Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

tiểu luận Giới thiệu tổ khúc Le carnival des animaux của Saint Saens.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.89 KB, 12 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP CÁ NHÂN
MÔN: MỸ HỌC
Đề bài 15:
Giới thiệu tổ khúc Le carnival des animaux của Saint Saens.
Họ và tên: Lãnh Thị Hạnh Linh
MSSV: 371047
Lớp: N02
Nhóm: 07
1
MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU
Charles Camille Saint-Saëns là một nhà soạn nhạc nổi tiếng người Pháp
và cũng đồng thời là một nghệ sĩ biểu diễn organ vô song, một nghệ sĩ piano tài
ba được Liszt đề cao, ông cũng từng viết tiểu thuyết, phê bình thơ, tìm hiểu
thiên văn học Saint-Saëns là người dẫn đầu phong trào phục hưng âm nhạc
Pháp thập niên 70 của thế kỷ XIX, người thường tự so sánh mình với Mozart và
quả đúng như vậy, ông sáng tác rất nhiều và trong suốt cuộc đời dài 86 năm của
mình đã đóng góp vào sự phát triển của hầu hết các thể loại âm nhạc Pháp thế kỉ
XIX. Trong phạm vi bài viết này, em xin đưa ra những thông tin em tìm hiểu
được về nhạc sĩ Saint Saens và tổ khúc Le carnival des animaux, cũng như một
số cảm nhận của riêng cá nhân về tác phẩm này của nhạc sĩ.
NỘI DUNG
1. Tác giả Saint-Saëns.
1.1. Tiểu sử và sự nghiệp âm nhạc.
3
Charles Camille Saint-Saëns sinh ở Paris
tại "Rue du Jardin" (phố vườn) vào ngày
9/10/1835 và mất sau một chuyến đi dài ngày tới


Algeria vào 16/12/1921. Gia đình Saint Saens
vốn xuất thân nông dân. Ông lớn lên dưới sự dạy
dỗ của mẹ (Clémence Françoise Collin) và người
dì cả Charlotte Masson, cũng chính là người đã
giúp cho cậu bé Charles biết chơi piano từ khi
mới lên 2. Cậu bé Charles khi ấy đã cho thấy
thiên tư âm nhạc mạnh mẽ cũng như của Mozart
và Mendelssohn. Cậu bé đã có những khám phá nhỏ trong việc sáng tác khi mới
3 tuổi mà người ta vẫn còn nhớ đến khúc nhạc cho piano có tên là "Galop". Sau
đó không lâu cậu học piano dưới sự hướng dẫn của Camille Stamaty và
Alexandre Boëly, học hoà âm do Pierre Malede dạy. Họ tập trung tất cả cho sự
phát triển tài năng của Saint-Saëns. Kết quả là vào thời điểm 4 tuổi 7 tháng cậu
bé Charles đã chơi được một phần trong Violin sonata của Beethoven, và đến
năm tuổi thì sáng tác “Le Soir", mélodie đầu tiên là bằng chứng cho tài năng
của một nhạc sĩ. Đến năm lên 10, bước tiến mới trong việc học tập nghiêm túc
là việc cậu bé đã có thể chơi tất cả 32 sonata của Beethoven hoàn toàn theo trí
nhớ. Camille Saint-Saëns nhanh chóng được xem như một thần đồng âm nhạc
sau buổi biểu diễn đầu tiên tại "Salle Pleyel" vào ngày 6/5/1864. Ngay năm sau
đó, giao hưởng đầu tiên được ra đời và giành giải "Societe Sainte Cecile" rồi
được xuất bản năm 1847.
Vào năm 1848, Saint-Saëns lên bảy tuổi và vào học tại Nhạc viện Paris.
Mặc dù không dành được giải "Prix de Rome" của viện hàn lâm năm 1851,
nhưng ông đã gây được ấn tượng và sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhạc sĩ nổi
tiếng trong đó có Hector Berlioz và Franz Liszt. Sau lần gặp đầu tiên vào năm
1852, Saint-Saëns và Liszt trở thành những người bạn thân thiết và luôn ủng hộ
nhau trong nhiều năm. Franz Liszt thường ca ngợi Saint Saens như nghệ sĩ
organ vĩ đại nhất thế giới.
Từ năm 1852 đến năm 1857 ông làm nghệ sĩ chơi organ tại nhà thờ Saint
Merry cho đến năm 1858 chuyển sang làm việc tại một trong những nhà thờ có
tiếng ở Paris là "La Madeleine". Saint-Saëns thường đi nhiều nơi, giao thiệp

rộng và sáng tác rất nhiều. Ông chính thức trở thành nhà soạn nhạc với tác phẩm
"Ode a Sainte Cecile" viết năm 1852. Đồng thời Saint-Saëns cũng theo đuổi sự
nghiệp của một nghệ sĩ piano, nhà chỉ huy và thường tham gia làm giám khảo
4
các cuộc thi âm nhạc. Năm 1860 ông trở thành giảng viên piano tại "Ecole
Niedermeyer" và giữ vị trí này cho đến năm 1867. Đến năm 1864, ông tiếp tục
tìm kiếm cơ hội giành giải "Prix de Rome" nhưng vẫn thất bại.
Một cơn bão của sự đổi mới trong âm nhạc trong cách phối hợp giữa
piano và dàn nhạc đã ập tới Paris vào cái ngày mà Piano concerto No. 2 giọng
Son thứ, Opus 22 của Camille Saint-Saëns công diễn (tháng 4/1868). Nó đã
truyền đến cho âm nhạc Pháp thập niên 70 của thế kỷ XIX một tinh thần mới,
với sức mê hoặc và nét tinh tế, đã trở thành nguyên mẫu căn bản cho sự kết hợp
giữa piano và dàn nhạc cho nhiều thế kỷ sau. Nhạc sĩ đã được trao tặng giải
thưởng "Le Legion d’Honneur” (Bắc đẩu bội tinh).
Đến năm 1870, chiến tranh Pháp - Phổ nổ ra làm con đường âm nhạc
Pháp tạm thời gián đoạn, Saint Saens đầu quân vào Đội cận vệ quốc gia với vị
trí binh nhì của tiểu đoàn 4. Sau đó ít lâu, ông bỏ sang Luân Đôn trong suốt thời
kỳ "Công xã" và bắt đầu giai đoạn gắn bó với nước Anh. Khi những biến động
chính trị ở Pháp qua đi, ông trở lại Paris và đóng góp vào thời kỳ Phục hưng âm
nhạc Pháp. Trực tiếp ngay sau thất bại của Pháp trong cuộc chiến Pháp - Phổ,
Hiệp hội âm nhạc Quốc gia của Pháp chính thức được thành lập vào năm 1871
với thành viên sáng lập gồm Saint Saens cùng Romain Bussine, César Franck,
Edouard Lalo và Gabriel Fauré. Trong hơn nửa thế kỷ từ sau khi được thành lập,
Hội âm nhạc Quốc gia đã bảo vệ và tích cực thúc đẩy sự phát triển của âm nhạc
Pháp.
Từ năm 1871, ông trở lại nhịp sống thông thường, là khách quen, thường
xuất hiện ở nhiều tụ điểm với vai trò là nhạc trưởng và nghệ sĩ dương cầm,
không chỉ ở Luân Đôn. Ông đã từng chơi đàn cho Nữ hoàng Victoria hai lần,
một lần cho Nữ hoàng Alexandra, viết Hành khúc đăng quang (Coronation
March) cho vua Edward VII. Bản giao hưởng số 3 nổi tiếng cũng xuất phát từ

yêu cầu của Hội âm nhạc hoàng gia (Royal Philhamonic Society). Tên tuổi ông
ngày càng nổi tiếng, đến năm 1893 ông được nhận học vị tiến sĩ âm nhạc của
Đại học Cambridge cùng với người bạn của ông là nhạc sĩ Peter Ilyich
Tchaikovsky. Sau đó là đến bằng tiến sĩ của Đại học Oxford năm 1913.
Năm 1875 Saint-Saëns lập gia đình, cưới một cô gái trẻ 19 tuổi tên là
Marie-Laure Truffot. Thời gian của cuộc hôn nhân này là chương buồn nhất
trong cuộc đời ông. Rất kỳ lạ, khi thời kỳ của những bi kịch gia đình này lại là
khi Saint-Saëns cho ra đời những tác phẩm phổ biến nhất của ông ngày nay bao
gồm: Danse Macabre (vũ khúc ma quỷ) năm 1875, Samson et Dalila năm 1878
5
và Requiem cũng vào năm này. Sau cuộc hôn nhân đầy những sự kiện đau buồn,
Camille Saint-Saëns phát triển mối quan hệ với Gabriel Fauré và cư xử như một
người cha thứ hai đối với những đứa con của Fauré.
Vào năm 1875 ông bắt đầu chuyến lưu diễn đầu tiên ra nước ngoài và rất
thành công. Năm 1877 vở opera Samson et Dalila gây được tiếng vang lớn ở
cộng hoà Weimar, Đức nhưng mãi 12 năm sau đó (1889) mới được biểu diễn ở
Pháp. Bản “Requiem” được công diễn lần đầu ngày 22/5/1878.
Năm 1886, ông viết Giao hưởng giọng Đô thứ, “avec orgue” (giao hưởng
với sự tham gia của đàn organ). Đây được xem là tác phẩm nổi tiếng nhất của
ông. Được cổ vũ bằng dàn hợp xướng cộng hưởng – là cây đàn Organ vĩ đại
nhất thế giới vào thời điểm bấy giờ được Aristide Cavaillé-Coll dựng lên ở
Pháp, công trình này là một trong những thành tựu đặc biệt xuất hiện vào cuối
thế kỷ XIX. Nó rõ ràng là một dấu ấn của nước Pháp kề bên sự ra đời của tháp
Effel được phô diễn trong Hội chợ quốc tế tại Paris. Saint-Saëns viết tổng cộng
5 giao hưởng dù chỉ có 3 bản được đánh số Opus. Ông đã tự huỷ bỏ bản đầu
tiên, được viết cho 1 Mozartian-scale orchestra (dàn nhạc kiểu Mozart), và bản
thứ 3, một tác phẩm dùng để thi thố cũng bị rút lại. Các giao hưởng của ông là
những đóng góp quan trọng cho thể loại này trong giai đoạn mà giao hưởng
truyền thống Pháp đang có nhiều biểu hiện suy tàn.
Ở khía cạnh nghệ sĩ biểu diễn, Saint-Saëns được coi là “không có đối thủ

trên cây đàn organ", và với piano thì chỉ một số người có thể đua tranh được với
ông. Liszt cũng đã từng nhận định rằng ông và Saint-Saëns là 2 pianist vĩ đại
nhất ở châu Âu. Người ta kể lại rằng ông thường chơi đàn trong thế gần như gắn
chặt vào ghế, với một trạng thái khá kiềm chế và tự chủ, các giai điệu có nét
huyền ảo, phảng phất và trầm tĩnh, mang lại một vẻ quý phái và tinh xảo trong
kỹ thuật. Những bản thu âm mà ông để lại đã cho ta thấy phần nào những đặc
điểm đó. Những tác phẩm ông chọn thể hiện thường không quá biểu cảm, khá
gần gũi, thực tế so với nhiều tác phẩm có sức lôi cuốn ngay từ bên ngoài. Hầu
như chắc chắn một điều rằng ông là người đầu tiên chơi gần như trọn bộ các
concerto piano của Mozart. Những concerto của ông do vậy cũng có những ảnh
hưởng phần nào từ bậc thầy cổ điển này. Về sau, đến lượt Saint-Saëns để lại ảnh
hưởng cho các nhạc sĩ Lãng mạn mà tiêu biểu như là Sergei Rachmaninov. Suốt
cả sự nghiệp, Saint-Saëns sử dụng kỹ thuật mà ông được Stamaty dạy, sử dụng
sức mạnh của bàn tay thay cho cánh tay.
6
Dù Saint-Saëns được xem như có một phong cách đã cũ về cuối đời, song
có thể thấy ông đã nỗ lực thể hiện những hình thức âm nhạc mới hay điều chỉnh,
cách tân một số thể loại cũ. Các sáng tác của ông được truyền cảm hứng từ Chủ
nghĩa cổ điển Pháp, đã làm nên tên tuổi ông cũng như báo trước sự ra đời của
chủ nghĩa Tân cổ điển của Ravel và những nhạc sĩ khác.
1.2. Một số tác phầm lớn của Saint-Saëns.
Trong suốt cuộc đời, ông đã sáng tác tất cả: 13 vở opera, trong đó Samson
và Dilila (1897) là vở nổi tiếng nhất; 10 concerto (5 piano concerto, 3 violin
concerto, 2 cello concerto); 3 bản giao hưởng, thánh ca và rất nhiều bài hát và
trích đoạn piano; khoảng 20 concertante nhỏ cho nhạc cụ độc tấu và dàn nhạc,
trong đó bao gồm các bản hoà âm khúc phóng túng piano và dàn nhạc đầy màu
sắc như Africa, Havanaise và Introduction and Rondo capriccioso cho violin và
dàn nhạc (đã trở nên rất gần gũi với người nghe qua nhiều thập kỷ), hay cho đàn
harp và dàn nhạc với tác phẩm Morceau de Concert. Các concerto nổi tiếng nhất
phải kể đến số 2, 4, và 5 viết cho piano, concerto số 3 viết cho violin và cello

concerto đầu tiên. Trong số đó, Concerto giọng Son thứ là một trong những bản
concerto dành cho piano nổi tiếng nhất mọi thời đại.
2. Giới thiệu về tổ khúc Le carnival des animaux.
2.1. Đôi nét về tổ khúc (Suite).
Tổ khúc (Suite) là một bộ các tác phẩm khí nhạc được sắp xếp theo thứ tự
nhằm để biểu diễn riêng một mạch. Trong thời kỳ Baroque, tổ khúc là một thể
loại khí nhạc bao gồm một số chương có cùng điệu thức, một vài hay tất cả dựa
trên các hình thức và phong cách vũ khúc (các thuật ngữ khác dành cho nhóm
các vũ khúc thời Baroque gồm có Partita, Overture, Ordre và Sonata da
camera).
2.2. Tổ khúc Le carnival des animaux.
7
Saint-Saëns soạn Le carnival des
animaux (Ngày hội của muông thú) vào tháng
2 năm 1886 trong trong một kỳ nghỉ ở một
làng nhỏ thuộc nước Áo. Đây là một tác phẩm
vui nhộn, thỏa mãn được tính cách hóm hỉnh
tinh nghịch của nhà soạn nhạc. Trong suốt sự
nghiệp sáng tác và giảng dạy của mình, Saint-
Saëns đã thích thú viết hoặc ứng biến các tác
phẩm nhại lại một cách hài hước tạo ra sự vui
vẻ cho một sáng tác hay phong cách âm nhạc
nào đó. Tại trường Niedermeyer, nơi ông dạy
những nhạc sỹ trẻ người Pháp sáng giá nhất, ông vẫn thường tránh những bài
học nhàm chán bằng cách hướng dẫn học trò nhại lại theo phong cách này.
Lúc sinh thời Saint-Saëns, chỉ có một buổi trình diễn nhỏ toàn bộ tổ khúc
dành cho nhóm bạn thân trong đó có Franz Liszt. Ngoại trừ khúc nhạc Thiên
nga, Saint-Saëns không cho phép xuất bản Le carnival des animaux khi ông còn
sống, bởi vì ông sợ rằng nó sẽ vượt trên các tác phẩm nghiêm túc hơn của ông.
Hơn nữa, một năm trước đó, việc viết một tác phẩm dí dỏm và khá đơn giản

là Wedding Cake (Chiếc bánh cưới) đã khiến ông bị mang tiếng là tác giả “nhạc
nhẹ”. Toàn bộ tổ khúc Le carnival des animaux chỉ được xuất bản sau khi Saint-
Saëns qua đời theo nguyện vọng và di chúc của ông. Nó trở thành một trong
những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Cùng với các tác phẩm Peter và chó
sói của Prokofiev và Hướng dẫn về dàn nhạc cho người trẻ của Britten, Le
carnival des animaux cũng là tác phẩm được các em nhỏ và giáo viên dạy nhạc
ưa thích vì rất rất phù hợp trong việc giảng dạy âm nhạc.
Tổ khúc Le carnival des animaux gồm 14 khúc nhạc, trong đó các loài
động vật được mô tả đặc trưng một cách rất sáng tạo. Thời lượng của tổ khúc
này dài khoảng 21 phút 40, tổng phổ: flute, clarinet, 2 piano, glass harmonica
(ngày nay được thay bằng glockenspiel), xylophone, 2 violin, viola, cello và
double bass.
I- Introduction et marche royale du Lion (Introduction và Hành khúc hoàng
gia của sư tử): Có sự tham gia của các đàn dây và 2 piano. Phần introduction bắt
đầu bằng 2 piano chơi tremolo đậm nét, các đàn dây tham gia vào bằng một chủ
đề trang nghiêm. Sau đó piano trình bày một chủ đề hành khúc trong suốt phần
còn lại của chương nhạc. Các đàn dây trình bày giai điệu và đàn piano thỉnh
thoảng chạy những quãng tám thấp hoặc ostinato cao. Chương nhạc kết thúc
bằng một nốt fortissimo ở tất cả các nhạc cụ.
II- Poules et Coqs (Lũ gà mái và gà trống) Có sự tham gia của các đàn dây trừ
double-bass ; 2 piano và clarinet. Chương nhạc này gợi nên hình ảnh một đàn gà
với những tiếng gáy, tiếng mổ hạt. Clarinet chơi những đoạn solo âm lượng nhỏ
khi các nhạc cụ còn lại tạm nghỉ.
III- Hémiones, animaux véloces (Những con lừa; những con thú nhanh nhẹn)
Có sự tham gia của 2 piano. Các con vật được mô tả ở đây rõ ràng là đang chạy
8
và hình ảnh được gợi nên bằng chuyển động lên xuống nhanh nhẹn luống cuống
không ngớt của cả hai piano chơi các gam quãng tám.
IV- Tortues (Những con rùa) Có sự tham gia của các đàn dây và 1 piano. Một
chương nhạc hơi trào phúng mở đầu bằng piano rồi các đàn dây thể hiện một

cách chậm rãi đến khó chịu điệu “Can-Can” nổi tiếng trích từ operetta Orphée
aux Enfers (Orphée ở địa ngục) của Offenbach.
V- L'Éléphant (Con voi) Có sự tham gia của double-bass và 1 piano. Đây là bức
tranh biếm họa hoàn hảo về một con voi. Double-bass ậm ừ trên nền nhịp valse
của piano. Giống như chương “Những con rùa”, chương nhạc này khá hài hước
- chất liệu chủ đề được lấy từ nhạc nền cho vở kịch Giấc mộng đêm hè của Felix
Mendelssohn và Dance of the Silphs (Vũ khúc Silphs) của Hector Berlioz. Cả
hai chủ đề ban đầu đều được viết cho những nhạc cụ giọng cao (flute và những
nhạc cụ gỗ khác, violin), trò đùa của Saint-Saëns là chuyển nó sang cho nhạc cụ
có giọng thấp và nặng nề hơn trong dàn nhạc là double-bass.
VI- Kangourous (Những con kăng-gu-ru) Có sự tham gia của 2 piano. Những
cú nhảy quãng cách nhanh nhẹn và duyên dáng trên đàn phím miêu tả những
con kăng-gu-ru.
VII- Aquarium (Bể nuôi cá) Có sự tham gia của các đàn dây trừ double-bass, 2
piano, flute và glass harmonica. Đây là một trong những chương giàu tính âm
nhạc nhất. Flute rồi đến các đàn dây chơi giai điệu trên nền âm thanh gợn sóng
lăn tăn được piano và glass harmonica thể hiện.
VIII- Personnages à longues oreilles (Những nhân vật với đôi tai dài) Có sự
tham gia của 2 violin. Đây là chương ít tính trữ tình nhất trong tác phẩm. Hai
đàn violin luân phiên nhau tạo nên những tiếng rít cao chói tai và những nốt
thấp rì rầm khó có thể nghe ra giai điệu.
IX- Le coucou au fond des bois (Chim cu trong rừng sâu) Có sự tham gia của 2
piano và clarinet. Piano chơi những hợp âm rộng mềm mại trong khi clarinet
chơi ostinato hai nốt Đô và La giáng lặp đi lặp lại, bắt chước tiếng kêu của một
tổ chim cu.
X- Volière (Chuồng chim) Có sự tham gia của các đàn dây, 2 piano và flute. Các
đàn dây giọng cao đảm nhận bè đệm, tạo ra tiếng rì rầm như tiếng động trong
rừng, cello và double-bass chơi điểm nhịp dẫn vào hầu hết các ô nhịp. Flute
đóng vai trò tiếng chim với giai điệu trill trải rộng trong tầm âm của nó. Hai
piano thi thoảng tạo ra những tiếng chát chúa hay trill của những con chim

khác. Chương nhạc kết thúc một cách lặng lẽ sau một tiếng vút cao của flute.
XI- Pianistes (Những nghệ sĩ piano) Có sự tham gia của các đàn dây và 2 piano.
Saint-Saëns để chính các nghệ sĩ piano tham gia cùng bầy thú, mô phỏng những
giờ tập gam của họ bằng một đoạn trải ra như bài thực hành đàn phím chán
ngắt.
XII- Fossiles (Những hóa thạch) Có sự tham gia của các đàn dây, 2 piano,
clarinet và xylophone. Tại đây Saint-Saëns đã bắt chước sáng tác của chính
mình, bản Danse Macabre (Vũ khúc ma quỷ). Xylophone được sử dụng nhiều
để gợi nên hình ảnh những bộ xương đang nhảy múa va đập vào nhau lách cách.
9
Các chủ đề âm nhạc trong Danse Macabre cũng được trích dẫn; xylophone chơi
phần lớn giai điệu và được piano và clarinet thay phiên. Bè piano ở đây đặc biệt
khó với các quãng tám. Có thể nghe thấy các đoạn giai điệu trong ca khúc thiếu
nhi “Twinkle Twinkle Little Star” và aria “Una Voce Poco Fa” trích từ opera Il
Barbiere di Sivigliacủa Rossini.
XIII- Le Cygne (Thiên nga) Đây là khúc nhạc nổi tiếng nhất trong tổ khúc,
được viết cho 2 piano và 1 cello nhưng cũng thường được sử dụng để phô diễn
kĩ năng trình tấu của nghệ sĩ cello. Giai điệu được cello chơi trên nền hòa âm
của hai đàn piano. Một piano thể hiện tiếng mặt nước lao xao, một piano thể
hiện tiếng sóng cuồn cuộn.
Thiên nga được viết tặng nghệ sĩ cello Charles-Joseph Lebouc đang về già,
người nổi tiếng vì nghệ thuật trình diễn và vì là con rể của ca sĩ nổi tiếng
Adolphe Nourrit. Saint-Saëns đã hứa soạn một tác phẩm solo dành cho nghệ sĩ
này nhiều năm trước nhưng ông đã trì hoãn dự định đó. Đến thời điểm Saint-
Saëns soạn Le carnival des animaux, Lebouc đã trở thành một đề tài bông đùa
trong giới trình diễn đàn dây vì tuổi tác đã khiến ông trình diễn tồi đi. Một lần,
ông đã trình diễn Thiên nga với vẻ êm ái cao độ khiến những đồng nghiệp chơi
cello phải chú ý tới sự kỹ lưỡng trong cách chơi của ông.
XIV- Finale Có sự tham gia của tất cả các nhạc cụ. Phần Finale mở đầu bằng
những nốt chạy tremolo ở đàn piano như trong phần Introduction. Những nhạc

cụ hơi, harmonica và xylophone mau chóng tiếp viện. Dàn dây tạo nên sự căng
thẳng bằng những nốt thấp dẫn vào phần glissando của piano, rồi tạm dừng
trước khi giai điệu chính sôi động được trình bày. Mặc dù giai điệu khá đơn
giản nhưng những hòa âm đệm theo được trang hoàng theo phong cách sáng tác
cho piano của tác giả, những gam chói lọi, những nốt vuốt (glissando) và nốt láy
(trill). Nhiều chương nhạc trước được trích dẫn tại đây: Introduction, Những
con lừa, Gà mái và kăng-gu-ru. Tác phẩm kết thúc bằng một nhóm hợp âm Đô
trưởng mạnh mẽ.
3. Một số cảm nhận cá nhân.
Trong tổ khúc Le carnival des animaux gồm có 14 chương này thì
chương này thì có lẽ hai chương cuối Le Cygne và Finale.
Đầu tiên là về Le Cygne, thoạt đầu mới nhìn tên (Thiên nga) em nghĩ
ngay đến Hồ thiên nga của nhạc sĩ Tchaikovsky. Nhưng khi lên mạng tìm kiếm
và nghe thử thì mới thấy đây là hai bài khác nhau. Theo như tìm hiểu của cá
nhân, trong album Chat với Mozart của ca sĩ Mỹ Linh, bài hát Về đây thiên nga
đã sử dụng nhạc của chương Le Cygne này. Khi nghe bài Về đây thiên nga, với
ca từ và giọng hát đã giúp em cảm nhận được phần nào về nội dung. Khi tiếp
tục nghe trọn vẹn chương Le Cygne, nhắm mắt lại, em cảm thấy như trước mắt
mình là mặt hồ tĩnh lặng vào ban đêm với những ánh sáng nhỏ le lói, lấp lánh
chiếu xuống hồ nước tạo nên một không gian lung linh, thơ mộng và có chút gì
10
đó huyền ảo, mơ hồ. Có một con thiên nga xinh đẹp đang thả mình trên mặt hồ
và làm những động tác uyển chuyển như đang múa, một điệu múa rất đẹp. Tuy
nhiên, điệu múa dường như mang nặng một nỗi buồn của thiên nga vậy. Chương
này đọng lại trong tâm trí em một bức tranh thật đẹp và một chút cảm xúc man
mác buồn.
Tiếp theo là Final, giai điệu của nó đối với em quả thực rất quen thuộc, có
lẽ là đã nghe qua nhưng không biết tên gì, tác giả sáng tác là ai. Mãi cho tới tận
khi học môn Mỹ học em mới có dịp nhớ lại và biết thêm thông tin về nó. Đây là
khúc nhạc rất vui nhộn với tiết tấu nhanh. Đối với cá nhân em khi nghe Final thì

giống như là nhìn thấy một bữa tiệc khiêu vũ ngoài trời với sự tham gia của vạn
vật, tất cả đều hòa vào, cùng nhau nhảy múa rất vui vẻ. Những điệu nhảy thì
không giống nhau, mỗi người, mỗi loài một nét riêng tùy theo hứng thú và sáng
tạo của mình. Tiết tấu nhanh này dễ gây được hứng khởi trong lòng người nghe
và cuốn họ theo khúc nhạc, khiến chân tay không thể yên hoặc ít nhất là lắc lư
đầu theo điệu nhạc.
KẾT LUẬN
Toàn bộ tổ khúc Le carnival des animaux là một bức tranh muôn màu sắc
về vũ hội của muông thú. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và vui nhộn này không
hề xa vờ mà rất gần gũi. Nó có thể sẽ hiện hữu ngay trong cuộc sống của chúng
ta nếu chúng ta biết yêu thiên nhiên, bảo vệ các loài động vật. Thiên nhiên sẽ là
người bạn tốt của chúng ta nếu chúng ta biết bảo vệ và chung sống hòa thuận
với thiên nhiên.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
saens/default.aspx
2.
3.
11
4.
px
5.
6.
12

×