Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.78 KB, 20 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Bước lên từ nền kinh tế phong kiến lạc hậu, trì trệ, lại phải trải qua 2
cuộc chiến tranh giữ nước khốc liệt, nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu lại
càng thêm kiệt quệ bởi chiến tranh. Vào thời bình, bắt đầu từ cơ sở kinh tế
lạc hậu, trì trệ đó, nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung
quan liêu bao cấp, khiến cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh
tế nghiêm trọng. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường mà
CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng
sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý
xã hội đạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công
cộng, con người nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức
đua tranh phát triển. Trước tình hình đó, trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta
kịp thời nhận ra sai lầm và tiến hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế
nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Mới chập
chững bước vào nền kinh tế thị trường đầy gian khó, phức tạp, nền kinh tế
Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại trên cơ sở
cân nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam.
Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác – LêNin, đặc biệt là phạm trù
triết học cái chung và cái riêng có vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
nhận thức về kinh tế thị trường. Để góp thêm một tiếng nói ủng hộ đường
lối phát triển kinh tế mà Đảng và Nhà nước ta xây dựng, tôi chọn đề tài:
“Quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong việc xây dựng nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Hoàn thiện tiểu luận này, tôi hy vọng có thể góp một phần nhỏ của
mình trong việc làm rõ, củng cố lòng tin của mọi người vào cuộc đổi mới
của nhà nước ta, và giúp mọi người quen thuộc hơn với một nền kinh tế
mới được áp dụng ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
§ç Hång Thóy - Líp 2B 1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG DƯỚI CÁI
NHÌN CỦA TRIẾT HỌC MACXIT
1.1.Các khái niệm
Cái riêng: là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Ví dụ
như một hành tinh nào đấy hay một thực vật, động vật nào đấy là cái đơn
nhất trong giới tự nhiên. Cái riêng trong lịch sử triết học là một sự kiện
riêng hạn. Một con người nào đó như Huệ, Hoàng… cũng là cái riêng. Cái
riêng còn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm các sự vật
rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại cá biệt đó của cái riêng cho thấy nó chưa
đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại ở những cấu trúc sự vật
khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn
nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt chỉ
có ở một sự vật nhất định mà không lặp lại ở những sự vật khác. Ví dụ
chiều cao, cân nặng, vóc dáng… của một người là cái đơn nhất. Nó cho biết
những đặc điểm của chỉ riêng người đó, không lặp lại ở một người nào
khác. Mặt khác, giữa những cái riêng có thể chuyển hoá qua lại với nhau,
chứng tỏ giữa chúng có một số đặc điểm chung nào đó. Những đặc điểm
chung đó được triết học khái quát thành khái niệm cái chung: là một phụ
trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ
giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng cái chung thường chứa đựng ở
trong nó tính qui luật sự lặp lại. Ví dụ như quy luật cung - cầu, quy luật giá
trị thặng dư là những đặc điểm chung mà mọi nền kinh tế thị trường bắt
buộc phải tuân theo.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Trong lịch sử triết học mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng được
quan niệm khác nhau. Phái duy thực đồng nhất thượng đế với cái chung và
cho rằng chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguồn sản
sinh ra cái riêng. Đối lặp lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh

§ç Hång Thóy - Líp 2B 2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
như P.Abơla (1079 – 1142) Đumxcot (1265 – 1308) cho rằng chỉ có sự vật,
hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là
có thực, còn khái niệm cái chung chỉ là sản phẩm của tư duy của con người.
Thấy được và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên, triết học duy vật
biện chứng cho rằng cái chung chỉ là sản phẩm ucả tư duy của con người.
Thấy được và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên. Triết học duy vật
biện chứng cho rằng cái chung và cái riêng có mối liên hệ biện chứng mật
thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan.
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự
tồ tại của mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ
cái riêng từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý
muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng. Thí dụ, muốn nhận thức
được quy luật phát triển của nền sản xuất của một nước nào đó, phải nghiên
cứu, phân tích so sánh quá trình sản xuất thực tế ở những thời điểm khác
nhau và ở những khu vực khác nhau, mới tìm ra được những mối liên hệ
chung tất nhiên, ổn định của nền sản xuất đó.
Cái chung là bộ phận, còn cái riêng là toàn bộ có thể khái quát một
công thức như sau:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Công thức trên có thể là không hoàn toàn đúng một cáhc tuyệt đối,
nhưng trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính
xác quan hệ bao trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung chỉ giữ phần
bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái toàn bộ
vì nó là một thực thể sống động. Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời
cả cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng vừa có sự tách
biệt, vừa có thể tác động qua lại với nhau, chuyển hoá lẫn nhau. Sự “va
chạm” giữa những cái riêng vừa làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn
nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể

được phát hiện. Về đặc điểm này, LêNin nói: “….cái riêng chỉ có thể tồn
§ç Hång Thóy - Líp 2B 3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung” Ví dụ nguyên tử của mọi nguyên tố
đều khác nhau, đều là cái “riêng” chung có trọng lượng nguyên tử của
mình, có hoá trị của mình, có điện tích hạt nhân của mình, có cấu tạo vỏ
nguyên tử của mình… Nhưng tất cả những nguyên tử đều có cái chung:
trong mọi nguyên tử đều có những hạt nguyên tố, hật nhân của mọi nguyên
tử đều có thể bị phá vỡ. Chính nhờ có những đặc tính chung cho mọi
nguyên tử mà khoa học mới có khả năng biến nguyên tử của một nguyên tố
này thành nguyên tử của một nguyên tố khác.
Nguyên tử, cũng như bất cứ hiện tượng nào khác trong thế giới khách
quan, là sự thống nhất của cái khác nhau và cái giống nhau, cái đơn nhất và
cái phổ biến. Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển
hoá thành cái đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: Trước đại hội Đảng VI thì kinh
tế thị trường chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp, nhưng từ
sau Đại hội Đảng Vi thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn
kinh tế tập chung bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số
ngành như an ninh quốc phòng…
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn giản nhất nhiều khi chỉ mang
tính tương đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái
chung. Thí dụ như cây cối là một đặc điểm chung khi xét tập hợp các cây
như sấu, bàng, phượng vĩ… Nhưng nếu xét trong phạm vi thực vật thì cây
cối chỉ là một đặc điểm đơn nhất chỉ các loại cây, mà ngoài ra thực vật còn
có cỏ, bụi rậm, nấm… xét một ví dụ khác như quy luật cung - cầu là cái
chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong toàn bộ các hình thức kinh
tế trong lịch sử thì nó chỉ là cái đơn nhất, đặc trưng cho kinh tế thị trường
mà không thể là, đặc điểm chung cho mọi hình thức khách như kinh tế tự
cung tự cấp chẳng hạn.
Trong một số trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng

định cái riêng là cái chung. Ví dụ như những câu sau: “Hoa phong lan là
hoa”; “cây phượng là cây”; “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là
§ç Hång Thóy - Líp 2B 4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh tế thị trường”. Những trường hợp đó thể hiện mâu thuẫn giữa cái riêng
và cái chung. Quan hệ bao trùm cả cái riêng đối với cái chung đã trở thành
quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên những định nghĩa như trên chỉ nhằm mục
đích tách sự vật ra khỏi những phạm vi không thuộc sự vật ấy, chứ không
dùng để chỉ toàn bộ những đặc tính của sự vật. Trên cơ sở nguyên lý về
mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung ta đã đưa ra một số giải pháp nhằm
phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam một cách thích hợp, cố gắng
theo kịp tốc độ tăng trưởng của các nước phát triển trên thế giới, tăng
cường cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng CNXH.
§ç Hång Thóy - Líp 2B 5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II: NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ NGUYÊN
LÝ VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG
2.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường
Trên góc độ vĩ mô, thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách
khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá, lưu
thông hàng hóa. Ở đâu và khi nào có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy
có thị trường: “Thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì quy mô
sản xuất cũng tăng lên, sự phân công sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn”
Theo David Begg, thị trường “là sự biểu hiện thu gọn của quá trình
mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng
nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào
và cái quyết định của người công nhận về việc làm bao lâu, cho ai đều
được dung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả” Ta cũng có thể định nghĩa thị

trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hoá, nơi cung gặp cầu.
Kinh tế thị trường là một hệ thống một hệ thốg tự điều chỉnh nền kinh
tế, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong
phú hàng hoá.; dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị trường, năng
động luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường, tự do kinh
doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do
quan hệ cung cầu…
2.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là
kinh tế phong kiến. Ngoài ra nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh
giữa nước khốc liệt, mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi còn bị tàn phá
nặng nề.
§ç Hång Thóy - Líp 2B 6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch
hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
Trong thời gian đầu sau chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự
giúp đỡ của các nước trong hệ thống XHCN mà mô hình kế hoạch hoá đã
phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán,
bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước đã tập chung vào tay mình một lượng
vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định một phát triển
kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ này tỏ ra phù hợp, đã huy
động ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền tuyến.
Sau ngày giải phóng miền nam, trên bức tranh về nền kinh tế nước ta
tồn tại một lúc cả 3 gam màu: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá
tập trung và kinh tế hàng hoá. Do sự không hài hoà giữa các nền kinh tế và
sự chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý
mà chúng ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển
mà còn gây lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường. Lúc này, nước ta
đồng thời cũng bị cắt giảm nguồn viện trợ từ các nước XHCN. Tất cả

những nguyên nhân đó đã khiến cho nền kinh tế nước ta trong những năm
cuối thập kỷ 80 lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị
giảm sút thậm chí ở một số nơi còn bị nạn đói đe doạ. Nguyên nhân của sự
suy thoái này là từ những sai lầm cơ bản như:
+ Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một
quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một bộ phận tài sản
vô chủ và không sử dụng có hiệu quả nguồn lực vốn đang rất khan hiếm
của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao 2,2%.
+ Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa
cho phép khi tổng sản phẩm quốc dân thấy đã dùng hình thức vừa phân
phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực
của sự phát triển.
§ç Hång Thóy - Líp 2B 7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành
chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do
lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự
sáng tạo của hàng tiện người lao động.
Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường, CNTB đã được
những thành tựu về KT – XH phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng
suất lao động cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được những
thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng, con người nhạy
cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển.
Do mắc phải những sai lầm như trên mà để phát triển kinh tế XHCN ở
nước ta không thể chấp nhận việc tiếp tục kế hoạch hoá tập trung như
trước. Với tinh thần tích cực sửa đổi, sau khi đã nhận ra những sai lầm, tại
đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và
thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ
chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII Đảng ta xác định việc
đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế

đang diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng
trong lý luận cũng như trong thực tế. Ta đã chính thức chấp nhận kinh tế thị
trường một cách cơ bản, cùng những ưu điểm của nó một cách tổng thể, lâu
dài mà không còn đơn thuần phủ nhận như trước nữa (rằng kinh tế thị
trường chỉ là đặc trưng riêng của CNTB) nước ta không đi theo CNTB thì
cũng không thể áp dụng kinh tế thị trường trong phát triển kinh tế.
Đảng ta còn chỉ rõ rằng nền kinh tế thị trường có sự phù hợp với thực
tế nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế và với xã hội thế của thời đại.
+ Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì
không thể nào đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ
vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám mươi
§ç Hång Thóy - Líp 2B 8

×