Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

TÌM HIỂU KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG CÁC THẾ KỈ XI -XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.53 KB, 74 trang )

TÌM HIỂU KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
TRONG CÁC THẾ KỈ XI -XVIII
“Trong chế độ phong kiến trung ương tập quyền ở nước ta, cơ sở vật chất
của xã hội dựa vào kinh tế nông nghiệp, ruộng đất là nguồn tư liệu sản xuất chính,
địa tơ phong kiến là nguồn sống, nguồn bóc lột chủ yếu của nhà nước phong kiến.
Vì vậy, các triều đại phong kiến khi nắm quyền ln phải có chính sách “trọng
nơng”, “khuyến nơng”, tu sửa đê điều, mở mang thủy lợi, phát triển khai hoang…
Đặc biệt, theo quan niệm “dĩ nông vi bản, dĩ thương vi mạt”, hiện tượng bỏ
“nghề gốc” (nghề nông) theo “nghề ngọn”(nghề buôn) sẽ làm ảnh hưởng đến
nguồn tô thuế từ ruộng đất, sự lớn mạnh của tầng lớp thương nhân sẽ có thể đe
dọa ngai vàng... Nghề bn, người đi buôn…do vậy thường bị xem thường, bị
khinh miệt.”
Đào Thị Phương Huyền – Luận văn tốt nghiệp trường ĐH Sư Phạm TP.
Hồ Chí Minh: Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỷ XI-XVIII – GVHD:
TS. Trần Thị Thanh Thanh - Trang 3 - Năm 2009.
(Khái quát Lịch Sử ngoại thương Việt Nam)
“1.Thời kì dựng nước (Hùng Vương – An Dương Vương):
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Những hoạt động trao
đổi hàng hóa đầu tiên giữa nước ta với Trung Quốc có từ trước cơng ngun (thời
Đường(2357-2258 TCN): Sách Cương mục tiền tiền biên của Lý Kim Tường chép
rằng: “ Năm Mậu Thân thứ năm đời Đường Nghiêu, Việt thị thường sang chầu, dâng
con rùa thần. Lời chua- Rùa thần: Theo thơng chí của Trịnh Tiều, về đời Đào
Đường, phương Nam có Việt thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa
thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình có hơn ba thước, trên có chữ văn khoa
đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi
là Quy lịch (Lịch Rùa)”.1
1

Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục(tập

1), Nxb Giáo dục,năm 1998, trang 77.




Sử kí Trung Quốc chép: Năm Tân Mão thứ sáu (1110 TCN) đời Thành
Vương nhà Chu, phía Nam bộ Giao Chỉ có Việt Thường thị qua ba lần sứ dịch,
sang dâng chim trĩ trắng. Chu Cơng nói:” Đức Trạch chưa thấm khắp đến phương
xa, người quân tử không nhận đồ lễ ra mắt; chính lệnh chưa ban ra tới người quân
tử chưa bắt người ta thuần phục”. Theo lời người thơng dịch, sứ giả muốn nói:
“Ơng già trong nước chúng tơi có nói: Trời mưa khơng dầm gió dữ và biển khơng
nổi sóng đã ba năm nay, ý chừng Trung Quốc, có thánh nhân chăng? Vì thế chúng
tơi sang chầu”. Chu Công đem dâng lễ vật lên nhà tôn miếu. Sứ giả không thuộc
đường về, Chu Công cho 5 cỗ xe biền đều làm theo lối chỉ Nam. Sứ giả theo xe ấy
theo ven biển về nước Phù Nam, Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước 2.
Đinh Tỵ, năm thứ 24 (184TCN)( Hán Cao Hậu năm thứ tư) Nhà nước
cấm nước Nam Việt mua đồ sắt ở cửa quan. Vua nói: “ Khi Cao Đế lên ngơi, ta
cùng thông sứ chung đồ dùng. Nay Cao Hậu nghe lời dèm pha, phân biệt đồ
dùng Hán Việt. Việc này tất là mưu kế của Trường Sa Vương muốn dựa y đức của
nhà Hán mưu lấy nước ta làm vua cả, tự làm cơng cho mình.” 3
Năm Mậu Ngọ (183TCN) (Triệu Vũ Vương năm thứ 25,Hán Cao Hậu
năm thứ 5). Mùa xuân, Triệu Vương Đà tự xưng là hoàng đế, đem quân đánh
Trường Sa. Bấy giờ Lữ Hâu nhà Hán không cho bán đồ sắt ở cửa quan ải Nam
Việt. Triệu Vương nghe tin nói: Hồi Cao Đế làm vua, ta vẫn cho sứ giả thông hảo
hai nước cùng trao đổi đồ vật. Bấy giờ Lữ Hậu nghe tin bầy tôi gièm pha, chia rẽ
Hán với Việt làm ngăn cách việc trao đổi đồ vật…”4 .
Như vậy, ngay từ trước công nguyên người Việt cổ đã chủ động tiến
hành các hoạt động giao hảo với các dân tộc xung quanh và xa như Trung Quốc, và
từ đó những hoạt động ngoại thương đầu tiên cũng hình thành. Khoảng năm 210
TCN, khi Tần Thủy Hoàng chết, đế chế Tần suy yếu, lợi dụng cơ hội đó Nhâm
2

Theo Khâm Định Việt sử thơng giám cương mục (tập 1),Sđd, trang 77 - 78.


3

Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí tồn thư (tập 1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967, trang 73 (Bản

dịch của Cao Huy Giu).
4

Theo Khâm Định Việt sử thông giám cương mục (tập 1),Sđd, trang 92.


Ngao và Triệu Đà chiếm Nam Hải, xây dựng một vương quốc riêng chống lại
nhà Tần thì đã có hoạt động buôn bán thương mại giữa Việt Nam và Trung Hoa.
2. Ngoại thương Việt Nam thời Bắc Thuộc:
a. Với Trung Quốc:
Theo Phan Lạc Tuyên, trên thực tế Việt Nam là nơi gặp gỡ của nhiều dân
tộc và nhiều nền văn minh (như một số đông nhà nghiên cứu phương Tây đã
nhận định). Cũng có ý kiến khác đánh giá Việt Nam là ngã tư đường của giao
lưu quốc tế với Đông Nam Á và châu Á. Từ lâu rồi, trước công nguyên, Việt Nam
từng là vùng đất dừng chân hay là trạm trung chuyển cho các thương nhân ở vùng
biển Địa Trung Hải, Trung Cận Đông, Ấn Độ tới, hoặc họ có thương điếm ở đây
hoặc họ dừng chân nghỉ ngơi, mua thêm hàng hóa đi tiếp tơi Trung Quốc và Nhật
Bản.
Được nhắc đến nhiều vào lúc đó là Luy Lâu là nơi đóng thủ phủ của Thái
thú Trung Quốc (năm 203 đổi là Giao Châu), ở vào vị trí huyện Thuận Thành, tỉnh
Hà Bắc (Bắc Bộ ngày nay). Vào những thế kỉ đầu cơng ngun do vị trí địa lý
thuận lợi cho việc giao lưu bằng đường bộ, đường sơng và đường biển và là trung
tâm hành chính và kinh tế nên nơi đây những nhà buôn từ Ấn Độ, Trung Á hay xa
hơn nữa đã tới buôn bán. Đồng thời tại đây họ tìm đầu mối để đi Trung Quốc
hay những những thương nhân Trung Quốc liên hệ để đi tới vùng Đông Nam Á,

Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Đông và Địa Trung Hải. Do đấy những tăng lữ Phật
giáo cũng chọn Luy Lâu làm nơi dừng chân truyền đạo” 5.
Ngồi Luy Lâu, cịn có Long Biên (thuộc Hà Bắc), Tư Phố, Lạch
Trường( thuộc Thanh Hóa) là những trung tâm chính trị, kiêm bn bán thời kì này.
Để đạt được mục đích vận chuyển thuế khóa, vật cống, chính quyền đơ hộ lo sửa
đắp đường sá liên lạc giữa các miền cũng như giữa nước ta với Trung Quốc.
Cửu Chân, Nhật Nam và Giao Chỉ từ thời Hán đã liên lạc thông thương với nhau.
Cuối thế kỉ I, con đường dọc sông Thương sang Trung Quốc được xây đắp. Những
Theo Phan Lạc Tuyên, Lịch sử bang giao Việt Nam- Đông Nam Á (Trước công nguyênThế kỉ XIX),Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Viện Đào Tạo Mở Rộng, Khoa Đông Nam Á, trang
27.
5


con đường này được lợi dụng làm đường buôn bán giữa các quận và giữa nước
ta với Trung Quốc. Giao Chỉ là nơi có nền nơng nghiệp và thương nghiệp phát
triển nên là trung tâm trao đổi của dân buôn ở Cửu Chân và Hợp Phố. Gạo Cửu
Chân được đưa sang Hợp Phố để đổi lấy ngọc trai. Hương liệu quí của Cửu Chân,
Nhật Nam cũng được đưa ra Giao Chỉ để chuyễn ra nước ngồi. 6
Các con đường bn bán chính trong và ngồi nước đều do người Hoa
nắm giữ. Chính quyền đơ hộ nắm độc quyền việc mua bán muối và sắt. Các đồng
tiền cổ Trung Quốc cũng được lưu hành như đồng tiền bán lạng thời Tần, thời Cao
Hậu… vàng và bạc cũng được dùng làm tiền. 7
Tuy vậy, dưới thời Bắc thuộc nền kinh tế Việt Nam vừa được thúc đẩy,
vừa bị kìm hãm (do tiếp xúc với một nền văn minh cao hơn nhưng lại bị bóc lột
nặng nề). Với những sản vật quý được ưa chuộng ở nhiều nước nên Việt Nam trở
thành nơi ghé chân của các thương thuyền Trung Quốc đi phương xa và dần trở
thành một thị trường với hai mục đích: Một là, để các lái bn Trung Quốc đến
bán hàng và mua hàng đi xa; Hai là, để các lái buôn Trung Quốc bán hàng của họ,
mua của ta về nước họ hay buôn bán làm giàu tại chỗ.
Ngoại thương Việt Nam phát triển là do sự lệ thuộc vào Trung Quốc và

sự phát triển của nền sản xuất trong nước. Nhưng “trong suốt một ngàn năm chống
ách thống trị Trung Hoa người Việt Nam không đúc tiền mà dùng tiền của bọn đơ
hộ. Điều đó cho thấy nền kinh tế hàng hóa ở nước ta lúc đó chỉ mới bắt đầu phát
triển và chưa đòi hỏi đến mức phải có một thứ hàng hóa đặc biệt là tiền”8.
b. Với các nước Đông Nam Á, và các nước trong khu vực:
Khu vực Đơng Nam Á đã có giao dịch từ những thế kỉ trước công nguyên
với Việt Nam, chủ yếu và quan trọng hơn cả là bằng con đường Hồ Tiêu, con
đường biển mà các thuyền có nhiều điều kiện thuận lợi trong những đợt gió mùa
hàng năm có định kì. Những thương nhân Ấn Độ, Cey lan, Java và cả người Arabe
đã tới Giao Chỉ (và sau này là Giao Châu) để buôn bán. Họ không muốn vất vả để
Theo Trương Hữu Quýnh, Lịch sử Việt Nam ( Trước thế kỉ VI. Q1, Tập1), Nxb Gíao dục,
TP. Hồ Chí Minh, 1976, trang 168- 169.
7
Phạm Văn Chiến, Lịch sử kinh tế Việt Nam, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2003, trang
36.
8
Theo Đỗ Văn Ninh, Tiền cổ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1992, trang 303.
6


đi tới các thương điếm xa hơn Trung Quốc, bởi lẽ hàng hóa ở đó khơng có gì độc
đáo bằng đất Giao Chỉ (sau này là Giao Châu) để buôn bán. Và họ cũng dùng
những thương điếm đặt ở đất Giao Chỉ, chỉ để đưa hàng vào đất Trung Quốc bằng
cách sử dụng những dịng sơng nội địa. Họ cũng có thể dùng những thương điếm
đặt tại Giao Chỉ (sau này là Giao Châu) tích chứa hàng hóa để những lái buôn đem
sang Trung Quốc hay dùng những thương điếm là nơi tiêu thụ hàng hóa địa
phương, gom góp và đơi khi có thể chế biến (da thú q, quế…) để chuẩn bị đem đi
xa cho khỏi hư hỏng.Mối bang giao chính trị thơì đó chưa rõ nét bằng những mối
giao lưu về thương mại và tơn giáo. Có nhiều lý do nhưng có thể lý do chính là từ
những thế kỉ đầu công nguyên đến thế kỉ thử X, Việt Nam lúc đó nằm dưới sự đơ

hộ của triều đình Trung Quốc.
Cũng nên nhắc lại rằng, nói đến Việt Nam thời kì trước thế kỉ XV ngược
lại cho đến những thế kỉ đầu công nguyên là phải kể đến vương quốc cổ Phù Nam
(Founan) tồn tại từ đầu công nguyên đến cuối thế kỉ thứ VI vương quốc này đã bị
Chân Lạp thơn tính và sau đó mang tên Thủy Chân Lạp. Ngoài ra, vương quốc cổ
Champa đã tồn tại từ năm 192 với quốc hiệu đầu tiên là Lâm Ấp (Lin Yi) cho đến
thế kỉ XVIII mới trở thành một vùng đất của Việt Nam. Tất nhiên là trước khi hịa
nhập vào Việt Nam với vị trí là những vương quốc, những quốc gia cổ này đã có sự
bang giao với Đông Nam Á và thế giới ngoại vi, nhất là với Ấn Độ. Đồng thời rất
có thể là mối bang giao giữa Phù Nam, Thủy Chân Lạp, Champa đã có những thời
kì chặt chẽ với Việt Nam.
Việc giao lưu giữa Việt Nam với Đông Nam Á và vùng ngoại vi ở những
thế kỉ trước và sau công nguyên chủ yếu là việc buôn bán giữa các quốc gia vùng
Địa Trung Hải, Trung Cận Đông, Ấn Độ với các quốc gia ở vùng Đông Dương như
tên gọi ngày nay. Các quốc gia ở Đông Dương do địa lý thiên nhiên nên là nơi sản
xuất sản phẩm quý hiếm đối với thị trường thời đó: hồ tiêu, kì nam, trầm hương,
vàng ngọc, đá quý, yến sào (tổ chim yến), các loại gỗ, tê giác, da hổ, báo, đồi mồi
và các lồi thú, chim trĩ nói chung là những thứ hàng cần thiết mà những khu vực
khác khơng có hay hiếm. Phải kể đến cả những loại vải, lụa dệt bằng tơ, sợi,
những loại trái cây của vùng nhiệt đới, á nhiệt đới: lệ chi (vải), long nhãn…Đồng


thời những thương nhân từ phía Tây tới đã mang theo trên những con thuyền viễn
dương của mình hàng hóa sản xuất của nước họ: đồ trang sức bằng vàng, đồ pha lê,
các loại vũ khí và áo giáp chế tạo với kĩ thuật tinh xảo và rất có thể những vật dụng
dùng cho tầng lớp quý tộc và vua chúa. Trước công nguyên sự giao lưu giữa bán
đảo Đông Dương, trong đó có Việt Nam đã phát triển. Căn cứ vào những tư liệu,
thư tịch cổ, người ta có thể biết rõ ràng điều này. Nhà địa dư học Ai Cập gốc
La Mã Claudius Ptolesmee đã viết trong bộ Geographica vào khoảng cuối thế
kỉ II những giao lưu giữa La Mã và vùng Đông Nam Á với những địa danh mà

nhiều nhà nghiên cứu đang cố gắng giải mã nhưng cũng chưa thể khẳng định cụ
thể xem đó là vùng nào hiện nay. Đây là một vài ví dụ: Claudius Ptolemee đã
viết tên những vùng đất hay thương điếm (Comptoir Commercial) mà những
thương nhân La Mã (Romain) đã ghé vào (không liệt kê những địa danh liên hệ
đến những khu vực ngoài địa giới Phù Nam, Thủy Chân Lạp, Champa, Việt Nam)
được các nhà nghiên cứu nói đến trong các cơng trình nghiên cứu: Claudius
Ptolemee nhắc đến thương điếm ở vùng đảo Satyres, vùng đất Sinai, địa danh,
Daonas, Kottiaris, Thinai, Kattigara và những danh khác thuộc. Đông Nam Á.
Những nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến khác nhau, tuy nhiên việc nhiên việc nêu rõ
những ý kiến cho chúng ta thấy được trên nét khái quát về sự giao lưu đã có của Tây
Phương và Đơng Nam Á trong đó có khu vực Đơng Dương.
Về địa danh đảo Statyres nhà khảo cổ học Louis Malleret đưa ra giả thuyết
đó là nhóm đảo Hịn Me, Hịn Sóc, Hịn Đất ở gần Rạch Gía. Địa danh Daonas nhà
nghiên cứu Wilhem Volz cho rằng đó là vùng sơng Mê Kơng và nhà nghiên cứu,
Andre Berthelot cũng đồng ý với nhận định này. Địa danh Seros được nhà
nghiên cứu Richard Henning cho là sông Hồng( Sông Cái) nhưng Andre
Berthelot lại cho là Quảng Trị. Với địa danh Kottiaris thì Louis Malleret cho là
vùng sông Cái Lớn nhưng Albert Hermann cho là vùng sông Mê Kông. Địa danh
Thị Nại được Luuis Malleret xác định ở vung ven biển Nam Bộ ngày nay, hoặc ở
gần Sài Gòn hoặc ở gần Bà Rịa. Riêng địa danh Kattigara đã gây ra nhiều ý kiến
khác nhau, nhưng đa số cho rằng đó thuộc về một nơi nào đó thuộc ven biển Nam
Bộ ngày nay. Nhà nghiên cứu Jirlius Klaprow trong cuốn Tableaux historiques de


I’ Asie xuất bản tại Paris năm 1826 cho rằng Kattigara là một thương điếm thuộc
vùng Vàm sông Mê Kông ở Nam Bộ. Cùng với nhận định là địa danh này ở một
nơi nào đó thuộc ven biển Nam Bộ có các nhà nghiên cứu Albert Hermann, Richard
Henning, W.M.Stein và Louis Malleret một nhà khảo cổ học chuyên nghiên cứu về
Việt Nam người đầu tiên nghiên cứu về Óc Eo đã cho rằng Kattigara nằm ở vùng
bán đảo Cà Mậu, tuy chưa dám khẳng định đó là Ĩc Eo.

Tuy vậy những hiện vật đã tìm thấy tại Ĩc Eo được Louis Malleret mô
tả trong cuốn L’Archeoloque du Dellta du Mekong,( tome III, Paris 1962) bao gồm
nhiều thứ có xuất xứ tại La Mã (Roma) và Trung Cận Đông như đồ trang sức bằng
mã não, bằng thủy tinh có màu sắc, đặc biệt là hai tấm mề đay (mesdaille) bằng
vàng, một tấm có niên hiệu năm 152 thuộc triều đại Antonin le Pieux và một tấm
khác thuộc triều đại Marc Aurele. Ngồi ra, cịn một số hoa tai nhẫn bằng vàng
có kiểu dáng của nghệ thuật vùng Địa Trung Hải. Nhà nghiên cứu Lê Thành Khôi
trong cuốn L’Asie du Sud. Est( Paris1959) có nhận định về Ĩc Eo là trong những
thế kỉ đầu công nguyên nơi đây là một thương điếm phồn vinh vì vị trí của nó nằm
trên đoạn đường giao lưu thương mại giữa phương Tây và Ấn Độ với Trung Quốc
mà vào khoảng năm 166, có đồn thương nhân La Mã đã đi đường biển tới Trung
Quốc. Vào khoảng triều đại của hồng đế Marc Aurele(160) có một phái đồn của
triều đình La Mã được phái đến đi qua đất Giao Chỉ, đi bằng đường biển tới. Những
nhà nghiên cứu đã gọi tuyến đường biển từ Địa Trung Hải tới Việt Nam và Đơng
Nam Á thời đó là đường Hồ Tiêu( Chemin des Epices). Nhận xét này không phải là
khơng có lý do. Bởi lẽ nhu cầu của triều đình và quý tộc vùng Địa Trung Hải lúc đó
cũng rất cần đến đồ gia vị mà chủ yếu là hồ tiêu, sản phẩm của vùng Đông Nam Á.
Ngày nay người ta còn thấy những tên gọi từ thuở đó như Takkola (chợ Hồ Tiêu)
hay Narikeladvpa (đảo Dừa) ở vùng Đông Nam Á.


Con đường Hồ Tiêu đã mở ra mối bang giao giữa Đơng Nam Á với các nước
Ấn Độ và phía Tây, theo thư tịch cổ ghi lại thương nhân Ấn Độ và Trung Quốc đã
dùng những con thuyền viễn dương loại lớn có thể chở từ 600 đến 700 người với kĩ
thuật đóng thuyền rất tinh vi. Những thương nhân Ấn Độ trong việc buôn bán với các
dân tộc và các quốc gia vùng Đông Dương và Đông Nam Á trong những thế kỉ trước
công nguyên vốn là những người theo đạo Bà La môn (Brahmanisme) thuộc đẳng cấp
tăng lữ ( Brahmana) hay quý tộc, võ sĩ (Kasytria) và những người thuộc giới bn bán
tự do( Vaisya). Cũng rất có thể những người thuộc đẳng cấp tăng lữ đi cùng để truyền
đạo tại những nơi xa xôi mà sau này những nhà Đông phương học phương Tây gọi là

vùng ngoại Ấn ( Inde exterieur) hoặc sau này khi văn minh Ấn Độ đã xâm nhập vào
những quốc gia cổ ở Đông Nam Á, họ gọi vùng này là những quốc gia Ấn Độ hóa.
Cũng có trường hợp đó là những người thuộc hoàng tộc và quý tộc của
những vương triều thuộc nhiều thuộc nhiều tiểu quốc Ấn Độ đi phiêu liêu hoặc chinh
phục những vùng đất mới ở Đông Nam Á và cũng đồng thời đi trao đổi và thậm chí
cướp bóc hay khai thác tự do những tài ngun quý hiếm ở địa phương như vàng, đá
quý, trầm hương, ngà voi, ngà tê giác…
Quan hệ giữa Phù Nam, Lâm Ấp với Trung Quốc thời kì này chỉ diễn ra dưới
hình thức triều cống. Do những biến động của chính trị nước Phù Nam bị Chân Lạp
xâm chiếm vào khoảng giữa thế kỉ VI và sau năm 627 TCN sử sách khơng cịn nhắc
đến Phù Nam nữa. Trước đó Phù Nam có gửi hai sứ bộ sang cầu cứu nhà Đường vào
những năm 616 và 627 nhưng bị khước từ. Sau đó Phù Nam chìm vào lãng qn của lịch
sử để nhường cho một quốc gia mới xuất hiện: Chân Lạp tiền thân của Campuchia.
Nhìn chung việc bn bán với nước ngoài, thịnh nhất vẫn là sự giao thương
giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hàng bán ra chủ yếu là hương liệu, lâm sản quí, vải
mịn, gấm, giấy bản loại tốt,đường. Hàng mua vào thì đủ các loại sản phẩm thủ công,
nhất là những thứ xa hoa phục vụ bọn quan lại đô hộ. Và tất nhiên, đương thời việc
buôn bán với nước ngồi nằm trong tay chính quyền đơ hộ. Người đứng ra bn bán
ngồi các quan lại và họ hàng đều là các lái buôn Trung Quốc. Hàng phục vụ chúng rất


có hạn. Sự phát triển ngoại thương chủ yếu làm giàu các quan lại đơ hộ và do đó chỉ
tăng thêm ách lao dịch của nhân dân ta. Ách bóc lột nặng nề càng trở nên nặng nề
hơn và đó cũng là lý do khiến bọn thái thú, thứ sử ở nước ta giàu lên một cách nhanh
chóng.
Nền thương nghiệp nước ta vốn có truyền thống từ lâu đời, lẽ ra phải
được phát triển theo qui luật tự nhiên của nó. Nhưng nền thương nghiệp đó bị
nghừng trệ dưới ách thống trị vô cùng tàn bạo hơn một nghàn năm của đế quốc
phong kiến Trung Hoa. Bọn quan lại thống trị đã biến đất nước giàu có của chúng ta
thành nơi cung đốn những sản phẩm tự nhiên quý giá như hương liệu, ngà voi, ngọc

trai, và bạc…và những đồ mỹ nghệ do thợ thủ công Việt Nam sang tạo ra, để thỏa mãn
ngày càng tăng lịng tham vơ đáy của chúng. Với chính sách bóc lột kinh tế vơ cùng
phản động như vậy, nền kinh tế nước nhà hầu như bi nghưng đọng, trong đó nền thương
nghiệp hầu như chịu hậu quả to lớn. Thương nghiệp chính là biểu hiện, là thước đo của
nền sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa khơng tăng đương nhiên thương nghiệp
khơng phát triển. Trong thời Bắc thuộc sản xuất hàng hóa ở nước ta khơng những
khơng tăng mà cịn bị giảm sút, bởi lẽ chỉ có một số nghề thủ cơng, loại thủ cơng nào
đó được tồn tại để phục vụ nhu cầu xa xỉ của bon quan lại, còn lại sức lao động hầu như
bị đẩy lùi về thời kỳ tìm kiếm, hái lượm để cung cấp sản phẩm tự nhiên quý cho
chúng. Mọi hoạt động kinh tế lớn đều do bọn quan lại thống trị Trung Hoa khống chế,
lũng đoạn. Một nền kinh tế như vậy sẽ khơng có nhiều sản phẩm dư thừa để biến thành
hàng hóa thúc đẩy thương nghiệp tiến lên.
“Tình trạng khan hiếm hàng hóa ở nước ta bởi sức lao động bị kìm hãm, bởi
sản phẩm lao động bị tận thu vơ vét, bởi quyền lao động và hưởng thụ bị chà đạp chỉ
có thể khắc phục được sau khi thoát khỏi ách thống trị tàn khốc của phong kiến Trung
Hoa. Điều này đã được thực tế lịch sử từ sau thế kỉ X, nhất là từ thời Lý và tiếp đó là
thời Trần chứng minh rõ nét”. 9
Phạm Văn Kính (1979),“Bộ mặt thương nghiệp Việt Nam thời Lý –Trần”,T/C Nghiên cứu
Lịch sử, (số 6), trang 35.
9


Đào Thị Phương Huyền – Luận văn tốt nghiệp trường ĐH Sư Phạm TP. Hồ
Chí Minh: Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỷ XI-XVIII – GVHD: TS. Trần
Thị Thanh Thanh – Trang 13-17 - Năm 2009.
“Chính sách trọng nông của các triều đại phong kiến đã tạo điều kiện cho nông
nghiệp phát triển, đời sống nhân dân được ấm no, trật tự xã hội được ổn định, nền độc
lập dân tộc được củng cố và giữ vững. Đồng thời nó cũng tạo ra nguồn sản phẩm phong
phú, dồi dào, đó là nguồn hàng cho thương nghiệp, tạo khả năng cho thủ cơng nghiệp
có thể thốt ly khỏi nông nghiệp và phát triển mạnh. Mặt khác, việc khai thơng hệ thống

thủy lợi, sơng ngịi kênh rạch cũng cũng tạo điều kiện cho việc chuyên chở hàng hóa
giữa các vùng trong nước và thuyền bè các nước có thể đến trao đổi bn bán dễ
dàng. Tuy vậy chính sách trọng nông lại gắn liền với tư tưởng “ức thương”, tư tương
coi nghề nông là nghề gốc “dĩ nông vi bản” và buôn bán là “nghề ngọn” luôn chi phối
tư tưởng của tầng lớp thống trị và nhân dân. Vì vậy trong các chính sách phát triển
kinh tế xã hội của giai cấp phong kiến luôn lấy nghề nông làm trọng và hết sức hạn chế
ngoại thương. Nguyên do là vì kinh tế phong kiến dựa trên cơ sở sản xuất nông nghiệp
là chủ yếu. Sự vững mạnh của chế độ phong kiến là ở chỗ giai cấp thống trị có duy trì
được tình trạng nơng dân phụ thuộc vào ruộng đất để chúng tiến hành bóc lột tơ. Nếu
như kinh tế hàng hóa phát triển lớp thương nhân mạnh lên thì đối với chúng có hai điều
tai hại: một là số thương nhân sẽ rời bỏ ruộng đất mà chuyên làm nghề thủ công hay
buôn bán, như vậy mức tô của phong kiến sẽ không được đảm bảo. Hai là, lớp thương
nhân lớn mạnh lên sẽ bóc lột nơng dân và thợ thủ công làm giảm “thu hoạch” của giai
cấp phong kiến. Nên giai cấp phong kiến chỉ muốn kinh tế hàng hóa phát triển trong
chừng mực có thể thỏa mãn nhu cầu mua hàng của chúng. Còn nếu như phát triển quá
mức độ ấy đến chỗ trở thành một thực thể chi phối mọi quan hệ sản xuất và phân phối
trong nền kinh tế tồn quốc thì sẽ bị giai cấp thống trị phản đối và chống lại. Ngồi ra
về mặt chính trị thì nếu như quan hệ thương phẩm hóa tệ phát triển sẽ làm đảo lộn cái
trật tự “quốc quân thần, gia phụ tử”, cái trật tự dựa trên cơ sở kinh tế tự cấp, tự túc, dựa


trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp trật tự và ổn định. Đó là chưa kể nếu kinh tế hàng
hóa phát triển thì dân số ở nơng thơn sẽ khơng thể nào ổn định được vì nơng dân hoặc
bị phá sản hoặc thường xuyên tham gia vào quan hệ thương phẩm hóa tệ, hoặc bỏ ra
thành thị làm nghề thủ cơng…như thế thì sẽ khơng đảm bảo cho nhà nước nguồn nhân
công làm các công việc tạp dịch khác. Và nhất là vì lý do an ninh đất nước, Nhà nước
lo sợ bọn gián điệp đội lốt thương nhân đến bn bán để do thám tình hình trong nước.
Vì vậy chính sách “bế quan tỏa cảng” trở thành chính sách xuyên suốt các triều đại
phong kiến nhất là từ thời Lê sơ trở đi.”
Đào Thị Phương Huyền – Luận văn tốt nghiệp trường ĐH Sư Phạm TP. Hồ

Chí Minh: Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỷ XI-XVIII – GVHD: TS. Trần
Thị Thanh Thanh - Trang 21 - Năm 2009.
“Nhìn chung, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, từ thời Lý- Trần
tầng lớp thương nhân Việt Nam đã ra đời. “Trong xã hội có nhiều loại người tham gia
bn bán nhưng tựu chung lại có hai tầng lớp: Tầng lớp trên bao gồm vua, quan lại, quý
tộc, địa chủ phong kiến và tầng lớp dưới gồm có những người sản xuất nhỏ - nông dân,
thợ thủ công, dân nghèo thành thị. Cả hai loại này tham gia bn bán đều nhằm mục
đích để tăng thu nhập. Mục đích của họ giống nhau nhưng điều kiện, cách thức tiến
hành khác nhau. Tầng lớp trên vừa có uy quyền, vừa có của cải. Đó là những điều kiện
thuận lợi để họ tham gia buôn bán lớn và dùng những thủ đoạn kinh doanh. Việc buôn
bán lớn với nhà Tống ở “bạc dịch trường” Khâm châu thời Lý là một ví dụ nếu lái
bn nước ta khơng thuộc tầng lớp có thế lực thì nhà nước không ưu tiên can thiệp tới
mức cứ mỗi lần buôn là mỗi lần nhà nước gửi thông điệp và đã ba lần cử quan lại sang
nhà Tống thử lại cân10. Nếu khơng phải là nhà bn giàu có, vốn liếng nhiều thì khơng
thể “cầm vững giá lâu” khi mà lái buôn “người Tống thường gặng giá. Họ sai người
nhà làm nhà ở, buôn bán lặt vặt để tự cấp, rồi họ ở đó mãi, cứ ngâm giá cho người ta
10

Nguyễn Quang Ngọc. Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, Chương trình

nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2007, trang 63-64.


mỏi mệt…”11. Nếu lái buôn nước ta không phải là người có uy quyền thì khơng thể
dùng thủ đoạn “đúc lẫn đồng vào vàng bạc” để đối phó với việc nhà Tống bán thuốc
giả (chắc là thuốc bắc?). Một ví dụ tiêu biểu nữa đó là trường hợp bn nón Ma Lôi của
người nhà Nhân Huệ Vương Khánh Dư thời Trần: “Khi Khánh Dư mới đến trấn giữ
Vân Đồn tục ở đấy làm nghề buôn bán sinh nhai, ăn uống, y phục đều trông vào khách
buôn phương Bắc, điểm duyệt các trang hạ lệnh rằng: Quân đóng ở Vân Đồn là để ngăn
giữ giặc Hồ, khơng nên đội nón của phương Bắc, trong khi vội vàng khó lịng phân biệt;

nên đội nón Ma Lơi ai trái thế tất phải phạt (Ma Lôi là tên một hương ở Hồng-lộ, làng
này khéo nghề đan cật tre làm nón, cho nên lấy tên làng làm tên nón). Trước đó Khánh
Dư sai người nhà mua nón Ma Lơi chở thuyền đến đậu ở cảng rồi. Lệnh đã hạ, ơng cịn
sai người ngầm bảo người ở trang rằng: “Hôm nọ thấy ở trước vùng biển có thuyền
chở nón Ma Lơi đậu”. Do đấy người trong trang nối gót nhau tranh mua nón, bắt đầu
mua mỗi cái nón khơng q một tiền, đến sau giá cao bán một cái nón một tấm vải, thu
được số vải đến hàng nghìn tấm”12. Qua đây ta có thể lưu ý hai điểm: Thứ nhất, nếu
Khánh Dư chỉ dùng tới mánh lới con bn mà khơng có uy quyền của vị phó tướng trấn
giữ Vân Đồn thì chắc chắn việc bn nón Ma Lơi khơng thực hiện được. Thứ hai, nếu
khơng phải là người nhà của hồng tộc thì sẽ không đủ vốn để thực hiện một chuyến
buôn lớn như vậy. Tuy vậy, nghề buôn vẫn chưa phải là một nghề hấp dẫn nhất đối với
tầng lớp trên. Và chưa có một trường hợp nào trong số họ từ bỏ “nghề “ làm quan, điền
trang, thái ấp, trang trại, dốc tồn bộ tài sản để theo nghề bn. Như Trần Khánh Dư
can tội thông dâm với công chúa Thiên Thụy con dâu Trần Quốc Tuấn, nên bị “cách hết
quan tước, tịch thu tài sản khơng để lại một tí gì”13 nên phải đi buôn than, nhưng rồi
ông lại dễ dàng từ bỏ nó để trở lại với con đường danh vọng. Như vậy, nghề bn
11

Hồng Xn Hãn, Lý Thường Kiệt, Nxb Sông Nhị, ,Hà Nội, 1949, trang 107.

Theo Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí tồn thư (tập 2), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967, trang
60-61
13
Theo Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí tồn thư (tập 2),Sđd, trang 48.
12


đối với tầng lớp trên tuy có cần thiết, có hấp dẫn nhưng chưa đến mức trở thành nghề
riêng, nghề chính của họ. Hệ quả của nó là trong xã hội vẫn chưa xuất hiện tầng lớp
thương nhân chuyên nghiệp. Những trường hợp như buôn với nhà Tống thời Lý, bn

than, bn nón Ma Lơi thời Trần chỉ có thể hiểu được đó là những người bn bán lớn đại thương chứ chưa phải là tầng lớp đại thương. Tóm lai, tầng lớp trên có điều kiện
làm nghề bn bán nhất nhưng lại không chịu buôn bán đến nơi đến chốn đó là chưa kể
đến việc họ cịn dùng đặc quyền để lũng đoạn thị trường bằng cách mua trưng bán ép,
chặn mối cướp lợi nguồn hàng…Đối với tầng lớp dưới, cũng giống như tầng lớp trên
nghề buôn đối với họ cũng chỉ là nghề phụ. Nông dân chỉ tranh thủ lúc công việc nhà
nông rỗi rãi để đi buôn, bn bất cứ thứ gì, loại hàng nào, miễn sao phù hợp với số vốn
q ít ỏi của mình. Những loại bn này chỉ có thể gọi là hoạt động buôn bán chứ chưa
thể gọi là nghề buôn. Đối với người nơng dân ước mơ chính đáng của họ vẫn là có được
đám ruộng riêng để cày cấy trước khi nhà nước cho phép mua ruộng cơng làm ruộng tư
thì họ chỉ cần tiền để nộp thuế. Sau đó mới dành dụm thêm để cố tậu lấy đám ruộng.
Còn thợ thủ công và dân nghèo thành thị làm nghề buôn cũng khơng hơn gì mấy.
Chồng sản xuất, vợ bán sản phẩm, trong nhà sản xuất, ngoài cửa là cửa hàng. Tiền lãi
thu được chắc chỉ đủ dùng để tái sản xuất giản đơn và nộp thuế thân khi nhà nước yêu
cầu.
Như vậy, trong xã hội nước ta thời bấy giờ chủ yếu vẫn là những người sản
xuất nhỏ với lối bn bán nhỏ. Ngun nhân là do sự phân hóa giai cấp không thể xảy
ra trước, trong và sau khi chế độ tư hữu về ruộng đất được xác lập. Trong tầng lớp
những người bn bán nhỏ này sẽ có những người giàu lên và những kẻ nghèo đi.
Nhưng sự giàu lên và nghèo đi chỉ ở mức độ nào đó. Vì sự phân hóa giai cấp thời bâý
giờ chưa thật là sâu sắc, triệt để. Số người giàu có lớn đó khơng có thế lực nhưng lại có
số vốn tương đối. Họ đã tham gia bn bán tích cực và là thành phần chính làm
cho nội thương phát triển mạnh mẽ14. Nhưng việc buôn bán lớn phần nhiều lại thuộc về
Theo Phạm Văn Kính, Bộ mặt thương nghiệp Việt Nam thời Lý-Trần, T/C Chí nghiên cứu lịch sử, số
6, 1979, trang 42.
14


ngoại thương thì loại thương nhân thuộc tầng lớp dưới khơng thể đảm đương được. Vì
vậy, tầng lớp có thể đảm nhận việc buôn bán trong hoạt động ngoại thương là số
thương nhân trung lưu nhưng tiếc thay số thương nhân này lại chưa nhiều, chưa

chuyên nghiệp nên đã hạn chế sự phát triển của nền ngoại thương nước nhà”15
Tựu chung lại ta có thể đi đến kết luận, tầng lớp thương nhân trong xã
hội phon g kiến-những người giữ vai trị chính trong hoạt động thương nghiệp lại
có những biểu hiện cản trở sự phát triển của thương nhiệp. Tầng lớp thương nhân
tuy đã hình thành nhưng chưa làm giảm sút sức lao động trong sản xuất nông
nghiệp để ảnh hưởng đến địa tô phong kiến và chưa nhiều tới mức để có thể đánh
thuế làm tăng thêm cho quốc khố và đủ lớn mạnh để có thể đảm đương vai trị
chính trong hoạt động ngoại thương nước ta thời bấy giờ. ”
Đào Thị Phương Huyền – Luận văn tốt nghiệp trường ĐH Sư Phạm TP. Hồ
Chí Minh: Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỷ XI-XVIII – GVHD: TS. Trần
Thị Thanh Thanh - Trang 25-27 - Năm 2009.
“*Những nguyên nhân làm cho nền kinh tế hàng hóa ở nước ta chậm phát
triển:
“Sự tồn tại của nghề phụ trong nơng nghiệp có thể coi là ngun nhân trực
tiếp và chủ yếu thứ nhất kìm hãm cơng thương nghiệp phát triển. Như đã đề cập ở trên
kinh tế hàng hóa Việt Nam hình thành trong giai đoạn Lý-Trần không phải do sức sản
xuất nông nghiệp phát triển, thành thị, nơng thơn có sự phân cơng sản xuất như ở Tây
Âu. Mà nguyên nhân trực tiếp lại là do tác động của chế độ tư hữu về ruộng đất và do
tác động của hình thức tơ đơn giản. Do chỗ kinh tế hàng hóa xuất hiện trong lúc mà
sức sản xuất nơng nghiệp cịn thấp chưa đủ khả năng nuôi sống thành thị cho nên
người thợ thủ công vẫn khơng giám thốt ly nơng nghiệp, thốt ly nơng thơn. Người
nơng dân vẫn duy trì nghề phụ của mình để tự cung, tự cấp. Họ không dám rời bỏ ruộng
Theo Phạm Văn Kính, Bộ mặt thương nghiệp Việt Nam thời Lý-Trần, T/C Chí nghiên cứu
lịch sử, số 6, 1979, trang 42.
15


đất để đến các chợ hoặc thành phố chuyên làm nghề thủ cơng để sống vì sợ bị chết đói,
sợ thiếu gạo. Tuy nhiên nếu như sự xuất hiện của kinh tế hàng hóa q sớm khi mà sản
xuất nơng nghiệp nói chung cịn thấp nếu nó làm chậm sự phân cơng kinh tế giữa

thành thị và nơng thơn thì nó lại làm hình thành một sự phân cơng tự nhiên kiểu như
phân công tự nhiên giữa bộ lạc trồng trọt và bộ lạc chăn ni - đó là sự xuất hiện của
các làng chuyên môn về sản xuất thủ cơng (do điều kiện lịch sử-kinh tế-xã hội của
làng đó qui định). Có làng chun mơn là vì việc trao đổi đã vượt khỏi phạm vi làng
xã, mà đã phổ biến trong từng miền, và đã một phần nào đó phổ biến trong toàn quốc.
Khi chế độ tư hữu về ruộng đất phát triển, sức sản xuất nông nghiệp phát triển thì các
làng chun mơn lại càng xuất hiện nhiều hơn. Trong các làng chuyên môn thủ công
nghiệp không thể phát triển mạnh được vì về mặt sản xuất cũng như về mặt tiêu thụ nó
găp rất nhiều giới hạn. Chỉ trong phạm vi thành thị, nơi nhân khẩu tập trung,
thươngnhân tập trung, lại sẵn mọi thứ nguyên liệu do nơng thơn cung cấp, thì sản xuất
và tiêu thụ mới có thể tiến hành thuận lợi. Những điểm này trong các làng chun mơn
đều thiếu cả. Vì vậy các làng chuyên môn chỉ là một đơn vị thủ công của kinh tế tự cấp,
tự túc ở địa phương. Nó khơng những khơng có tác dụng phá vỡ kinh tế tự cấp tự túc ở
địa phương mà trái lại còn củng cố kinh tế tự cấp, túc ở địa phương nữa. Tình trạng
mỗi địa phương nhỏ hẹp lại có những trung tâm thủ cơng nghiệp nho nhỏ của mình
càng thêm củng cố trạng thái kinh tế tự cấp tự túc và làm cho q trình tích lũy vốn
tiến hành chậm chạp, khó khăn. Ngay bọn thương nhân lớn cũng khơng thể phát triển
được, vì trong cái thị trường địa phương nhỏ hẹp ấy người nông dân hoặc thương nhân
nghèo ở nông thơn có thể tiếp xúc với những người sản xuất trong làng chun mơn để
mua hàng, do đó thương nhân giàu có ít cơ hội có thể kiếm chác được nhiều. Vì vậy
mà mặc dầu dưới thời Lê mạt, kinh tế hàng hóa đã phát triển nhưng số lượng thương
nhân giàu lại khơng nhiều. Sử cũ có cho ta biết một số lái bn giàu có thời Lê mạt là
lái bn muối, trâu, mắm, lái trâu, bị và lái gỗ. Như thế đủ biết sự tồn tại của nghề phụ
và sự tồn tại của các lang chuyên môn làm cho thương nhân giàu không thể phát triển
được nhiều. Làm sao mà có thể có những thương nhân bn vải, lụa tơ ở các địa


phương trở nên giàu có lớn khi mà các làng chuyên môn làm nghề này rải rác khắp
nơi. Trong khi đó ở thành thị thương nhân lại rất giàu: Năm 1652 cơng ty Đơng Ấn,
Hà Lan vì thiếu tiền mua tơ đã vay của một số thương nhân ở Thăng Long số tiền là

28.033 lạng bạc và năm 1655 lại vay 20.000 lạng bạc nữa với lãi hàng năm là hai
phân. Như vậy trong phạm vi thành thị thủ công nghiệp mới có thể phát triển mạnh
mẽ, q trình tích lũy vốn mới tiến hành mau chóng tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản
nảy nở, hoặc nếu như thủ công nghiệp hoặc cứ tồn tại ở nông thôn hoặc cư tập trung ở
một số làng chuyên môn ở rãi rác trong nước thì khơng thể phát triển mạnh được.
Đó là nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu thứ nhất khiến cho nghề phụ cứ tồn tại
mãi ở nông thôn làm cho thủ công nghiệp không thể phát triển độc lập và mạnh mẽ
được.
Nguyên nhân thứ hai đó là sự kìm hãm cơng thương nghiệp của nhà nước phong
kiến mà chính sách kìm hãm quan trọng nhất là “trọng nơng ức thương”.16
Như vậy trong chế độ phong kiến dưới sự áp, bức bóc lột của giai cấp phong
kiến thống trị đã làm tê liệt sự sản xuất. Do đó, kinh tế hàng hóa cũng chỉ phát triển
ở những khu vực nào có lợi cho giai cấp thống trị, đó là phục vụ nhu cầu xa xỉ hoặc để
chúng có thể vơ vét, đánh thuế được nhiều hơn. Tuy vậy, cũng nhờ đó mà “sức sản
xuất vẫn cịn có chỗ thống , hút được khơng khí tự do ở những kẻ hở đó mà nảy nở
theo những phương hướng do tình trạng nói trên quyết định” 17 . Hơn nữa nhu cầu của
nhân dân lao động tuy bị hạn chế song vẫn phát triển một mặt do bản thân việc tái sản
xuất đơn thuần ra sức lao động mặt khác do nhu cầu mới của đời sống tạo nên do ảnh
hưởng của sự phát triển sản xuất phục vụ và làm lợi cho phong kiến. Tuy không theo
16

Nguyễn Hồng Phong, Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và vấn đề hình thành của chủ

nghĩa tư bản ở Việt Nam dưới thời phong kiến, T/ C Nghiên cứu Lịch sử, số 13,năm 1960,
trang 14-16.
17

Theo Thành Thế Vỹ, Ngoại thương Việt Nam thế kỉ XVII-XVIII cho đến đầu thế kỉ XIX,

Nxb Sử học, Hà Nội, 1961, trang 6.



một đường thẳng và một nhịp độ đều đặn nhưng nhìn chung kinh tế hàng hóa ở nước ta
vẫn có chiều hướng phát triển đi lên. Sự phát triển của ngoại thương đã tạo điều kiện cho
mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa hình thành và sang đầu thế kỉ XVII, thì mầm mống
kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện trong nền kinh tế hàng hóa Việt Nam nhưng chế
độ phong kiến trung ương tập quyền đã khơng tạo điều kiện cho nó nảy mầm lên
được để nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam có thể mở rộng ra khỏi khuôn khổ thị trường
trong nước.”
Đào Thị Phương Huyền – Luận văn tốt nghiệp trường ĐH Sư Phạm TP. Hồ
Chí Minh: Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỷ XI-XVIII – GVHD: TS. Trần
Thị Thanh Thanh - Trang 35-37 - Năm 2009.
“Nhìn chung, ngoại trừ Sài Gịn- Gia Định được hình thành khá muộn dưới
thời Pháp thuộc mang dáng dấp của một đô thị quốc tế cịn các đơ thị khác “ở Việt
Nam trong lịch sử mặc dù cũng có những thời kỳ hoạt động trao đổi buôn bán diễn ra
khá sầm uất nhưng chức năng chủ yếu của nó vẫn là hành chính. Khác với phương
Tây, thành thị ra đời thực hiện chức năng kinh tế là chủ yếu, chức năng hành chính nếu
có chỉ là thứ yếu và ở phương Tây, hầu hết đơ thị hình thành một cách tự phát, bất cứ
nơi nào có ba điều kiện sau đều trở thành đơ thị: Là nơi tập trung đơng dân, có sản xuất
cơng nghiệp và là nơi tập trung buôn bán. Về mặt quản lý trong khi đô thị ở ta do nhà
nước quản lý thì ở phương Tây là những tổ chức tự trị. Từ thời Hy Lạp cổ đại đã tồn
tại các Thị Quốc (Đô thị- Quốc gia). Sau này, đô thị càng mang tính tự trị rõ rệt hơn:
do cơng thương làm chủ, nằm ngoài quyền lực của lãnh chúa và có hiến chương
riêng”18. Điều này cũng phản ánh một thực tế lịch sử là nền kinh tế hàng hóa ở nước ta
chưa đủ lớn mạnh đến mức để tự bản thân nó sản sinh ra các đơ thị. Điều đó lý giải tại
sao hầu hết các đơ thị cổ ở nước ta nếu khơng nói là tất cả ngay vào lúc phát triển hay
rất phát triển, “vẫn tồn tại ngay trong lịng đơ thị thậm chí giữa đơ thị, những vùng,
Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm
1996, trang 244.
18



những hoạt động nông nghiệp không phải là với tư cách là “vành đai xanh” 19 . Ví dụ
như “đơ thị thị tiêu biểu nhất ở Việt Nam là Thăng Long-Hà Nội, chỉ tính từ khi trở
thành quốc đơ cho đến thế kỉ XIX, với gần một ngàn năm tồn tại và phát triển thường
xuyên, liên tục nhưng chỉ nhìn vào những tấm bản đồ đô thị hồi thế kỉ XIX, cũng vẫn
thấy vơ số những kí hiệu ruộng lúa ở ngay giữa trung tâm” 20 . Hay như Phố Hiến phát
triển và hưng thịnh là do sự thúc đẩy của nền kinh tế nội bộ nhờ vào một hậu phương
kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức nào đó mà Phố Hiến đã trở thành như nó đã
thành. Nhưng cũng chính vì nền tảng, vì hậu phương đó mà Phố Hiến khơng vượt qua
nó được vì thế nó không thể phát triển từ một đô thị thương nghiệp lên thành một đơ
thị cơng thương lớn. Vì vậy, khách thương ngoại quốc chỉ kích thích Phố Hiến ngót
một thế kỉ mà không tạo ra chuyễn biến căn bản nào, các lái bn đến Phố Hiến chỉ
nhằm mục đích chủ yếu là lung vơ vét tơ lụa và hương liệu. Cịn triều đình phong kiến
thì chỉ vì mục đích chủ yếu là khai thác người phương Tây ở hướng tìm vũ khí cho
chiến tranh, nội chiến. Vì vậy mà sau khi chiến tranh Trịnh- Nguyễn kết thúc cùng với
những thay đổi của điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho sự phát triển thương nghiệp
nữa, Phố Hiến dần bị nông thơn hóa trở lại. Và cũng do tình trạng kinh tế hàng hóa
trong nước cịn kém phát triển nên mặc dù Việt Nam có một đường bờ biển rất dài và
các bến có thể chứa tàu lớn khơng phải là ít. Theo lời giáo sĩ Alếch-xăng đơ Rốt Việt
Nam có chừng “năm mươi bến có thể tiếp đón ít nhất 10, 12 tàu lớn”. Thực ra nhiều bến
tàu đỗ được, nhưng những bến mở ra buôn bán không phải là nhiều. Vì cơ sở kinh tế ở
Việt Nam lúc này vẫn cịn ở trình độ một nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, nên việc
buôn bán không thể nào trở nên phồn thịnh đến mức địi hỏi có nhiều cảng mở ra buôn
bán. Những nơi tụ tập để mua bán “các trung tâm giao thương” như Kẻ Chợ (Hà Nội),
Phố Hiến, Hội An và sau này là Sài Gịn…. Bn bán cũng chỉ dựa vào các phiên
chợ. Ngày thường vẫn có hàng có mua bán nhưng chỉ đến phiên chợ các nơi đổ về,
mang tất cả các thứ hàng có thể bán được để về bán. Và các lái buôn nước ngồi cũng
19
20


Văn Tạo (chủ biên), Đơ thị cổ Việt Nam, Sđd, trang 9.
Văn Tạo (chủ biên), Đô thị cổ Việt Nam, Sđd, trang 9.


chỉ nhằm mua vào một số hàng có thể đem bán kiếm lời được ở nơi khác (Trung Quốc,
Hà Lan, Anh, Pháp, Ba-ta-vi-a…)21”
Đào Thị Phương Huyền – Luận văn tốt nghiệp trường ĐH Sư Phạm TP. Hồ
Chí Minh: Kinh tế ngoại thương Việt Nam trong các thế kỷ XI-XVIII – GVHD: TS. Trần
Thị Thanh Thanh - Trang 49-50 - Năm 2009.
“TÌNH HÌNH NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TRONG CÁC THẾ KỈ
XI-XVII
I. Thời Lý-Trần (Thế kỉ XI-XIV):
Trong lịch sử các nhà nước qn chủ Việt Nam nền kinh tế nơng nghiệp ln
đóng vai trị chủ đạo. Hàng hóa của Đại Việt đưa ra nước ngồi khơng chỉ bằng con
đường bn bán mà bằng con đường ngoại giao dưới hình thức cống nạp hoặc làm
tặng vật, lễ vật của các sứ đoàn . Đây cũng là điểm tương đồng của các nước trong khu
vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á.

1. Thời Lý:
-Với Trung Quốc
Về cơ bản, hoạt động ngoại thương dưới triều Lý do nhà nước kiểm sốt.
Việc bn bán với bên ngồi, nhất là với Trung Hoa đã có những bước phát triển. Tuy
nhiên trong thời kì có xung đột, có quan hệ căng thẳng giữa Đại Việt và nhà Tống, việc
kiểm soát ngoại thương rất gắt gao.
Do lo sợ người Trung Quốc dưới chiêu bài buôn bán để do thám tình hình
Đại Việt các vua Lý thường chỉ cho phép người nước ngồi được phép bn bán ở một
số địa điểm nhất định và chịu sự kiểm soát của nhà nước. Phía Trung Quốc cũng vậy,
chỉ cho phép thương nhân Đại Việt đến buôn bán ở một số địa điểm thuộc Ung Châu,
Khâm Châu. Năm 1012, Lý Công Uẩn cho người đem sản phẩm tới Ung Châu buôn bán

nhưng vua Tống Chân Tông chỉ chấp thuận cho thuyền dừng lại ở Quảng Châu và trại
21

Thành Thế Vỹ,Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỉ XVII-XVIII đầu thế kỉ XIX, Sđd, trang 189.


Như Hồng theo như lệ cũ thời Tiền Lê mà thơi22.
Dọc biên giới Đại Việt và Trung Hoa có tổ chức các địa điểm buôn bán mà
Chu Khứ Phi gọi là “ bạc dịch trường” (chợ biên giới). Ở Ung Châu có hai bác dịch
trường lớn là trại Hồnh Sơn, nơi mua ngựa, các lâm sản, dược phẩm của địa
phương và muối; trại Vĩnh Bình, một trong các bạc dịch trường quan trọng. Chu Khứ
Phi cho biết: “ Trại Vĩnh Bình ở sơng Hữu Giang, Ung Châu, kề biên giới Giao Chỉ, chỉ
cách một con sơng con mà thơi. Phía Bắc có trạm Giao Chỉ, phía Nam có đình Tun
Hịa, làm bạc dịch trường. Chủ trại Vĩnh Bình coi việc trao đổi, người Giao Chỉ đem
các thứ hương, ngà voi, vàng bạc, tiền đổi lấy các thứ vải vóc. Những người Giao
Chỉ đến Vĩnh Bình đều đi đường bộ. Những hàng họ đem bán đều quý, nhỏ nhẹ, chỉ có
muối là nặng, nhưng muối có thể đổi lấy vải. Muối đóng 25 cân thành một sọt. Vải sản
xuất ở huyện Vũ Duyên, Ung Châu khổ hẹp” 23 ; Bạc dịch trường Khâm châu thuộc loại
lớn nhất. Cũng theo Chu Khứ Phi: “Bạc dịch trường ở ngoại thành, tại trạm Giang
Đông. Những người thuyền chài Giao Chỉ mang cá, sò đến đổi lấy đấu gạo, thước vải.
Phú thương nước ấy (Đại Việt) đến buôn bán từ châu Vĩnh An phải thông điệp cho
Khâm Châu, ấy là tiểu cương (bn nhỏ), cịn nước ấy sai sứ đến Khâm Châu để buôn
bán gọi là đại cương (bn to), hàng đem bán có bạc, đồng, tiền, trầm hương, quang
hương, thục hương, sinh hương, trân châu, ngà voi. Những tiểu thương nước ta (Trung
Quốc) bán các thứ giấy, bút, gạo vải, hàng ngày trao đổi một ít với người Giao Chỉ,
khơng đáng kể. Chỉ có những phú thương từ đất Thục buôn gấm đến Khâm Châu rồi từ
Khâm Châu buôn hương đến Thục. Một năm một chuyến bn bán đến mấy nghìn quan.
22

Theo Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Tiến Dũng, về các mối giao thương của quốc gia Đại


Việt thời Lý, Trần (thế kỉ XI-XIV), T/C Nghiên cứu lịch sử, số 7, 2007, trang 24.
23

Theo Chu Khứ Phi, Lĩnh Nam chích quái ngoại đáp, dẫn theo Theo Nguyễn Thị

Phương Chi, Nguyễn Tiến Dũng, về các mối giao thương của quốc gia Đại Việt thời Lý, Trần
(thế kỉ XI-XIV), T/C Nghiên cứu lịch sử, số 7, 2007, trang 24.



×