, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của thế
giới.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã gia nhập WTO, tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế VN ngày càng đi


lên hội nhập toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Đó là sự vận dụng hết sức sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào sự
nghiệp cách mạng VN đặc biệt là vận dụng nguyên lý của mối liên hệ phổ biến.
Câu 2: Anh (chị) hãy giải thích, Trong khi nói về thực tiễn Lê Nin viết “Quan điểm về đời sống và thực
tiễn phải là thứ nhất cơ bản lý luận của nhận thức”. Phân tích và rút ra ý nghĩa sự vận dụng của Đảng ta
trong công cuộc xây dựng CNXH hiện nay.
Trả lời:
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm tạo
ra tự nhiên và xã hội.
3 hình thức của hoạt động thực tiễn:
- Sản xuất của cải vật chất. - Hoạt động cải tạo xã hội. - Hoạt động thực nghiệm khoa học.
Trong đó: Hoạt động sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định nhất.
Phân tích quan điểm của Lê Nin: “Quan điểm về đời sống và thực tiễn phải là thứ nhất cơ bản lý
luận của nhận thức”.
+ Thực tiễn là cơ sở động lực cảu nhận thức: Trong quá trình con người tiến hành hoạt động thực tiễn
thì cũng là lúc con người tiến hành hoạt động nhận thức. Nhận thức luôn được thực hiện trên những nền tảng
của thực tiễn.
+ Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức phát triển. Chính trong quá trình con người tiến
hành hoạt động thực tiễn thì tự những hoạt động này đặt ra cho con người những yêu cầu nhiệm vụ phải giải
quyết. Khi giải quyết được những yêu cầu đó thì nhận thức của con người được tăng lên một bước, sự hiểu
biết của con người rộng hơn, sâu hơn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý trong quá trình nhận thức có khi con người phạm phải sai
lầm. Vì vậy muốn biết con người nhận thức đúng hay sai thì phải đem nhận thức vào kiểm nghiệm trong thực
tiễn.  Do đó quan niệm của Lê Nin là hoàn toàn đúng đắn.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Xuất phát từ thực tiễn tôn trọng quy luật khách quan. + Chống cái chủ quan duy ý chí.
+ Thực tiễn luôn luôn vận động phát triển không ngừng nhận thức, lí luận muốn không lạc hậu phải thường
xuyên tổng kết bổ sung.
+ Mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn của Lê Nin được HCM vận dụng: “Lý luận không có thực tiễn là lý
luận suôn, thực tiễn mà ko có lý luận là thực tiễn mù quáng”.
- Vận dụng của Đảng ta trong quá trình xây dụng CNXH hiện nay:

Thời kỳ bao cấp chúng ta chủ quan duy ý chí, khủng hoảng kinh tế, tiêu cực xảy ra.
Đến năm 1986 (Đại hội VI), Đảng ta nhận ra hạn chế sai lầm tôn trọng quy luật khách quan đề ra đường
lối đổi mới trên mọi lĩnh vực, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, thực hiện chính sách kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng XHCN. Sau đổi mới chúng ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Tại Đại hội XI, Đảng ta khẳng định chấm dứt tình trạng khủng hoảng, phát triển nhanh và bền vững đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Để phát triển kinh tế, Đảng ta phải ổn định chính trị, “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, ổn định
chính trị là nhiệm vụ then chốt”. Phát triển đất nước toàn diện, mọi mặt để thực hiện thành công con đường
CNXH.
Câu 3: Tại sao nói: “Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB”.
Trả lời:
a. Khái niệm giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị hàng hóa sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và
bị nhà tư bản chiếm không. Bản chất của chủ nghĩa tư bản chính là quan hệ bóc lột của tư bản đối với công
nhân làm thuê dưới hình thức giá trị thặng dư.
b. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tư bản:
Quy luật giá trị thặng dư vạch rõ mục đích và phương tiện của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục đích
của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị thặng dư ngày càng nhiều càng tốt. Phương tiện để đạt mục
đích là cải tiến, phát triển khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường
độ lao động và kéo dài ngày lao động.
c. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động
quá giới hạn lao động cần thiết khi các điều kiện khác không thay đổi.
- Giá trị thặng dư tương đối: là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trên cơ
sở tăng năng suất lao động xã hội.
d. Tác động quy luật giá trị thặng dư đối với xã hội tư bản :
Quy luật giá trị thặng dư có tác động mạnh mẽ trong xã hội tư bản, Một mặt nó thúc đẩy cải tiến kỹ thuật,
phát triển lực lượng sản xuất, năng suất lao động xã hội, xã hội hóa sản xuất tạo ra nhiều hàng hóa đa dạng,
phong phú… mặt khác, nó làm cho mâu thuẩn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt, mâu thuẩn giữa
tính chất xã hội cảu sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng tăng.

Câu 4: Tầm quan trọng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại. Nêu các nguyên tắc đối ngoại của Đảng?
Theo anh (chị) nguyên tắc nào là quan trọng nhất. Vì sao?
Trả lời: Thành tựu:
Chúng ta đã tích cực mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác nhiều mặt với các nước, khôi phục và mở rộng
quan hệ hữu nghị hợp tác nhiểu mặt với Trung Quốc.
Tăng cường quan hệ hữu nghị đoàn kết, đặc biệt với Lào, Campuchia.
Phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và đã trở thành thành viên
chính thức của Liên hiệp quốc, Asean, Asem, Apec, WTO.
Củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với nhiều nước công nghiệp phát triển, bình thường hóa và thiết
lập quan hệ ngoại giao với Mỹ.
Hiện nay VN đã có quan hệ ngoại giao hơn 172 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, mở rộng và tăng
cường hữu nghị truyền thống với các Đảng cộng sản và công nhân trên thế giới, đã có quan hệ thương mại với
trên 220 nước. Các công ty đa quốc gia ở các nước và vùng lãnh thổ đã và đang đầu tư trực tiếp vào VN.
* Những khó khăn, thách thức:
Trên TG chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo đang diễn ra ở nhiều nơi, hoạt
động khung bố diễ ra phức tạp và có chiều hướng lan rộng. Tranh chấp biên giới và lãnh thổ diễn ra nhiều nơi
liên quan đến những vấn đề lịch sử tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu khí.
Cạnh tranh thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường… giữa các nước ngày
càng gay gắt. Các nước tư bản phát triển lợi dụng ưu thế về tiềm lực kinh tế và công nghệ thu lợi lớn trong
quá trình toàn cầu hóa và gây sức ép với các nước kém phát triển, trong đó có VN.
Cơ sở hạ tầng của nước ta còn kém, thủ tục hành chính còn rườm rà, thường xuyên bị các nước trên thế
giới chống phá giá, con người VN chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt.
* Bài học trong công tác đối ngoại:
Là phải phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường đi đôi với tăng cường đoàn kết và mở
rộng hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thường xuyên đổi mới tư duy đối ngoại
Bài học về công tác lý luận nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình.
Bài học về công tác cán bộ.
Các nguyên tắc của công tác đối ngoại:
- Tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của

nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực.
- Giải quyết tranh chấp bất đồng thông qua thương lượng hòa bình.
- Tôn trọng, bình đẳng cùng có lợi.
Trong các nguyên tắc trên, nguyên tắc đầu tiên là quan trọng nhất. Vì:
Các dân tộc, quốc gia trên thế giới đều nêu cao ý thức độc lập dân chủ, tự lực, tự cường đấu tranh chống
lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài để bảo vệ chủ quyền và nền văn hóa dân tộc.
Việc giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường bảo vệ lãnh thổ và tôn trọng lãnh thổ, không đe dọa dùng
vũ lực các nước khác có ý nghĩa to lớn và rất quan trọng, nó thể hiện tình đoàn kết quan hệ hữu nghị, không
xâm phạm biên giới của nhau, Nếu tranh chấp về lãnh thổ thì có thể dẫn đến 2 nước căn thẳng, các vấn để về
an ninh, kinh tế và các vấn đề khác diễn ra theo.
Tinh thần tự lực tự cường chính là bản sắc dân tộc, nó gắn liền với phát triển chính trị, kinh tế văn hóa.
Không có độc lập tự chủ của dân tộc thì không thể có chính sách đối ngoại độc lập.
Câu 5: Anh (chị) hiểu như thế nào về kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa? (3 điểm)
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó các quan hệ kinh tế đều được
lượng hóa bằng tiền tệ, các đối tượng của sản xuất đều là đối tượng mua và bán, các doanh nghiệp đều có mục
đích tự nhiên là tìm kiếm lợi ích cho chính mình theo sự dẫn dắt của những tín hiệu thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một hình thức tổ chức kinh tế vừa dựa trên các quy luật của thị
trường vừa dựa trên các ngun tắc và bản chất của CNXH.
Có thể nói rằng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung
của kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc thù, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường khơng phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự
khác nhau giữa kinh tế thị trường ở nước ta với các nước khác.
Câu 6: Anh (chị) hãy phân tích đặc điểm ra đời Đảng cộng sản Việt Nam. (3 điểm)
I. Hoàn cảnh lịch sử:
Đầu thế kỷ XX các nước đế quốc lớn như Anh, Mỹ, Pháp đã xâm chiếm hầu hết các nước nhỏ yếu trên
thế giới và biến thành thuộc địa của họ, thực thi chính sách thực dân tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đối với
các thuộc địa. Các nước thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập trở thành một nội dung lớn của
phong trào cách mạng thế giới.
Cuộc cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Cuộc cách mạng đó đã

chặt đứt một khâu yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa và các hệ thống thuộc địa, mở ra một thời đại
mới trong lịch sử loài người- thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Cách mạng tháng 10 cũng đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng loài người. Ở Châu Á, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ đặc biệt
là Trung quốc. Quãng Châu được coi như là cái nôi của cách mạng Châu Á lúc bấy giờ.
Ở Việt Nam, tháng 6/1884 triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp định Patơnot thừa nhận sự thống trị của thực
dân Pháp. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị: thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế điển hình, đàn áp đẩm máu các phong trào
yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Pháp xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, đồng
thời vẫn duy trì chính quyền phong kiến tay sai làm chỗ dựa. Thực dân Pháp thi hành chính sách chia để trị,
chia rẽ ba nước đông dương, xóa tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ chính trị thế giới. lập ra
xứ đông dương thuộc Pháp. Ở Việt Nam Pháp còn chia rẽ giữa ba kỳ, Nam kỳ,Trung kỳ, Bắc kỳ.
Về văn hóa: Thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân. Họ bưng bít ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa
tiến bộ trên thế giới, kể cả văn hóa tiến bộ Pháp, xuyên tạc lịch sử và giá trị văn hóa Việt Nam, dùng rượu cồn
và thuốc phiện để đầu độc người Việt Nam.
Về kinh tế: Thực dân Pháp ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẽ mạt của người bản xứ, cùng
nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý. Đặc biệt thực dân Pháp đã tiến hành khai thác thuộc địa lần
thứ1(1897 - 1914) và lần 2 (1919 - 1929), dẫn đến những biến đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội ở Việt Nam.
Cơ cấu kinh tế: Đã ra đời những ngành kinh tế công nghiệp, khai thác mỏ, giao thông vận tải, thương
nghiệp, kinh tế đồn điền.
Về cơ cấu xã hội: giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hóa, giai cấp công nhân và tư sản Việt Nam ra đời.
Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp thì giai cấp địa chủ phong kiến có sự phân hóa.
Một bộ phận cam tâm bán nước, làm tay sai cho Pháp. Một bộ phận khác nêu cao truyền thống và tinh thần
dân tộc khởi xướng và lãnh đạo các phong trào yêu nước chống Pháp để giành độc lập dân tộc và bảo vệ chế
độ phong kiến.
Giai cấp nông dân là lực lượng to lớn trong dân cư, họ hăng hái chống đế quốc và phong kiến, khao khát
độc lập và ruộng đất. Tầng lớp trí thức tiểu tư sản có tinh thần dân tộc, yêu nước rất nhạy cảm về chính trị và
thời cuộc. Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời sau chiến tranh thế giới thứ 1 với hai bộ phận.
Một bộ phận gắn liền lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của thực dân Pháp,
trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc, mâu thuẩn với tư bản Pháp và triều

đình phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, phụ thuộc, do vậy chính trị là cải lương.
II. Quy luật ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
1. Phong trào yêu nước:
Từ khi thực dân Pháp xâm lược đến những năm 20 của thế kỷ XX, đã có hàng trăm cuộc đấu tranh anh
dũng của dân tộc ta chống kẻ thù xâm lược, nhưng đều lần lượt thất bại. Phong trào chống thực dân Pháp theo
ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần vương đã thất bại khi cuộc khởi nghĩa của Phan đình Phùng chấm
dứt năm 1896. Phong trào nông dân Yên thế của Hoàng hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được
thắng lợi.
Đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản phương Tây cũng xâm nhập vào nước ta. Con đường cải cách
Minh trị của Nhật bản cũng như tư tưởng cải cách và cách mạng Tân Hợi của Trung quốc đều ít nhiều có ảnh
hưởng đến phong trào yêu nước của Việt Nam, lôi cuốn nhiều sỷ phu phong kiến, tiêu biểu là Phan bội Châu
và Phan Chu Trinh.
Phan Bội Châu, lúc đầu chủ trương xây dựng chế độ quân chủ lập hiến như Nhật Bản. Năm 1912 ông lập
ra Việt Nam quang phục hội, từ bỏ lập trường quân chủ lập hiến chuyển sang lập trường dân chủ tư sản đại
Pháp, thành lập Cộng hòa dân quốc Việt Nam, cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân
đảng theo con đường của Tôn dật Tiên nhưng cả hai hướng đi đó đều thất bại.
Phan chu Trinh cũng là một nhà yêu nước nhiệt thành, ông lên án gay gắt tội ác của thực dân Pháp, quan
lại phong kiến sâu mọt, chủ trương cải cách đát nước nhưng lại muốn dựa vào Pháp để chống phong kiến
chẳng khác gì "xin giặc rũ lòng thương". Cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng với khẩu
hiệu "không thành công cũng thành nhân" đã nhanh chóng thất bại, chứng tỏ sự hăng hái bồng bột nhất thời
của tầng lớp tiểu tư sản.
Phong trào yêu nước của nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và liên tục, nhưng thiếu đường lối và sự lãnh đạo
đúng đắn. Trên thực tế, các phong trào cứu nước từ lập trường Cần vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản,
qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại. Tình hình đó đòi hỏi phải có đường lối cách mạng đúng đắn và
một tổ chức cách mạng có khả năng đưa phong trào cách mạng đến thắng lợi.
2. Phong trào công nhân:
Cuộc đấu tranh của công nhân xuất hiện ngay khi giai cấp công nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất của thực dân Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố: Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng,
Nam Định, Vinh, Quảng Ninh…
Từ chiến tranh TG1, giai cấp công nhân diễn ra hình thức sơ khai, rồi mới tiến lên những hình thức đấu

tranh đặc thù của giai cấp mình.
Năm 1919 – 1925, diễn ra với hình thức bãi công. Tiêu biểu là của công nhân Ba Son (1925) và cuộc bãi
công nhà máy sợi Nam Định (30.4.1925). đòi chủ tư bản tăng lương, ko đánh đập, giảm đuổi thợ… nhìn
chung, phong trào công nhân đã có bươc phát triển hơn chiến tranh TG1.
Năm 1926 – 1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của những tổ chức: Hội VN cách mạng thanh
niên, công hội đỏ và các tổ chức cộng sản ra đời năm 1929. Từ năm 1928 – 1929, có khoảng 40 cuộc đấu
tranh diền ra trên toàn quốc, các cuộc đấu tranh của công nhân mang tính chất chính trị rõ rệt, Phong trào công
nhân có sữ lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường CMVS. Điều đó chứng tỏ trình đọ giác ngộ của công
nhân đã nâng lên rõ rệt.
3. Nguyễn Ái Quốc và công việc chuẩn bị thành lập Đảng.
Nguyễn Ái Quốc,khi đi học tên là Nguyễn Tất Thành, lớn lên trong cảnh mất nước, đồng bào bị đọa đày
đau khổ, người thanh niên giàu lòng yêu nước đó đã sớm có ý chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân
tộc. Năm 1911, Nguyễn ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người sang Pháp, đi qua nhiều nước thuộc địa của
Pháp ở châu Phi, sang Mỹ, đến nước Anh tìm hiễu các cuộc đấu tranh của nhiều dân bị áp bức trên thế giới,
tìm hiễu xã hội tư bản, và sau đó trở lại Pháp. Tại đây, người từng bước học tập lý luận, tham gia Đảng Xã hội
Pháp, lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước.
Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi. Nguyễn ái Quốc được đọc bản "Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin. Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn ái Quốc con đường
đấu tranh giành độc lập tự do thật sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.
Năm 1920 Nguyễn ái Quốc tán thành thành lập Đảng cộng sản Pháp và trở thành một trong những người
sáng lập đảng Cộng sản Pháp và cũng là cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Năm 1923, Nguyễn ái Quốc sang Liên xô và năm 1924 tham dự Đai hội V của Quốc tế cộng sản.
Năm 1924 Nguyễn Ái Quốc tới Quảng châu(TQ) người cùng các nhà lãnh đạo cách mạng Trung
quốc,Triều tiên, Ấn độ, Thái lan thành lập liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á - Đông.
Tháng 6 năm 1925, Nguyễn ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và ra báo Thanh niên
và trong những năm 1925-1927 mở nhiều lớp huấn luyện đào tạo cán bộ. Đó là sự chuẩn bị tích cực về tổ
chức và cán bộ cho việc thành lập Đảng cộng sản.
Năm 1928, Phong trào vô sản hóa của Hội VN cách mạng thanh niên phát triển mạnh mẽ làm cho tổ
chức công hội hình thành.
III. Thành lập Đảng CSVN - Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.

1. Sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam:
Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng nước ta, tổ chức Hội VNCMTN
không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong trào, cần phải thành lập một Đảng cộng sản Việt Nam.
Năm 6/1929 Kỳ bộ Bắc kỳ thành lập Đông dương cộng sản đảng. Tháng 11/1929 tổng bộ và kỳ bộ Nam
kỳ của Hội VNCMTN quyết định thành lập An nam cộng sản đảng và đầu năm 1930 những đại biểu ưu tú của
Tân việt cách mạng đảng thành lập Đông dương cộng sản liên đoàn.
2. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp ở bán đảo Cữu long, Hương
cảng (Trung quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản.
Hội nghị đã nhất trí thống nhất các nhóm cộng sản thành lập một Đảng, lấy tên là Đảng cộng sản Việt
Nam. Hội nghị thông qua Cương lĩnh của Đảng bao gồm Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn
tắt của Đảng. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Sự kiện thành lập Đảng cộng sản Việt Nam là một bước ngoặc quyết định trong sự phát triển của dân tộc
ta, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Cương lĩnh của đảng đã đoàn kết toàn dân và lãnh đạo toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp để đi tới chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lụa chọn dứt khoát và đúng đắn của Bác Hồ, của Đảng và nhân
dân ta để có độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Từ thực tiển lịch sử đã chứng minh rằng:
Đảng CSVN là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam.
Câu 7: Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng. Anh
(chị) tâm đắc nhất nội dung nào? Vì sao? Liên hệ bản thân anh, chị về việc học tập và làm theo nội dung
tâm đắc đó như thế nào? (4 điểm)
Trả lời:
a. Trung với nước, hiếu với dân:
Hai chữ “Trung, hiếu” là những tư tưởng đạo đức cơ bản truyền thống của con người VN theo tư tưởng
nho giáo phương đông. Nó phản ánh mối quan hệ lớn nhất và bao trùm nhất: “Trung với Vua, hiếu với cha
mẹ”.
Nhưng HCM đã mượn từ “trung, hiếu” để diễn giải theo một hướng mới tiến bộ hơn, đúng đắn hơn là
“trung với nước, hiếu với dân”. Đây chính là một cuộc cách mạng trong quan điểm về đạo đức.
HCM cho rằng: “Trung với nước thì phải gắn liền với việc hiếu với dân”. Vì nước là của toàn dân, còn

dân là chủ của đất nước; bao nhiêu quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân, do
đó cán bộ là đầy tớ của dân chứ không phải là “quan cách mạng”.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp và xây dựng giữ nước, trung thành với con đường
đi lên của đất nước; suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin
dân, phục vụ dân hết lòng. Để làm được như vậy phải gần dân, kinh trọng và học tập nhân dân, dựa vào dân
và lấy dân làm gốc.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
Cũng như khái niệm “Trung, hiếu”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ
trong truyền thống đạo đức dân tộc VN, và ngày nay, HCM đã lọc bỏ những điều không phù hợp, đưa vào
những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
“Cần”: là siêng năng chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với tinh thần tự lực
cánh sinh.
“Kiệm”: là tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, của cải, công sức) của nước, của dân chứ không phải của riêng
mình, không sa sỉ hoang phí, sử dụng bừa bãi hay tối ngày chè chén lu bù.
“Liêm”: là tôn trọng của công, của dân, không tham lam quyền lực, địa vị, tiền tài, phải sống “trong sạch”.
“Chính”: là thẳng thắn, đứng đắn, HCM đưa ra một số yêu cầu, Đối với bản thân không tự cao tự đại, phải
biết học hỏi phát triển cái hay, cái đẹp, sửa sai cái dở, cái xấu. Với người khác, không nịnh bợ xum xoe người
trên, không khinh khi kẻ thấp hơn mình. Với công việc, đưa công việc, trách nhiệm lên hàng đầu, lụa những
việc tốt mà làm, tránh việc xấu.
Đối với mỗi quốc gia, “Cần, kiệm, liêm, chính” là thước đo sự giàu có về vật chất, sức mạnh tinh thần, thể
hiện văn minh tiến bộ. Đây là nền tảng của cuộc sống mới của các phong trào thi đua yêu nước.
“Chí công vô tư”: Là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị làm việc khoogn được nghĩ đến mình
trước, phải vì Đảng vì dân tộc “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập
thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
c. Lòng yêu thương con người:
Yêu thương con người được Bác xác định là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người nói:
“Người làm cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm mới đi làm cách mạng”.
Tình yêu thương là một tình cảm rộng lớn, trước hết phải dành cho những người nghèo khổ, bị mất quyền,
bị áp bức, không yêu thương thì không thể thực hiện CNXH, CNCS.
HCM coi con người là vốn quý nhất, suy cho cùng, ở đời và làm người phải biết yêu thương nhau. Người

thường ví 5 ngón tay có ngón ngắn, ngón dài khác nhau nhưng đều tập hợp trên 1 bàn tay.
Trong cuộc sống không tránh khỏi có những người có những sai lầm khuyết điểm. HCM phê phán có lý
có tình, nghiêm khắc mà bao dung độ lượng người nhắc nhở nâng cái tốt, khắc phục cái xấu.
Người chỉ có ham muốn tột bậc là: “Nước ta được độc lập, dân ta được hạnh phúc, đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng:
HCM thường nói, đoàn kết nhất trí giữa tất cả các nước trong đại gia đình XHCN và các ĐCS anh em là
của quý vô giá của chúng ta. “Quan san muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản dều là anh em”.
Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước dân chủ, không muốn gây thù oán với ai. Đoàn kết các Đảng
anh em và các nước anh em trên cơ sở CN Mác – Lê Nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý, có tình.
Nội dung khiến em tâm đắc là là nội dung thứ ba “lòng yêu thương con người”:
Vì:
Bác đã nói “Người làm cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm mới đi làm cách mạng”. Thiết
nghĩ, trong công cuộc đổi mới đất nước tiến lên xây dựng XHCN, trở thành một nước công nghiệp hóa thì mỗi
cá nhân chúng ta đều là một người cách mạng. Tuy tình cảm của con người có người ít, người nhiều nhưng có
tình cảm thì tình đoàn kết mới được thắt chặt được, và mới có thể giúp đỡ lẫn nhau. Phải xuất phát từ lòng yêu
thương con người Bác Hồ mới hy sinh cả cuộc đời để đi tìm đường cứu nước, cứu đất nước khỏi cảnh lầm
than. Cũng chính từ lòng yêu thương con người ta mới có thể làm được tất cả những việc không trái với đạo
đức, lương tâm, hướng ta đến cái thiện và sẽ sống vì người khác nhiều hơn là nghĩ về lợi ích cá nhân của
chúng ta.
Để làm theo mà nội dung em tâm đắc:
Là một công dân của đất nước Việt Nam thì em sống đúng với lương tâm đạo đức của một người cách
mạng trong thời kỳ đổi mới, phải biết rèn luyện bản thân giúp đỡ người khác, không để mất tính cách đạo đức
của mình. Và điều quan trọng là khi vẫn còn đang trên ghế nhà trường phải cố gắng học tập, nghiên cứu công
nghệ, trao dồi kiến thức để cải thiện hoàn chỉnh bản thân mình, có như thế mới có thể giúp ích góp phần tạo
được cho đất nước, quê hương ngày càng tươi đẹp.
Câu 8: Chứng minh rằng: Giai cấp công nhân Việt Nam tuy ra đời muộn nhưng đã sớm nắm được
ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam. (3 điểm)
_trong giáo trình Chính trị cao đẳng nghề có.
Câu 9: Phân tích Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM:

Hồ Chí Minh sinh ra trên mãnh đất mà ở đó thiên nhiên hết sức khắc nghiệt, tuy nhiên đó lại là mãnh đất yêu nước,
có truyền thống chống giặc ngoại xâm và đã sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt cho đất nước (Mai Thúc Loan, Nguyễn
Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, vv…). Ngay từ nhỏ Người đã chứng kiến cuộc sống cơ cực, bị
đàn áp, áp bức bốc lột đến cùng cực của đồng bào mình ngay trên quê hương, những tội ác tày trời của thực dân Pháp và
thái độ ương hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam triều.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước. Thân phụ của Người là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Cụ là một nhà nho giàu lòng yêu nước, thương dân, cần cù lao động, có ý chí kiên cường vượt qua mọi gian khổ khó
khăn, để đạt được mục tiêu, chí hướng. Những phẩm chất cao quý đó của người cha (đặc biệt với chủ trương lấy dân
làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị xã hội), đã có tác động ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh sau này.
a.Tư tưởng văn hoá truyền thống Việt Nam:
- Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước.
- Tình thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách.
- Dân tộc ta là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời, truyền thống đó có cội nguồn từ niềm tin và sức mạnh
của bản thân, tin vào sự tất thắng của lẻ phải và chân lý, có thể nói rằng trong suốt cuộc đời của Hồ Chí Minh chính
Người là hiện thân của truyền thống cao quý đó.
- Dân tộc ta là 1 dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và trong chiến đấu, là một dân tộc
ham học hỏi, không ngừng mở rộng để đón nhận tinh hoa văn hoá nhân loại.
b.Tinh hoa văn hoá nhân loại:
- Tư tưởng văn hoá phương đông: (Nho giáo và Phật giáo)
+ Nho giáo: bên cạnh việc phê phán bác bỏ những yếu tố duy tâm lạc hậu của Nho giáo (tư tưởng đẳng cấp coi
khinh lao động chân tay, khinh và coi thường phụ nữ). Thì Người rất trân trọng những mặt tích cực của Nho giáo như là
triết lý hành động tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, lý tưởng về một xã hội bình trị. Triết lý nhân sinh đó là tu thân
dưỡng tính, đề cao văn hoá lễ giáo, đề cao truyền thống hiếu học.
+ Phật giáo: vào Việt Nam từ rất sớm cũng như Nho giáo, Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn trong văn hoá Việt Nam
từ tình cảm, tư tưởng, tín ngưỡng đến phong tục tập quán, lối sống, vv…vì nó là một tôn giáo nên cũng không tránh
khỏi những mặt hạn chế, khiếm khuyết và Người đã tiếp thu những mặt tích cực như: tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu
khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện. Tinh
thần bình đẳng dân chủ chất phát, chống lại mọi phân biệt đẳng cấp, đề cao lao động chống lười biếng, vv…Ngoài Nho
giáo và Phật giáo ra chúng ta vẫn thấy ở Hồ Chí Minh trong các bài viết, nói của Người thể hiện tư tưởng của Lão tử,

Mạc tử, vv…và đặc biệt khi trở thành người cộng sản Hồ Chí Minh vẫn tìm đến và nghiên cứu chủ nghĩa “Tam dân”
của Tôn Trung Sơn.
- Tư tưởng phương tây:
Ngay từ khi còn học ở trường Tiểu học Đông Ba và trường Quốc học Huế thì Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hoá
Pháp. Người rất muốn tìm hiểu cuộc đại Cách mạng Pháp năm 1789. Thực tiễn trong 30 năm hoạt động Cách mạng ở
nước ngoài Người chủ yếu sống ở Châu Âu. Do đó, Người chịu ảnh hưởng rất sâu rộng về nền văn hoá dân chủ và các
mạng ở phương Tây. Trong quá trình bôn ba ở hải ngoại cuối năm 1912 Người đến nước Mỹ, từng sống ở Niu-giooc,
làm thuê ở Brúclin, ghé thăm và tìm hiểu khu người da đen, Người đã nghiên cứu bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của
nước Mỹ. Cuối năm 1913 Người rời Mỹ sang Anh, tại đây Người đã chứng kiến phong trào đấu tranh giành độc lập của
công nhân Aigiơlen và gia nhập Công đoàn thủy thủ và cùng với giai cấp Công nhân Anh xuống đường biểu tình, đấu
tranh, đình công, vv…
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh trở về Pháp, tại đây Người đã tìm hiểu, nghiên cứu về lý tưởng cao quý của đại Cách
mạng Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”, tìm hiểu nghiên cứu tuyên ngôn nhân quyền, dân quyền của đại các mạng Pháp
năm 1791. Ngoài ra, còn được hấp thu tư tưởng dân chủ, học được phong cách làm việc dân chủ ở Câu lạc bộ Phêbua và
trong sinh hoạt chính trị của Đảng xã hội Pháp.
Tóm lại, trong hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại,
trong đó có cả tư tưởng văn hoá phương đông và cả tư tưởng văn hóa phương tây.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin: Là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhờ
có thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa MÁC-LÊNIN đã giúp Hồ Chí minh hấp thu và chuyển hoá được
những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc và tư tưởng văn hoá nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng
của mình. Do đó, Chủ nghĩa Mác –Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bản chất Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người tiếp thu Chủ nghĩa MÁC-LÊNIN là tiếp thu và nắm vững cái cốt lỏi cái bản chất và cái linh hồn sống của lý
thuyết này, nắm vững phương pháp luận khoa học và quan điểm lập trường cách mạng để giải quyết các vấn đề thực tiễn
của Cách mạng Việt Nam.
Những nhân tố chủ quan:
Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất các nhân của Hồ Chí Minh: ở Người có tư duy độc lập tự chủ, sáng
tạo; đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt, ở Người là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của
thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới. Ở Người có tâm hồn của một nhà yêu nước, một
chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, yêu thương người cùng khổ, sẵn sàng chịu
đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập, tự do, hạnh phúc của đồng bào.

Tóm lại, chính những phẩm chất cá nhân hiếm có đó đã giúp HCM tiếp nhận chọn lọc, chuyển hoá và phát triển
những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình.
NGUỒN GỐC CÓ TÍNH BƯỚC NGOẶT: CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN
Chủ nghĩa Mác – Lê Nin là bước ngoặt cơ bản trong quá trình tìm đường cứu nước và quá trình phát triển tư tưởng
HCM: Chủ nghĩa yêu nước đã gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giác ngộ dân tộc đã phát triển và kết hợp với giác ngộ giai
cấp, cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản.
Bước ngoặt đó đánh dấu sự định hình và khằng định giai cấp vô sản chủ nghĩa Mác – Lê Nin mang bản chất cách
mạng và khoa học triệt để.
Thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lê Nin đã giúp Hồ Chí Minh nhận thức đánh giá, phân tích, tổng kết các
học thuyết tư tưởng đương thời cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để tìm ra đường đúng đắn cho sự
nghiệp cứu nước và giải phóng dân tộc. Người đã coi chủ nghĩa Mác – Lê Nin như là cẩm nang thần kỳ, là kim chỉ nam,
mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi đến chủ nghĩa xã hội và cách mạng cộng
sản. Khi phân tích các chủ nghĩa học thuyết người viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác – Lê Nin”.
Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam Người đã chỉ rõ: “Chúng ta đã thắng lợi là do nhiều nhân
tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng ta giành thắng lợi đó trước hết là nhờ vũ khí không gì thay đổi được là chủ
nghĩa Mác – Lê Nin”.
Điểu đó chứng minh vai trò và ý nghĩa quyết định của chủ nghĩa Mác - Lê Nin đối với sự hình thành và phát triển
của tư tưởng HCM.

×