Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các KCN – KCX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.45 KB, 46 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Chiến lược phát triển các Khu Công nghiệp tập trung là một bước đi
đúng đắn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Nó
không những thúc đẩy kinh tế phát triển, thu hút nguồn vốn lớn cả trong nước
và nước ngoài, tạo dựng các khu đô thị vệ tinh mới, tạo việc làm và nâng cao
tay nghề cho nhiều lao động... mà còn mở ra cơ hội rất tốt để chúng ta sử
dụng có hiệu quả những lợi thế tiềm nǎng đất đai và nguồn nhân lực. Đồng
thời thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng trên lãnh thổ Việt Nam.
Sau gần 16 nǎm hình thành và phát triển Viêt Nam Hiện nay, cả nước
có trên 331 khu công nghiệp - khu chế xuất (KCN-KCX) với tổng diện tích
40.510,7 ha, thu hút 4.516 dự án, Đóng góp cho ngân sách nhà nước trên 2 tỷ
USD và trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước/năm... Tuy chỉ sau
hơn 16 năm xây dựng nhưng sự góp mặt của các KCN, KCX đã thực sự làm
cho nền kinh tế Việt Nam sôi động hơn theo chiều hướng tích cực. Trong lúc
nền kinh tế Việt Nam đang rất thiếu vốn thì đây thực sự là nguồn tiếp sức có ý
nghĩa. Các KCN, KCX đã thực sự trở thành địa chỉ hấp dẫn của các nhà
đầu tư thuộc đủ mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư trong nước…Hiện nay, nhiều dự án
đầu tư tại các Khu Công nghiệp tập trung đã đi vào sản xuất một cách ổn định
và có triển vọng rất lạc quan. Một thành công khác về mặt xã hội là các Khu
Công nghiệp đã thu hút giải quyết công ǎn việc làm cho một số đông người
lao động. Theo số liệu thống kê đến nay các doanh nghiệp trong KCN, KCX
đã giải quyết việc làm cho hơn 900.000 lao động trực tiếp hơn 1 triệu lao
động gián tiếp. Đó là chưa kể hàng vạn người tìm được việc làm thông qua
các hoạt động dịch vụ liên quan. Thông qua làm việc tại các Khu Công
nghiệp, người lao động Việt Nam không những đáp ứng được cuộc sống cho
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mình mà còn được đào tạo, rèn luyện kỹ nǎng và tác phong công nghiệp. Một
điều đáng mừng và lạc quan là nếu trước kia cơ cấu vốn đầu tư phát triển vào


các KCN, KCX chỉ có một số ít ngành thì giờ đây các doanh nghiệp tham gia
đầu tư ngày càng đa dạng và phong phú vào nhiều lĩnh vực khác nhau như:
sản xuất hoá chất, dệt may, da giầy, điện tử, lắp ráp ô tô xe máy…Điều này đã
tạo nên một mô hình kinh tế đa dạng, làm tǎng sức cạnh tranh lành mạnh giữa
các doanh nghiệp, thu hút nhiều hơn các dự án đầu tư cả trong và ngoài nước
vào các Khu Công nghiệp... Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt
được, nhưng do mới chỉ được hình thành trong thời gian ngắn nên sự phát
triển của các KCN, KCX vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Và để các KCN,
KCX thực sự là một bộ phận không thể thiếu được trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của đất nước chúng ta cần phải khắc phục những khó khăn,
vướng mắc để xây dựng hoàn thiện hơn nữa các KCN, KCX này.
Qua phân tích ở trên nhận thấy được tầm quan trọng của các KCN,
KCX trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam . Vì vậy em chọn đề tài “ giải
pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các KCN – KCX ”
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo_Thạc sĩ Đinh Đào Ánh Thuỷ đã
giúp đỡ em rất nhiều để em có thể hoàn thành được đề án của mình. Do sự
hạn chế về thời gian và kiến thức nên chắc chắn bài làm của em còn có nhiều
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để bài viết của em
hoàn thiện hơn.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I :MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHU
CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT
1. Khái niệm, đặc điểm của KCN, KCX
1.1 Khái niệm
Theo Luật đầu tư 2005
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo quy định của chính phủ
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực

hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh
giới điạ lý xác định, được thành lập theo quy định của Chỉnh phủ.
1.2 Đặc điểm của KCN, KCX
1.2.1Về tính chất hoạt động
KCN, KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và
các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà không có dân cư (gọi chung là
doanh nghiệp khu công nghiệp). KCN là nơi xây dựng để thu hút các đơn vị
sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị kinh doanh dịch vụ gắn liền
với sản xuất công nghiệp. Theo điều 6 qui chế KCN, KCX, KCNC ban hành
kèm theo NĐ 36 /CP thì doanh nghiệp KCN có thể là các doanh nghiệp Việt
Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
hoặc các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các doanh nghiệp này
được quyền kinh doanh trong các lĩnh vực cụ thể như sau:
Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng.
Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và
tiêu dùng ở trong nước, phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ
thuật, quy trình công nghệ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nghiên cứu, triển khai khoa học, công nghệ để nâng cao chất lượng sản
phẩm và tạo ra sản phẩm mới.
Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp.
1.2.2 Về cơ sở hạ tầng kĩ thuật
Các khu công nghiệp đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ thống
điện nước, điện thoại.. thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng trong khu
công nghiệp do 1 công ty này là doanh nghiệp liên doanh , doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước thực hiện.
1.2.3 Về tổ chức quản lý
Trên thực tế mỗi KCN đều thành lập hệ thống ban quản lý khu công

nghiệp cấp tỉnh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc TW để trực tiếp thực hiện
các chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
KCN. Ngoài ra tham gia vào quản lý tại các KCN, KCX còn có các Bộ như
bộ KH- ĐT ,bộ Thương Mại, bộ Công Nghiệp.
1.3 Sự khác nhau giữa KCN ,KCX
KCN được xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm xuất
khẩu, còn KCN được mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp. KCN, KCX kể
cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước do vậy KCN có thể bao
gồm KCX.
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp sẽ được
hưởng một số ưu đãi nhất định trong đó đặc biệt ưu đãi với những hãng sản
xuất hàng xuất khẩu do đó những hãng này mà nằm trong khu công nghiệp sẽ
được hưởng những ưu đãi như trong KCN.
Việc lựa chọn vị trí để xây dựng KCN, KCX là rất quan trọng đòi hỏi
phát huy được thế mạnh tiềm năng của từng vùng.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Vai trò của KCN, KCX
2.1- Điạ chỉ thu hút vốn đầu tư mạnh mẽ
Chỉ sau hơn 16 năm xây dựng các KCN, KCX đã thực sự trở thành
địa chỉ hấp dẫn của các nhà đầu tư thuộc đủ mọi thành phần kinh tế, bao
gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư trong
nước…Nếu không tính các dự án đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng
KCN cho đến năm 2005 đã có 4.516 dự án đầu tư còn hiệu lực trong các
KCN, KCX trong đó có 2.202 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đuợc cấp
giấy phép ( chiếm 48.5% số dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép
ở Việt Nam) và 2.314 dự án đầu tư trong nước. Các dự án đầu tư vào
nhiều lĩnh vực khác nhau như: sản xuất hoá chất, dệt may, da giầy, điện
tử, lắp ráp ô tô xe máy…
Cho đến nay đã có hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư

vào các KCN, KCX của Việt Nam với tổng số vốn đăng kí đạt khoảng 17,6
tỷ USD chiếm khoảng 37% vốn đăng kí của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài được cấp giấy phép của cả nước. Các dự án đầu tư trong KCN,
KCX chủ yếu là hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm gần 80% tổng số dự
án. Nhìn chung các dự án đầu tư vào KCN,KCX đều được triển khai nhanh
chóng và thuận lợi hơn so với các dự án bên ngoài KCN, KCX do thời gian
xây dựng ngắn nên tỉ lệ vốn thực hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài trong các KCN, KCX đạt khá cao, khoảng 40% cao hơn nhiều
so với trung bình chung của cả nước. Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của
các dự án đầu tư nứơc ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành đòi hỏi
nhiều lao động và có tỉ lệ xuất khẩu cao như dệt, sợi, may mặc, và công
nghiệp chế biến thực phẩm…
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Không chỉ có vai trò quan trọng trong thu hút các nguồn vốn đầu
tư nước ngoài mà trong những năm gần đây đặc biệt là từ khi Luật
Doanh nghiệp có hiệu lực và đi vào thực tiễn, xu hướng đầu tư trong
nước vào các KCN, KCX ngày càng gia tăng. Tính đến cuối năm 2005, cả
nước có 2.314 dự án đầu tư trong nước được phê duyệt với tổng số vốn
đầu tư trên 103 nghìn tỷ đồng. Mặc dù các dự án đầu tư trong nước có
qui mô còn nhỏ chiếm tỉ trọng thấp trong tổng số vốn đầu tư vào
KCN,KCX nhưng nguồn vốn này đang có xu hướng tăng mạnh trong
những năm gần đây. Năm 2003 tổng vốn đầu tư trong nước ở các KCN,
KCX là 77 tỷ đồng thì đến năm 2005 con số này đã lên tới 103tỷ đồng
gấp 1,3 lần
2.2-KCN,KCX góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tuy thời gian phát triển chưa lâu, song các KCN, KCX đã góp phần
quan trọng trong việc tạo ra nhiều giá trị sản xuất công nghiệp hoá,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước đưa nước ta tham gia vào phân
công lao động quốc tế theo hướng tập trung hoá, chuyên môn hoá, khai

thác tốt mọi nguồn lực hiện có, nâng cao sức cạnh tranh và đẩy nhanh
tốc độ phát triển chung của nền kinh tế. Trong những năm qua, doanh
thu và giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN,
KCX liên tục tăng nhanh đều qua các năm. Doanh thu của các doanh
nghiệp trong KCN, KCX tăng trưởng bình quân gần 48%/năm, gấp
6,3lần tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước. Sự phát triển mạnh mẽ của
các KCN, KCX đã làm tăng đáng kể tỉ trọng của toàn ngành công
nghiệp của các nước (chuyển đổi 13.77 điểm phần trăm toàn ngành công
nghiệp)
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX trong
tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước đã tăng từ 8% (1996) lên 14%
(2000) và 17% (2001) lên 28% (2005).
Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX từ 1996 đến
2005 ước đạt khoảng 28,5 tỷ USD. Các doanh nghiệp này đã đóng góp tích
cực vào ngân sách nhà nước; thời kỳ 2001-2005, tổng giá trị nộp ngân sách
đạt khoảng 2 tỷ USD, tăng 45%/năm và gấp 6 lần thời kỳ 1996-2000
Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp trong KCN, KCX
trong giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước (đơn vị: %)
2.3-Góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
xoá đói giảm nghèo
Theo số liệu thống kê đến nay các doanh nghiệp trong KCN, KCX đã
tạo việc làm cho khoảng 900 nghìn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động
gián tiếp. Nếu so với khả năng tạo việc làm thì những con số này chưa phải là
lớn và chưa tưong xứng với tiềm năng. Nhưng điều quan trọng đáng nói ở
chỗ phần lớn những lao động này là những lao động trẻ ( có đến 90% lao
động có độ tuổi từ 18 đến 35) có khả năng nhanh chóng tiếp thu kĩ thuật mới.
Đây là điều kiện quan trọng để xây dựng đội ngũ lao động mới có kỉ luật, có
kỹ thuật và có năng suất cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất

nước. Hơn nữa nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo lại và tuyển dụng lao động của
các doanh nghiệp trong thời gian qua nhiều KCN, KCX đã thành lập các cơ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sở đào tạo nghề ở địa phương. Điển hình như các khu công nghiệp Nghi
Sơn, khu công nghiệp Dung Quất, KCN Việt Nam – Singapo…Việc này
đã góp phần rất nhiều vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp trong KCN nói riêng vàcho sự nghiệp công nghiệp hoá ,
hiện đạihoá của ta nói chung
Tạo việc làm đồng nghĩa với việc tạo thu nhập cho người lao động,
tác động tích cực đến việc xoá đói, giảm nghèo và giảm tỉ lệ thất nghiệp
đồng thời góp phần giảm các tệ nạn xã hộ do thất nghiệp gây ra. Theo
điều tra có khoảng 40% số lao động làm việc trong các KCN,KCX là
những người nghèo đến từ các địa phương. Tỷ lệ này cho thấy số thoát
nghèo trực tiếp nhờ KCN,KCX là gần 30 vạn, nếu tính thêm số lao động
gián tiếp thì con số thoát nghèo lên tới nửa triệu người. Như vậy mở
mang các KCN, KCX không chỉ góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực mà còn góp phần đáng kể vào việc thực hiện
xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập, ổn định đời sống cho người lao động
nước ta.
2.4-Nâng cao năng lực công nghệ quốc gia
Cùng với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động sản xuất
tập trung trong 1 địa bàn tương đối thuận lợi với nhiều cơ chế, chính sách ưu
đãi đặc thù các doanh nghiệp trong các KCN, KCX đã tiếp nhận nhiều công
nghệ tiên tiến hiện đại trên thế giớí để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Theo thống kê nhìn chung các doanh nghiệp trong KCN, KCX có các
thiết bị, trình độ công nghệ ở mức tiên tiến hiện đại hơn so với mặt bằng
chung của cả nước
2.5. KCN đã góp phần nhất định vào việc bảo vệ môi trường sinh thái.
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều kiện

tập trung các chất thải do các doanh nghiệp thải ra để xử lý, tránh tình trạng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khó kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp do phân tán về địa điểm sản
xuất.
KCN góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất từ nội đô;
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường
trong việc kiểm soát ô nhiễm và có biện pháp xử lý kịp thời đối với hành vi
gây ô nhiễm của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp ngoài KCN.
Thực tế cho thấy một số KCN thực hiện rất tốt và hài hoà mục tiêu thu
hút đầu tư với giải quyết vấn đề về môi trường, thực sự là những "công viên
công nghiệp", là mẫu hình để các KCN khác tiếp tục triển khai áp dụng, điển
hình là KCN Biên Hoà II, KCN Thăng Long.
2.6. Các KCN có tác dụng lan toả tích cực tới trình độ phát triển của các
vùng, các ngành, lĩnh vực
KCN mở rộng mối liên kết ngành và liên kết vùng tập trung xung
quanh KCN. Liên kết ngành trong KCN bước đầu đã có những kết quả nhất
định thực hiện trong phạm vi nội bộ KCN bởi những ngành nghề bổ trợ lẫn
nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong KCN đã tạo điều kiện cho các
ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp KCN hoặc bản
thân các doanh nghiệp trong các KCN có điều kiện tiêu thụ sản phẩm tại các
cơ sở kinh doanh xung quanh KCN.
Các KCN ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác
động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển
các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng
hóa, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất. Hiệu qủa này đặc
biệt rõ nét ở các KCN thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông
Cửu Long, các doanh nghiệp chế biến tại KCN tại Nam Định, Hà Nam, Bắc
Giang, Cần Thơ...góp phần tiêu thụ nông sản của các hộ gia đình, cơ sở nông
nghiệp ở vùng nông thôn xung quanh, cải thiện một bước đời sống nông dân.

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
KCN góp phần mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra tại các
vùng lân cận, đặc biệt là những địa phương trình độ công nghiệp phát triển, có
sức lan tỏa lớn tại thành phố Hồ Chí Minh tới các tỉnh lân cận, chuyển các địa
phương này từ cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu kinh tế công nghiệp
hiện đại. Trong thời gian tới, xu hướng lan tỏa từ các KCN, ở các địa phương
này sẽ còn mở rộng hơn nữa sang các địa phương khác như Long An, Bình
Phước...
Đánh giá một cách chung nhất, có thể nói các KCN không chỉ trực tiếp
thúc đẩy công nghiệp của địa phương và của vùng có KCN phát triển mạnh
mẽ trong 16 năm qua, mà còn có tác động lan toả rộng rãi tới nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từng địa phương và cả nước. Đó chính là
hạt nhân của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
2.7.Thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương và thúc đẩy nhanh tốc độ đô
thị hoá
Nhờ sự phát triển của các KCN, KCX thời gian qua đã hình thành
nhiều khu đô thị mới, mang lại văn minh đô thị, góp phần cải thiện đời
sống kinh tế,văn hoá, xã hội cho khu vực rộng lớn được đô thị hoá. Ở
vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc đã đang dấn hình thành các đô thị
mới như Long Biên, Đông Anh, Sóc Sơn, Nam Thăng Long của Hà Nội;
đô thị Vật Cách, Đình Vũ của Hải Phòng… Khu đô thị Nam Thanh- Bắc
Nghệ. Khu kinh tế Dung Quất với thành phố Vạn Tường sẽ tạo lực mới
cho Quảng Ngãi nói riêng và cho các tỉnh Trung Trung Bộ nói chung. Tại
thành phố HCM với 5 cụm đô thị dọc tuyến đường Bắc Nhà Bè- Nam
Bình Chánh đô thị mới Nam Sài Gòn cũng đã xuất hiện góp phần cải
thiện bộ mặt các vùng nông thôn nước ta.
Qua những phân tích nêu trên ta có thể thấy được vai trò hết sức to
lớn của các KCN, KCX trong sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nói riêng. Vì vậy thu hút vốn để
phát triển các KCN, KCX có vai trò vô cùng quan trọng. Sau đây em xin
trình bày qua thực trạng về thu hút đầu tư vào các KCN, KCX của Việt
Nam thời gian qua và em cũng xin được đề xuất 1 một số giải pháp để
khắc phục những mặt hạn chế để tăng cường, thu hút hơn nữa các nhà
đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư tại các KCN, KCX.
CHƯƠNG II- THỰC TRẠNG THU HÚ ĐẦU TƯ VÀO CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT
1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của các KCN, KCX
Sự ra đời của các KCN, KCX gắn liền với đường lối đổi mới, chính
sách mở cửa do đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khởi xướng. Nghị quyết
hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII năm 1994 đã đề ra yêu cầu “Quy hoạch các
vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các KCN, KCX, khu kinh tế đặc
biệt”. Tiếp đó nghị quyết đại hội VIII của Đảng năm 1996 cũng đã xác định
rõ “ Hình thành các KCN tập trung (bao gồm cả KCN, KCX) tạo điều kiện
thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công
nghiệp nông thôn và ven đô thị, ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo các
cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra
ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp xen lẫn với khu
dân cư”. Xây dựng và phát triển các KCN, KCX và khu kinh tế là chủ trương
chiến lược đang được Chính phủ tích cực triển khai để thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đưa Việt
Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sự ra đời của Khu chế xuất Tân Thuận (TP. Hồ Chí Minh) năm 1991
đã đánh dấu sự phát triển của mô hình tổ chức sản xuất này, nhằm thực hiện
mục tiêu xây dựng hệ thống KCN, KCX mạnh để làm đầu tàu thúc đẩy công
nghiệp quốc gia phát triển và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong 15 năm, 1991-2005, hệ thống các KCN - KCX đã phát triển mạnh trên
phạm vi toàn quốc. Đến cuối năm 2005, đã có 130 KCN - KCX được thành
lập tại 45 tỉnh, thành phố. Hầu hết các doanh nghiệp trong khu công nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sản phẩm có sức cạnh tranh cả
trên thị trường xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Riêng năm 2005, các doanh
nghiệp trong khu vực này đã tạo ra 14 tỷ USD giá trị sản xuất công nghiệp,
chiếm 30% tổng giá trị công nghiệp của cả nước; xuất khẩu đạt hơn 6 tỷ USD,
chiếm gần 29% tổng giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu.
Sang năm 2006, tốc độ xây dựng và phát triển các khu công nghiệp có
bước phát triển vượt bậc nhờ Chính phủ ban hành nhiều văn bản pháp lý và
hàng loạt chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các khu này. Trong đó,
việc áp dụng chung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp đối với cả nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài được giới đầu tư đánh giá là bước chuyển biến quan
trọng, góp phần tạo lập môi trường đầu tư ngày càng minh bạch, thông thoáng
và bình đẳng.
Cùng với đó, việc đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là việc cấp và
điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư, quản lý đầu tư được phân cấp triệt để, đã
góp phần giảm bớt thời gian và chi phí cho nhà đầu tư.
Với những nỗ lực trên, tính đến cuối tháng 6 năm 2007, cả nước đã có
148 KCN - KCX với tổng diện tích trên 32.000ha, trong đó 90 khu công
nghiệp đã đi vào hoạt động và 58 khu công nghiệp đang trong giai đoạn giải
phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Không chỉ tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn, các KCN - KCX đã
chuyển dần sang nhiều vùng địa bàn như Long An , Bà Rịa-Vũng Tàu, Vĩnh
Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương nhằm tận dụng lợi thế và tiềm năng của các địa
phương
2.Thực trạng thu hút đầu tư vào các KCN, KCX
KCN đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh

tế trong và ngoài nước, phục vụ cho CNH, HĐH đất nước.
Việc áp dụng các chính sách ưu đãi và những điều kiện thuận lợi về hạ
tầng kinh tế - kỹ thuật, các KCN ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Số dự án
ĐTNN và tổng vốn đăng ký vào KCN ngày càng được mở rộng. Giai đoạn 5
năm 1991-1995, số dự án ĐTNN có 155 dự án, đến 5 năm 2001-2005 là 1.377
dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8.080 triệu USD, tăng gấp 2,34 lần
về số dự án và 12% về tổng vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 1996 - 2001.
Tính đến cuối tháng 12/2005, các KCN đã thu hút được 2.120 dự án có
vốn ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 16.843 triệu USD.
Thực tế đã chứng tỏ, nguồn vốn nước ngoài đầu tư xây dựng và phát
triển KCN 16 năm qua là hết sức quan trọng. Cùng với nguồn lực từ bên
ngoài, chúng ta còn đặc biệt coi trọng phát huy nội lực của các thành phần
kinh tế trong nước. Nếu như trong 5 năm 1991 - 1995, chỉ có gần 50 dự án
trong nước đầu tư vào các KCN, thì đến 5 năm 2001 - 2005 thu hút được
1870 dự án, tăng gấp 4,16 lần so với kế hoạch 5 năm trước. Đến cuối tháng
12/2005, tổng số có 2.367 dự án trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư
trên 117 nghìn tỷ đồng.
Tính đến 7/2007, các KCN cả nước đã thu hút được gần 2.600 dự án có
vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 24,2 tỷ USD và trên 2.700 dự
án đầu tư trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 136 nghìn tỷ đồng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
(chưa kể các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư
976 triệu USD và trên 41 nghìn tỷ đồng).
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN
trên cả nước đạt 53,5%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy trên
70%.
Chỉ tính riêng trong 7 tháng đầu năm 2007, tính chung cả vốn đầu tư
nước ngoài cấp mới và tăng thêm vào các KCN, KCX đạt 2.891 triệu USD,
chiếm 40% tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm của cả nước, tăng hơn 2 lần

so với 7 tháng đầu năm ngoái
Quy mô vốn trung bình của dự án đầu tư trong nước là 1,709 triệu
USD/dự án, chiếm tỉ trọng vốn 28,3% tổng vốn đầu tư vào KCN, KCX còn
dự án đầu tư nước ngoài là 4.67triệu USD/dự án, chiếm 71,7%
Con số cuối cùng về thu hút FDI trong năm 2006, theo công bố của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, vào khoảng 10 tỷ USD, trong đó vốn cấp mới là 7,5 tỷ
USD, còn lại là vốn đăng ký bổ sung. Và trong tổng vốn đăng ký cấp mới cho
797 dự án, riêng các khu công nghiệp và khu chế xuất trong cả nước đã chiếm
tới 48,6% tổng vốn đăng ký.
Trong 10 dự án có quy mô vốn lớn nhất được cấp phép trong năm 2006
phải kể tới dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại
Khu công nghiệp Phú Mỹ 2, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,2 tỷ USD.
Cũng chính dự án này đã đẩy tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lên vị trí thứ nhất trong
bảng xếp hạng các địa phương về thu hút FDI với tổng vốn tiếp nhận gần 1,7
tỷ USD.
Cũng có thể kể đến dự án xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện điện tử
do Tập đoàn Meiko của Nhật đầu tư với số vốn 300 triệu USD tại Khu công
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp Phùng Xá (Hà Tây), đây cũng là dự án lớn nhất từ trước đến nay tại
tỉnh này.
Đối với dự án đăng ký vốn bổ sung, cũng không thiếu vắng những dự
án đang hoạt động tại khu công nghiệp của cả nước. Đơn cử, Công ty Công
nghiệp Gốm Bạch Mã tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore (Bình
Dương) tăng 150 triệu USD (chỉ đứng sau dự án tăng vốn của Intel), Công ty
Canon Việt Nam tăng 70 triệu USD đầu tư nhà máy sản xuất máy in ở Khu
công nghiệp Tiên Sơn (Bắc Ninh), Công ty Fomosa ở Khu công nghiệp Nhơn
Trạch 3 (Đồng Nai) tăng 66,4 triệu USD
3.Hạn chế và nguyên nhân tồn tại
a. Hạn chế của các KCN, KCX

Những thành tựu phát triển các KCN, KCX trong thời gian qua đã góp
phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề cho giai đoạn tiếp theo.
Trong thời gian qua KCN, KCX đã thể hiện vai trò không thể thay thế của
mình trng quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá của đất nước. Tuy nhiên do
mới thành lập và phát triển trong 1 thời gian chưa được lâu chúng ta chưa có
nhiều kinh nghiệm và thiếu cơ sở vật chất nên các KCN, KCX của chúng ta
còn bộc lộ một số khuyết điểm, cản trở sự phát triển bền vững của nước ta. Cụ
thể ở một số mặt như sau:
Về phân bố
Thời gian qua chúng ta đã thành lập quá nhiều KCN, KCX ở cùng một
vùng trong khi khả năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu
quả vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kĩ thuật cho các KCN. Điều này vô hình
chung đã hình thành nên các KCN, KCX có chức năng tương tự nhau ở các
địa phương dẫn tới tình trạng cạnh tranh gay gắt, tự phát, chạy đua theo
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
“phong trào”, làm cho hiệu quả sự dụng vốn đầu tư thấp, không khai thác
được lợi thế riêng có của các địa phương trong việc phát triển các KCN,
KCX. Không chỉ những thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, mà nhiều tỉnh,
thành đang rơi vào “một cuộc đua” thành lập, thu hút đầu tư vào KCN, KCX.
Nhiều tỉnh khá “hào phóng” trong việc cắt đất nông nghiệp để thành lập
KCN, KCX, đồng thời đưa ra những chính sách ưu đãi riêng, chấp nhận dùng
ngân sách địa phương bù lỗ. Hậu quả là, ưu đãi lớn, nhưng các KCN, KCX
của cả nước mới chỉ lấp đầy khoảng trên 60%. Có những KCN, KCX đã được
rào lại nhưng chưa sử dụng, đất bỏ hoang, trong khi nông dân thiếu đất trồng
trọt vì đất đó đã được quy hoạch thành đất công nghiệp.
Ngay tại Hà Nội, theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho tới
thời điểm này đã thành lập 6 KCN tập trung với mô hình chủ đầu tư rất đa
dạng, gồm các hình thức liên doanh (KCN Thăng Long, Nội Bài, Sài Đồng
A), doanh nghiệp nhà nước (KCN Sài Đồng B), công ty 100% vốn nước

ngoài (KCN Hà Nội- Đài Tư). Thế nhưng, thực tế chỉ có 3 KCN đi vào hoạt
động, đón các nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh (KCN Thăng Long, Sài
Đồng B, Nội Bài). Các KCN còn lại chưa triển khai được hoặc chậm triển
khai do một số nguyên nhân như chủ đầu tư không có năng lực tài chính,
thiếu kinh nghiệm xây dựng hạ tầng kỹ thuật nội bộ. Hay để thu hút các dự
án đầu tư vào các KCN, Thái Nguyên thực hiện ưu đãi đầu tư vào KCN Sông
Công đối với các dự án tham gia lấp đầy 30 ha đất công nghiệp đầu tiên, dự
án xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên, dự án trả trước trên 90% tiền thuê lại
đất và phí sử dụng hạ tầng, dự án sử dụng trên 100 lao động địa phương. Dự
án nào đáp ứng đủ 5 điều kiện ưu đãi đầu tư thì được hưởng ưu đãi tối đa là
giảm 90% tiền thuê lại đất trong 4 năm và miễn phí sử dụng hạ tầng trong 7
năm...Có thể nói, việc thành lập các KCN, KCX là chủ trương đúng đắn,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhưng tình trạng “ganh đua” giữa các địa phương, với những ưu đãi “xé rào”
để thu hút đầu tư, làm ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước là một thực tế đáng
báo động. Điều đáng nói là, nhiều địa phương chưa tự cân đối được ngân
sách, vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX có nguồn gốc từ ngân
sách Trung ương, nên nếu các tỉnh cứ tiếp tục dùng ngân sách bù lỗ để thu hút
đầu tư vào KCN, KCX thì rốt cuộc ngân sách Trung ương phải è lưng ra...
gánh nợ.
Hơn nữa, giữa công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch chưa
ăn khớp với nhau. Nhiều quy hoạch đã được duyệt, thậm chí đã đi vào xây
dựng kết cấu hạ tầng thì địa phương lại thay đổi quy hoạch về diện tích, ranh
giới, gây ra sự hoài nghi về tính ổn định của môi trường đầu tư và hiệu lực
của các cơ quan quản lý nhà nước cấp bộ, ảnh hưởng xấu đến thu hút nguồn
vốn đầu tư vào các KCN, KCX .
Tỉ lệ lấp đầy
Theo báo cáo của Chính phủ, đến cuối năm 2005 cả nước có 130 Khu
công nghiệp và khu chế xuất với tổng diện tích 26.520 ha do Chính phủ quyết

định thành lập. Ngoài ra, còn có trên 200 cụm công nghiệp do Uỷ ban nhân
dân các tỉnh thành lập với tổng diện tích 13.991 ha và trên 10.000 ha đất các
khu kinh doanh tập trung khác. Tổng cộng cả 3 hạng mục, “ngốn” hết 50.511
ha đất nông nghiệp, phần lớn bờ xôi, ruộng mật, làm ăn dễ dàng, giao thông
thuận lợi. Tại nhiều địa phương, đặc biệt là các khu đô thị lớn, hàng loạt dự
án được phác thảo, toàn những ý tưởng tốt đẹp, song vì nhiều lý do dự án
không triển khai được, hoặc triển khai chậm, “treo” ngắn thì một vài năm, dài
thì, có khi hơn cả chục năm; có những dự án triển khai không hiệu quả để lại
nỗi xót xa, tiếc nuối cho hàng ngàn, hàng vạn nông dân khát khao một mảnh
đất để trồng trọt. Thiếu việc làm ắt dẫn đến nghèo đói và theo đó là các tệ nạn
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xã hội phát triển, tệ nạn cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút năm sau nhiều hơn năm
trước.
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên – Môi trường: Tỷ lệ lấp đầy các KCN,
KCX trên toàn quốc chỉ đạt 50%; nghĩa là còn 50% diện tích đất bỏ trống
trong tình trạng để cho cỏ mọc. Hiện có 12 KCN, KCX với tổng diện tích
2000 ha được thành lập từ trước năm 1998, song đến nay tỷ lệ lấp đầy vẫn
chưa “quá bán”.
Một vài ví dụ điển hình như là khu chế xuất Hải Phòng có quy mô 150
ha, thành lập từ năm 1997, nhưng đến nay chỉ cho thuê được 1 ha. Cũng tại
Hải Phòng, Khu công nghiệp Nomura với diện tích 153 ha, thành lập từ năm
1994, nay mới cho thuê được 39 ha. Như vậy, hơn 10 năm qua Hải Phòng đã
bỏ trống 263 ha đất trong KCN, KCX . Thủ đô Hà Nội cũng không chịu thua,
Khu công nghiệp Đài tư, Daewoo Hanel quy mô trên 200 ha, thành lập từ
những năm 1995 – 1996 nhưng đến nay mới cho thuê được 5 ha. Hà Nội vốn
là thành phố được xếp vào hàng “4 Đ”: đất đai đắt đỏ. Vậy mà, chỉ mới qua 2
dự án, 195 ha đất đã bị bỏ trống cả chục năm nay. Tại Bà Rịa – Vũng Tàu,
khu công nghiệp Mỹ Xuân B1 quy mô 226 ha thành lập từ năm 1996, nay
cũng mới cho thuê được 20 ha.

Hiệu quả đầu tư
Dù đã trải qua 16 năm hình thành và phát triển, nhưng các KCN, KCX
chỉ thực sự mới phát triển mạnh trong khoảng 10 năm gần đây. Tuy doanh thu
và xuất khẩu của các khu công nghiệp này tốc độ tăng bình quân lên đến
31,9% / năm ở thời kì 2001-2005, cao gấp đôi so với mức tăng trưởng công
nghiệp của cả nước. Các doanh nghiệp này có mức doanh thu/ lao động bình
quân ở mức khá cao, trên 15.000USD/ người; mức xuất khẩu/ lao động cũng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×