Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện nay – nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu đang dần chuyển mình
vươn xa hơn trên bước đường hội nhập. Với nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần không những phát triển về các ngành công nghiệp mà còn phát
triển mạnh cả về nông nghiệp. Tuy diện tích và tổng số lao động tham gia
vào ngành nông nghiệp đang ngày càng giảm nhưng khối lượng hàng hóa
nông sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều đáp ứng nhu cầu đang tăng cao
của người tiêu dùng không chỉ trong nước mà còn mở rộng ra xuất khẩu.
Hàng năm, nguồn ngoại tệ thu về từ xuất khẩu hàng nông sản chiểm tỷ lệ
không nhỏ đóng góp cho quá trình phát triển của đất nước. Chúng ta vừa
gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, đó là một cơ hội cho
chúng ta có thể mở rộng quan hệ gia nhập vào thị trường thế giới bên cạnh
đó còn nhiều thách thức đặt ra cho thị trường nông sản Việt Nam, đó là:
- Sản lượng được sản xuất ra với khối lượng lớn do tăng năng suất, áp
dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nhưng vẫn còn tình trạng nhà sản
xuất chịu thiệt do bị ép giá lúc chính vụ.
- Khi tham gia vào thị trường thế giới gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt
của các nước khác, bị các nước lớn chèn ép.
Bên cạnh đó do khâu tiêu thụ chưa được giải quyết hợp lý, chưa có sự
gắn kết chặt chẽ giữa khâu sản xuất và khâu tiêu thụ nên thị trường nông
sản vẫn chưa vận hành một cách nhịp nhàng, hoàn thiện.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về những vấn đề trên và tìm ra giải
pháp tối ưu nhất để hoàn thiện thị trường nông sản, em chọn đề tài: “Giải
pháp đầu ra cho thị trường nông sản Việt Nam”.
Do kiến thức còn hạn hẹp nên việc thực hiện đề án còn nhiều thiếu sót
em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo. Em xin chân
thành cảm ơn các thầy cô trong khoa và cô Võ Hòa Loan - người đã trực
tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG CHÍNH
Chương I: Cơ sở lý luận thị trường nông sản.
1. Khái niêm, đặc điểm thị trường nông sản (TTNS).
1.1. Các khái niệm.
1.1.1. Thị trường, thị trường nông sản.
Xét về mặt lịch sử, thị trường xuất hiện và phát triển cùng với sự phát
sinh, phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ban đầu là sự trao đổi
bằng hiện vật, sau khi có sự ra đời của tiền tệ - đóng vai trò trung gian –
giữ chức năng định giá cho mọi hàng hóa trao đổi trên thị trường. Ở nước
ta, từ khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới, thuật ngữ thị trường được sử
dụng rất rộng rãi, trên thực tiễn, sách báo. Trong ngành nông nghiệp hình
thành những cụm từ đa dạng: thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, thị
trường phân bón, thị trường lúa gạo… Người ta cũng sử dụng thuật ngữ thị
trường chỉ không gian trao đổi hàng hóa: thị trường nông thôn, thị trường
thành thị, thị trường nội địa, thị trường khu vực ASEAN, thị trường quốc
tế…
Nếu phân loại thị trường theo các giai đoạn tạo nên sản phẩm, người ta
có thể phân chia thị trường thành 2 loại: thị trường các yếu tố đầu vào của
sản xuất và thị trường sản phẩm.
- Thị trường các yếu tố đầu vào hay còn gọi là thị trường tư liệu sản
xuất. Thị trường tư liệu sản xuất của nông nghiệp là tập hợp những cá
nhân, tổ chức mua và bán các tư liệu sản xuất đầu vào như: phân bón, thuốc
trừ sâu, thức ăn gia súc, giống…phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm.
- Thị trường sản phẩm hay còn gọi là thị trường hàng tiêu dùng: Đây là
thị trường chủ yếu để tiêu thụ phần lớn nông sản hàng hóa do các doanh
nghiệp nông nghiệp sản xuất ra.
Khách hàng của thị trường sản phẩm là những cá nhân hay gia đình
mua hàng hóa nông sản để phục vụ cho các lợi ích cá nhân.
Thị trường sản phẩm rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã và phụ thuộc
rất nhiều vào đặc điểm của người tiêu dùng.
Nông nghiệp là một trong những ngành vừa tạo ra thị trường TLSX, lại
vừa tạo ra thị trường sản phẩm. Bởi vì nhiều sản phẩm nông nghiệp là yếu
tố đầu vào cho một số ngành công nghiệp chế biến, đồng thời phần lớn sản
phẩm nông nghiệp sau khi thu hoạch có thể tham gia ngay vào thị trường
hàng hóa tiêu dùng như hoa quả tươi, rau, lương thực, các sản phẩm chăn
nuôi như thịt, cá, trứng… Do vậy, việc nghiên cứu sâu thị trường tiệu thụ
sản phẩm và quá trình lựa chọn thị trường là nội dung quan trọng trong
marketing nông nghiệp.
- Thị trường nông sản: Là tập hợp những người mua có cùng nhu cầu,
có khả năng thanh toán về một sản phẩm hàng hóa nông sản nào đó.
Thị trường mục tiêu: Là nhóm khách hàng (nhóm những người mua)
mà nhà sản xuất, doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp hướng tới.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2. Sản phẩm và lợi ích của sản phẩm.
- Sản phẩm hàng hóa nói chung là tất cả những gì có thể thỏa mãn nhu
cầu hay mong muốn của khách hàng và được đem ra trao đổi trên thị
trường với mục đích thu hút sự chú ý mua sắm và sử dụng hoặc tiêu dùng.
Nói cách khác đó là những thứ mà người mua có thể chấp nhận để thỏa
mãn các mong muốn và nhu cầu của mình.
Sản phẩm nông nghiệp là những gì thỏa mãn nhu cầu ăn, uống, mặc và
những dịch vụ cần thiết cho sản xuất nông nghiệp.
Một sản phẩm là tập hợp các thuộc tính hữu hình và vô hình bao gồm: màu
sắc, nhãn hiệu, giá cả, uy tín và dịch vụ của người sản xuất, của người bán
lẻ…
- Lợi ích sản phẩm: Là tính hữu ích của sản phẩm khi người tiêu dùng
mua để đáp ứng nhu cầu, là kì vọng của người tiêu dùng đối với sản phẩm.
1.2. Bản chất và chức năng của thị trường nông sản.
1.2.1. Bản chất của thị trường nông sản.
Xét về phía kết quả của các cuộc trao đổi hàng hóa, kể cả trong trao đổi
hàng hóa giản đơn trực tiếp vật lấy vật hay trao đổi có dùng tiền làm trung
gian, thì kết cục của mọi cuộc mua bán trên thị trường đều là sự chuyển
giao quyền sở hữu một vật gì đó từ người chủ này sang người chủ khác với
một giá cả nhất định do họ thỏa thuận định ra. Nói cách khác, nếu khi có sự
chuyển giao quyền sở hữu một vật gì đó thì cần có sự định giá vật đó trên
thị trường. Quá trình đinh giá vật trao đổi trên thị trường hàng hóa gọi là
quá trình mặc cả hay đàm phán giá trong thương mại. Mọi cuộc đàm phán
thương mại giữa hai bên bán và mua trong nền kinh tế thị trường phát triển
cao đều mang lại kết quả là hình thành được một tập hợp các thỏa thuận cụ
thể về việc mua bán một loại hàng hóa hay dịch vụ cụ thể liên quan đến
ngành nông nghiệp.
Về bản chất, TTNS nói chung được hiểu là một tập hợp những thỏa
thuận, dựa vào đó mà các chủ thể kinh tế trong và ngoài ngành nông nghiệp
có thể trao đổi được các hàng hóa nông sản hay các dịch vụ cho nhau.
Cùng với sự phát triển ngày càng cao của sản xuất và trao đổi hàng hóa
trong nông nghiệp, thị trường nông nghiệp phát triển ngày càng phức tạp.
tính chất phức tạp và đa dạng của thị trường nông nghiệp là do tính đa dạng
trong nhu cầu tiêu dùng các loại nông sản thực phẩm của người dân ở thành
thị hay nông thôn. Tuy nhiên nếu ta coi một loạt những biến đổi về quyền
sở hữu và các quá trình kinh tế - kĩ thuật làm cho sản phẩm từ những người
sản xuất nông nghiệp (doanh nghiệp nhà nước, HTX, hộ nông dân…) đến
tay người tiêu dùng cuối cùng là những dây chuyền marketing thì có rất
nhiều dây chuyền khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm sản xuất và tiêu dùng
mỗi loại nông sản nhất định. Mỗi dây chuyền marketing nói trên tuy khác
nhau nhiều về thời gian, không gian, hình thức biến đổi của sản phẩm, các
chủ thể quan hệ mua bán… nhưng chúng đều có thể được xem xét trên hai
mặt:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
-Cơ cấu tổ chức của mỗi dây chuyền tùy thuộc loại hình kinh doanh của
những người nắm quyền sở hữu sản phẩm ở điểm nào đó trên dây
chuyền.
- Chức năng hoạt động tạo ra giá trị được thực hiện ở mỗi khâu tùy
thuộc vào những chi phí thu gom, chế biến, vận chuyển, bảo quản… mà
những người kinh doanh hoạt động trên dây chuyền đã thực hiện.
Việc đi theo những dây chuyền marketing khác nhau để hiểu cơ cấu tổ
chức của thị trường nông nghiệp không làm mất đi sự khác nhau bản chất
giữa marketing nông nghiệp với thị trường nông sản.
1.2.2. Chức năng của thị trường nông sản.
Bản chất của thị trường nông sản còn thể hiện ở những chức năng của
nó. Với tính cách là một phạm trù kinh tế, thị trường nông sản có những
chức năng cơ bản sau đây:
- Chức năng thừa nhận
Mọi yếu tố đầu vào của sản xuất và đầu ra của nông sản hàng hóa đều
thực hiện được việc bán, tức là chuyển quyền sở hữu nó với những giá nhất
định, thông qua việc thực hiện một loạt các thỏa thuận về giá cả, chất
lượng, số lượng, phương thức giao nhận hàng… trên thị trường. Chức năng
thừa nhận của thị trường thể hiện ở chỗ người mua chấp nhận mua nông
sản hàng hóa của người bán và do vậy hàng hóa đã được bán. Thực hiện
chức năng này nghĩa là thừa nhận các hoạt động sản xuất nông sản hàng
hóa và mua bán chúng theo yêu cầu các quy luật của kinh tế thị trường.
- Chức năng thực hiện
Hoạt động mua và bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm nhất của thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường phát triển, mọi yếu tố đầu vào cho sản
xuất và đầu ra của sản phẩm chủ yếu đều được tiền tệ hóa thì hoạt động
mua bán là cơ sở quan trọng quyết định các mối quan hệ kinh tế giữa các
chủ thể kinh tế. Chức năng thực hiện của thị trường thể hiện ở chỗ, thị
trường thực hiện hành vi trao đổi, thực hiện cân bằng cung cầu từng loại
hàng hóa, hình thành giá cả và thực hiện giá trị của các nông sản phẩm.
- Chức năng điều tiết kích thích
Nhu cầu thị trường là mục đích đáp ứng của mọi quá trình hoạt động sản
xuất – kinh doanh. Thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
các chủ thể kinh tế. Đây chính là cơ sở khách quan để thực hiện chức năng
điều tiết kích thích của thị trương. Thực hiện chức năng này, thị trường có
vai trò quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực khan
hiếm của đất nước và sản xuất nông nghiệp nói chung cũng như từng phân
ngành của nông nghiệp nói riêng.
- Chức năng thông tin
Có nhiều kênh thông tin kinh tế, trong đó thông tin thị trường là rất quan
trọng. Chức năng thông tin thị trường bao gồm: tổng cung, tổng cầu nông
sản hàng hóa, cơ cấu cung cầu các loại nông sản hàng hóa, chất lượng, giá
cả, thậm chí cả thị hiếu, cách thức, phong tục tiêu dùng của nhân dân…
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Những thông tin thị trường chính xác là cơ sở quan trọng cho việc ra các
quyết định.
Các chức năng nêu trên của thị trượng nông sản có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, làm cho thị trường thể hiện đầy đủ vai trò bản chất của mình. Chức
năng thừa nhận là quan trọng nhất, có tính chất quyết định. Chừng nào
chức năng này được thực hiện thì các chức năng khác mới phát huy tác
dụng. Mặt khác, khi chức năng thừa nhận đã được thực hiện mà các chức
năng khác không thể hiện ra thì chắc chắn đã có những yếu tố phi kinh tế
nào đó can thiệp vào thị trường làm cho nó bị biến dạng di.
2. Đặc điểm thị trường nông sản.
Những đặc điểm của TTNS gắn liền với những đặc điểm
của của sản xuất nông nghiệp, với sản phẩm nông nghiệp. Những đặc điểm
đó là:
- Sản phẩm nông nghiệp và TTNS mang tính chất vùng và khu vực.
Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của sản xuất nông nghiệp gắn chặt
với điều kiện tự nhiên mang tính chất vùng. Lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt
đối của các vùng là yếu tố rất quan trọng trong việc lựa chọn hướng sản
xuất kinh doanh của cơ sở sản xuất kinh doanh và tổ chức hợp lý quá trình
tiêu thụ sản phẩm. Có sản phẩm chỉ thích ứng với một vùng, thậm chí tiểu
vùng và lợi thế tuyệt đối có được coi như là những đặc điểm mà ở các vùng
khác, khu vực khác không có.
- Tính chất mùa vụ của sản xuất nông nghiệp có tác động mạnh mẽ đến
cung – cầu của thị trường nông sản và giá cả nông sản. Sự khan hiếm dẫn
đến giá cả cao vào đầu vụ, cuối vụ và sự dư thừa làm cho giá cả giảm vào
chính vụ là một biểu hiện của đặc điểm này. Việc chế biến, bảo quản và dự
trữ sản phẩm là để đảm bảo cung cầu tương đối ổn định là một yêu cầu cần
được chú ý trong quá trình tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
- Sản phẩm nông nghiệp rất đa dạng, phong phú và trở thành nhu cầu tối
thiểu hàng ngày của mỗi người, với thị trường rất rộng lớn nên việc tổ chức
tiêu thụ sản phẩm phải hết sức linh hoạt. Sản phẩm cồng kềnh, tươi sống,
khó bảo quản chuyên chở xa, vì vậy cần tổ chức các chợ nông thôn, các cửa
hàng lưu động và nhiều lĩnh vực linh hoạt và thuận tiện cho người tiêu
dung, hoặc sơ chế trước khi đưa tiêu thụ, đồng thời phải sử dụng các
phương tiện chuyên dung riêng khi vận chuyển, bảo quản.
- Tình trạng độc quyền tương đối phổ biến trên thị trường nông nghiệp.
Nền nông nghiệp vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước chịu tác động của quy luật cạnh tranh thị trường. Về lý luận, có hai
loại cạnh tranh thị trường nông nghiệp, đó là thị trường cạnh tranh hoàn
hảo và thị trường cạnh tranh độc quyền. Về mặt thực tiễn cho thấy, không
phải mọi thị trường đều có tính chất cạnh tranh, mà ngược lại trong thị
trường nông nghiệp, độc quyền một người bán và độc quyền một người
mua là những nét đặc trưng.
- Thị trường Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào khu vực và
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thế giới.
Môi trường thị trường mở cửa và hội nhập với bên ngoài là điều kiện thúc
đẩy quá trình hội nhập của nông nghiệp Việt Nam với thế giới và khu
vực. Hiện nay Chính phủ ta đã cam kết trong các Hiệp định Quốc tế với lộ
trình xác định, gồm:
1/ Hiệp định tham gia AFTA: Năm 2006 thuế nhập khẩu đối với tất cả
mọi mặt hàng không vượt quá 5%.
2/ Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ: Mặc dù được kí kết muộn hơn
(tháng 7/2000), nhưng từ năm 2004 – 2006, các doanh nghiệp Mỹ được
phép kinh doanh nhập khẩu và phân phối một số sản phẩm, trong đó có
động vật sống ở thị trường Việt Nam.
3/ Nước ta cũng đã chấp thuận yêu cầu tự do hóa thương mại của IMF
và WB theo hướng bỏ các hạn chế định lượng với AFTA trên cơ sở quy
chế tối huệ quốc vào năm 2003.
4/ Trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, nước ta phải cam kết
ràng buộc về thuế quan đối với tất cả mọi hàng nông sản tại thời điểm gia
nhập, theo đó mức thuế xuất nhập khẩu đối với tất cả hàng nông sản sẽ
thấp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 2: Phân tích thực trạng thị trường đầu ra cho
nông sản Việt Nam.
1. Thực trạng về thị trường tiêu thụ một số nông sản chủ yếu Việt
Nam.
Nông nghiệp Việt Nam trải qua gần 2 thập kỷ đổi mới đã đạt được
những thành tựu đáng kể, sản xuất phát triển tương đối toàn diện và ổn
định với tốc độ tăng trưởng bình quân 4,3%/năm. So với năm 1987, đến
nay sản lượng lương thực tăng hơn 2,1 lần, cà phê tăng 1,6 lần, đàn lợn
tăng 1,9 lần,… Nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu các sản phẩm nông,
lâm, thủy sản 5 năm qua luôn chiếm tỷ trọng từ 25 – 30% tổng giá trị hàng
hóa xuất khẩu cả nước (bảng 1). Những thành tựu của nông nghiệp đã tạo
đà cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế một cách ổn định và
vững chắc.
Bảng 1: Giá trị xuất khẩu của một số mặt hàng nông sản chủ yếu.
Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004
Tổng giá trị hàng
hóa xk
14308 15100 16500 19900 26003
Tổng giá trị thủy
sản xk
1475 1809 1878 2240 2350
Gạo
668 588 730 750 941
Cà phê
485 385 291 428 641
Rau quả
205 305 184 152 140
Cao su
170 161 229 383 580
Tiêu
142 90 106 121 146
Điều
130 144 194 223 430
Chè 53 66 76 60 91
Nguồn: Tổng hợp từ con số & sự kiện, số 1–12 các năm 1998 – 2005.
Kết quả khảo sát của ngành nông nghiệp cho thấy, một số ngành hàng
nông sản có tỷ lệ tiêu dùng trong nước cao như: sản phẩm chăn nuôi (thịt,
trứng, sữa), đường ăn, ngô, đậu (chiếm trung bình từ 95% đến 100% sản
lượng), rau quả (chiếm khoảng 90% sản lượng), gạo (chiếm 75%-80% sản
lượng). Trong khi đó, lại có những ngành hàng có tỷ lệ tiêu dùng trong
nước thấp như: cà phê, hạt điều, hạt tiêu (dưới 5%), cao su, chè (khoảng
20% đến 25%).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đáng chú ý là xu hướng tiêu dùng hiện nay đã có những thay đổi đáng
kể khi mức sống của đại bộ phận nhân dân được nâng cao. Mức tiêu dùng
gạo đã giảm trung bình khoảng 1%/năm, tiêu thụ thịt, trứng, rau, quả tăng
nhanh 5 - 6%/năm, sữa tăng trên 10%/năm. Yêu cầu về chất lượng, vệ sinh
an toàn thực phẩm cũng ngày càng tăng. Giờ đây, người tiêu dùng quan
tâm nhiều hơn đến chất lượng, mẫu mã, thương hiệu và giá cả.
1.1. Thị trường sản xuất lúa:
Lúa luôn giữ vị trí trung tâm trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn
Việt Nam, 2 vùng sản xuất lúa lớn là đồng bằng song Hồng và đồng bằng
sông Cửu Long. Sản xuất lúa gạo bắt đầu tăng mạnh từ cuối thập kỷ 80,
Việt Nam chuyển từ một nước nhập khẩu lương thực thành một nước xuất
khẩu gạo quan trọng trên thế giới. Những thành tựu trong sản xuất lúa gạo
thời kỳ đổi mới đã giúp VN không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
trong nước mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới (sau Thái
Lan). Mức tăng diện tích gieo trồng từ 1990 – 2003 đạt 1,8%/năm, về số
tuyệt đối 1442,6 ngàn ha do tăng vụ. Sản lượng gạo xuất khẩu tăng mạnh từ
1,48 triệu tấn (1990) đến năm 2004 đạt mức kỷ lục: 4,6 triệu tấn. 15 năm
gần đây, tốc độ tăng trưởng của sản xuất lúa gạo khá ổn định, tỷ lệ xuất
khẩu tăng 9,5% (1990) lên 26,7% (1999).
Giai đoạn 1997 – 2004: Xuất khẩu trung bình 3,8 triệu tấn/năm, cung
cấp cho hơn 120 nước trên thế giới, chủ yếu là châu Á (52%), châu Âu
(20%), Trung Đông (12,7%), 5 nước đứng đầu: Inđônêxia (14,8%), Philipin
(12,6%), Singapore (9,9%), Thụy Sỹ (8,4%0. Những năm gần đây thị
trường châu Phi được chủ trọng và khai thông.
Bảng 2: Tình hình xuất khẩu gạo VN bình quân 1997 – 2004.
Nước Tỷ trọng
(%)
Khối lượng
XK (tấn)
Kim ngạch XK
(tr.USD)
Giá bình quân
(USD/tấn)
Tổng xuất khẩu 100 3808655 843,051 221
10 nước nhập
khẩu chính
71,3 2717187 623,565, 229
Inđônêxia 14,8 654055 125,731 223
Philipin 12,6 478948 105,547 220
Singapore 9,9 376044 80,450 214
Irăc 9,8 373875 109,189 292
Thụy Sỹ 8,4 318374 70,154 220
Malaixia 5,1 193526 43,769 226
Mỹ 3,2 121908 26,744 219
[Nguồn: Tổng quan về ngành lúa gạo VN – Bộ NN&PTNN – Số liệu thống kê
2004.
1.2. Thị trường cà phê:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng 3: Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê nước ta.
Năm Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
2000 561901 16,8 802500
2001 565300 20,0 840600
2002 522200 14,5 699500
2003 513700 15,8 793700
2004 503200 16,6 834600
Nguồn: VICOFA, Bộ Thương mại.
Về tiêu thụ sản phẩm cà phê: có 3 loại sản phẩm mà người trồng cà phê
thường bán là cà phê quả tươi, cà phê quả khô & cà phê nhân xô, trong đó
chủ yếu là cà phê nhân xô qua các kênh tiêu thụ, trong đó các cơ sở xuất
khẩu cà phê thông qua các đại lý hoặc những người thu gom. Các đại lý và
người thu gom đóng vai trò quan trọng trong thu mua cà phê, chiếm
khoảng 90% sản lượng cà phê, các cơ sở xuất khẩu cà phê tiến hành chế
biến và xuất khẩu.
Cà phê là mặt hàng có giá trị giao dịch quốc tế lớn thứ 2 sau dầu mỏ -
VN thứ 2 sau gạo, chiếm khoảng 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm.
Niên vụ 2003/2004 cà phê nước ta xuất khẩu đi tới 70 nước trên thế giới –
10 nước đứng đầu: Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Bỉ, Ý, Ba Lan, Anh, Pháp,
Hàn Quốc & Nhật.
Bảng 4: Tình hình xuất khẩu cà phê của nước ta.
Năm
Khối lượng xuất
khẩu (tấn)
Kim ngạch xuất khẩu
(1000USD)
Giá xuất khẩu trung bình
(USD/tấn)
200
0
654000 538000 823
200
1
875000 382000 437
200
2
714000 263000 368
200
3
69100 428000 619
200
4
974500 641000 632
Nguồn: Thời báo kinh tế 4/2005.
Về tiêu thụ trong nước: So với các nước trồng ca phê khác, VN có tỷ lệ
tiêu thụ cà phê trong nước thấp nhất thế giới. Mỗi năm VN sản lượng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
750.000 - 800.000 T nhưng chỉ có khoảng 30.000 T được tiệu thụ ở thị
trường nội địa. Trong lúc đó, sản lượng tiêu thụ nội địa của Braxin lên tới
trên 700.000 T, Indonexia - 120.000 T… Việc tiêu thụ nội dịa ở đây không
phải là dân của họ uống hết chừng ấy cà phê, mà là công nghiệp chế biến
của họ phát triển, tiêu thụ hết chừng ấy cà phê nguyên liệu. Tỷ lệ xuất khẩu
nguyên liệu quá cao giống như con sông không có hồ điều tiết, dễ hạn, dễ
lụt, khi có biến động về cung cầu trên thị trường thế giới, cà phê VN lập
tức rơi vào khủng hoảng.
Khuyến cáo của ngành NN với cà phê trong thời gian tới là: Không
khuyến khích mở rộng diện tích, tập trung thâm canh những vườn hiện có,
đa dạng hoá sản phẩm, phát triển cà phê chất lượng cao. Việc cà phê được
giá 2 năm liền đang kích thích việc mở rộng diện tích. Cơn khủng hoảng về
giá các năm trước đã giúp loại bỏ được khoảng 100.000 ha cà phê ở Tây
Nguyên, Đồng Nai, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu sản xuất cà phê giá
thành cao, bấp bênh chuyển sang cây trồng khác hiệu quả hơn.
Nếu khắc phục được những nhược điểm trên thì cà phê luôn luôn là thế
mạnh của nền nông nghiệp Việt Nam.
1.3. Thị trường chè.
Chè là sản phẩm truyền thống đối với các địa phương ở miền núi và
trung du, là động lực kinh tế, phương thức XĐGN. Năm 1987, Chính phủ
đã quyết định thành lập Hội đồng sản xuất kinh doanh chè (nay là Hiệp hội
chè VN), đồng thời, Chính phủ đã giao xí nghiệp nông – công – nghiệp chè
VN thực hiện chương trình hợp tác với các nước Liên Xô và Ba Lan
Bảng 5: Diện tích và sản lượng chè 2000 – 2004.
Năm
Diện tích (ngàn
ha)
Sản lượng chè khô (ngàn
tấn)
Sản lượng XK (ngàn
tấn)
200
0
87,7 69,9 55,6
200
1
98,3 75,7 67,9
200
2
109,3 94,2 77,0
200
3
116,3 94,5 59,8
200
4
118,7 100,0 96,0
[
Nguồn: Niên giám thống kê 2004 và các tài liệu khác.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
. Với 5 năm hợp tác, ngành chè đã có một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển. Có 4 liên doanh và 5 công ty nước ngoài đã vào VN để đầu tư
cho ngành chè, đẩy mạnh thâm canh. So với năm 1995, năm 2004, diện tích
tăng 187,4%, năng suất tăng 175%, sản lượng tăng 318,4%.
Tình hình xuất khẩu: Cả nước có khoảng gần 200 đơn vị tham gia
xuất khẩu chè, trong đó Tổng công ty chè Viêt Nam lớn nhất. Lượng chè
xuất khẩu tăng đều, trong 20 nước trồng và chế biến chè xuất khẩu, Việt
Nam đứng thứ 5 về diện tích, thứ 9 về sản lượng, thứ 7 về xuất khẩu. Sản
lượng chiếm 4% thế giới – Có mặt trên 97 nước và khu vực trên thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2000 là 69600 nghìn USD, năm 2004 tăng lên
91500 nghìn USD.
1.4. Thị trường thủy sản.
Hoạt động ngành Thủy sản Việt Nam (1999 – 2003).
Năm Sản lượng
(1000 tấn)
Đánh bắt Nuôi trồng Diện tích nuôi
trồng (ha)
1999 1827,31 1212,80 614,51 630000
2000 2003,00 1280,59 723,11 652000
2001 2226,90 1347,80 879,10 887500
2002 2410,00 1310,00 976,00 955000
2003 2536,00 1426,00 1110,00 1005000
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2004
Năm 2004, sản phẩm thủy sản tiêu thụ 50 nước và vùng lãnh thổ. Kim
ngạch xuất khẩu tăng lên 1,777 tỷ USD (2001) gấp 8,76 lần năm 1990, đến
năm 2003 đạt 7,271 tỷ USD.
Bình quân giai đoạn 1990 – 2003 tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản:
20%, ước tính ngành thủy sản đóng góp 11,8% tổng kim ngạch xuất khẩu
cả nước.
1.5. Thị trường cao su.
Việt Nam hiện là một trong những nước sản xuất cao su thiên nhiên
lớn trên thế giới, riêng xuất khẩu cao su xếp thứ 4 sau Thái Lan, Inđônêxia
vàMalaysia. Sản lượng cao su VN đã tăng vượt bậc, từ 220.000 tấn năm
1996 lên 560.000 tấn năm 2006. Ngoài phát triển trồng cao su quốc doanh
và cao su tiểu điền ở trong nước, Việt Nam hiện có gần 200.000 ha cao su
được đầu tư ở Lào và Campuchia với sản lượng dự kiến đạt 1,5 triệu tấn
vào năm 2020.
Trong năm 2006, cao su Việt Nam đã được xuất khẩu sang hơn 40 thị
trường trên thế giới. Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu cao su lớn
nhất của nước ta, chiếm 66,38% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước,
đạt gần 470 ngàn tấn với trị giá 851,38 triệu USD, tăng 27% về lượng và
tăng 64% về trị giá so với năm 2005.
1.6. Thị trường rau quả.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thời quan qua, thị trường xuất khẩu rau quả có xu hướng phát triển
nhanh. Cả nước hiện có trên 1,4 triệu ha diện tích trồng rau, quả, cho thu
hoạch trên 6,5 triệu tấn trái cây; 9,6 triệu tấn rau. Hội nhập đang tạo điều
kiện mở rộng thị trường và phát triển sản xuất. Hiện nay, rau quả Việt Nam
đã có mặt trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, kim ngạch xuất
khẩu không ổn định, năm lên, năm xuống, tăng trưởng chậm. Kim ngạch 5
năm 2001-2005 chỉ đạt 1.096 triệu USD, chiếm 0,9% tổng kim ngạch xuất
khẩu và tăng trưởng 1,9%/năm, trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu cũng
trong thời kỳ đó tăng 17,5%/năm. Năm 2006, xuất khẩu rau, quả không đạt
kế hoạch, kim ngạch chỉ đạt 263 triệu USD, chiếm 0,6% tổng kim ngạch
xuất khẩu.
1.7. Thị trường hạt tiêu.
Theo thông báo mới nhất của Hiệp hội hạt tiêu Việt Nam, 9 tháng đầu
năm, mặc dù chất lượng chưa được nâng cao nhưng kim ngạch xuất khẩu
hạt tiêu đã đạt mức tăng cao kỷ lục 26%, dẫn đầu thế giới.Hiệp hội cho
biết, doanh thu xuất khẩu 3 quý đầu năm đạt 90 triệu USD với 67.000 tấn
hạt. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Singapore, Mỹ, Nga, Đức và Ấn
Độ. Trong số này, riêng thị trường Mỹ tiêu thụ khoảng 50.000 tấn.Tuy
nhiên, giá hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam hiện đứng ở mức thấp, trung
bình chỉ bằng 70-80% giá hạt tiêu Brazil hay Ấn Độ. Năm 2001, Việt Nam
xếp thứ tư thế giới về xuất khẩu hạt tiêu.
1.8. Thị trường hạt điều.
Theo đánh giá của Bộ NN & PTNT, tiêu thụ các sản phẩm điều tại thị
trường trong nước hiện đã tăng hơn 3 lần so với hơn 10 năm trở về trước,
trong đó tăng mạnh ở các sản phẩm như: nhân điều chế biến thành thực
phẩm ăn liền, dầu vỏ hạt điều, chất đốt và gỗ điều...
Hạt điều Việt Nam hiện đã có mặt tại 40 quốc gia và vùng lãnh thổ,
riêng 9 tháng đầu năm đã xuất khẩu được trên 400 triệu USD, tăng gần
27% so với cùng kỳ và tiếp tục duy trì vị trí xuất khẩu số 1 thế giới. Với
nhiều tín hiệu khả quan, nhiều vướng mắc được tháo gỡ, ngành điều Việt
Nam đã và đang từng bước khẳng định thương hiệu, đưa hạt điều bay xa
trên đường quốc tế, chiếm giữ vị trí hàng đầu trên thế giới về xuất khẩu.
Tiêu thụ các sản phẩm điều nội địa hiện đã tăng gấp 3 lần so với 10
năm trước. Điều Việt Nam hiện đã có mặt tại 40 quốc gia và vùng lãnh thổ,
riêng 9 tháng đầu năm đã xuất khẩu được trên 400 triệu USD, tăng gần
27% so với cùng kỳ và tiếp tục duy trì vị trí xuất khẩu số 1 thế giới. Ngoài
ra, hạt điều Việt Nam đang hội đủ 5 điều kiện cơ bản để tăng khả năng
cạnh tranh trên thế giới như: năng suất bình quân đã cao hơn 2 lần so với
mức bình quân của thế giới, cao hơn cả Brazil và Ấn Độ; giá thành rẻ, sản
lượng xuất khẩu chiếm hơn 50% của thế giới, nhiều doanh nghiệp chế biến
đạt công suất thiết kế 10.000 tấn hạt/năm và nhiều doanh nghiệp xuất khẩu
đã tạo được chữ tín với khách hàng quốc tế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368