Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

luận văn quản trị chiến lược Giải pháp đẩy mạnh hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của Công ty TNHH Tiếp vận Mercury

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.38 KB, 71 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Báo cáo tình hình kinh doanh của công ty giai đoạn 2009-
2011 Error: Reference source not found
Bảng 2.1: Bảng kết quả kinh doanh của công ty Error: Reference source
not found
Bảng 2.2: Tổng sản lượng hàng hóa giao nhận của Mercury giai đoạn
2009-2011 Error: Reference source not found
Bảng 2.3: áo cáo kết quả kinh doanh giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu
của Mercury trong giai đoạn 2009- 2011 Error: Reference
source not found
Bảng 3.1: Thống kê về nhu cầu vận tải Error: Reference source not found
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn mở cửa hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước
nhiều cơ hội phát triển, ngành kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập
khẩu là một trong những triển vọng phát triển kinh tế mang lại kết quả tích cực
cho đất nước.
Với nền kinh tế phát triển, dịch vụ giao nhận vận tải đã trở thành một ngành
dịch vụ tích hợp nhiều hoạt động có giá trị gia tăng cao, đem lại lợi ích kinh tế lớn,
Việt Nam với môi trường kinh doanh thuận lợi, cơ hội phát triển cao hứa hẹn phát
triển mạnh thị trường dịch vụ trong thời gian tới. Có thể nói, ngành giao nhận đã
phục vụ tốt khiến cho hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng tăng trong những năm
qua, đồng thời làm cho thị trường ngày một mở rộng và thương mại quốc tế ngày
một phát triển.
Tuy nhiên, hoạt động giao nhận cũng ngày càng phức tạp hơn, cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp cũng ngày một gay găt hơn, chính vì vậy mà hoạt động
trong lĩnh vực này cũng này một khó khăn và chưa đi vào thống nhất. Do nhiều lý
do mà ngành dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta hiện còn
nhiều hạn chế, để có thể phát triển mạnh hơn nữa, cần phải xem xét đến nhiều
yếu tố và phương hướng phát triển.
Do đó tìm hiểu kỹ lưỡng trong quá trình học cũng như trong thực tế, đồng


thời nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động giao nhận hàng hóa xuất
nhập khẩu hiện nay, nên em đã chọn đề tài: “Giải pháp đẩy mạnh hoạt động
giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của Công ty TNHH Tiếp vận Mercury”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
Nội dung của khóa luận bao gồm ba chương như sau:
- Chương 1: Khái quát về giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu
- Chương 2: Thực trạng hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của
1
Công ty TNHH Tiếp vận Mercury
- Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập
khẩu của Công ty TNHH Tiếp vận Mercury
Do trong quá trình trình bày, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong
nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy, cô giáo để em có thể hoàn thiện được
kiến thức cũng như có thể đáp ứng được cho công việc sau này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo, các bạn sinh viên, những
người đã giúp đỡ em trong quá trình học tập và rèn luyện tại ngơi trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt là thầy giáo – PGS, TS Nguyễn Văn Tuấn –
giảng viên Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế - người đã trực tiếp hướng dẫn
em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 5/12/2012
2
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ GIAO NHẬN HÀNG HÓA
XUẤT NHẬP KHẨU
1.1. Khái quát chung về giao nhận
1.1.1. Giao nhận và vai trò của giao nhận trong Thương mại quốc tế
1.1.1.1. Khái niệm giao nhận
Buôn bán quốc tế là sự trao đổi hàng hóa giữa người mua và người bán ở
những nước khác nhau. Sau khi hợp đồng buôn bán được ký kết, đó là lúc người

bán phải giao hàng cho người mua. Để đến tay người mua, cần phải qua khâu
vận chuyển. Hay nói cách khác, buôn bán quốc tế được cấu thành từ một bộ
phận quan trọng đó chính là vận chuyển hàng hóa quốc tế. Vận chuyển hàng hóa
quốc tế là một khâu không thể thiếu trong quá trình lưu thông nhằm đưa hàng
hóa từ nơi sản xuất cho đến nơi tiêu dung. Như vậy, dịch vụ giao nhận có nghĩa
là gì?
Dịch vụ giao nhận, theo “Quy tắc mẫu của FIATA về dịch vụ giao
nhận”, là bất kỳ loại dịch vụ nào có liên quan đến vấn đề vận chuyển, gom hàng,
lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa cũng như dịch vụ tư vấn hay
có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả các vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo
hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đế hàng hóa. Theo Luật Thương
mại Việt Nam, giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người làm
dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu
kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao
hàng cho người nhận theo ủy thác của chủ hàng, của người vận tải hay của
người giao nhận khác.
Nói một cách ngắn gọn, giao nhận là tập hợp những nghiệp vụ, thủ tục có
liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hóa từ nơi
gửi hàng (người gửi hàng) đến nơi nhận hàng (người nhận hàng).
3
Giao nhận đã trở thành một Nghề, nó được xuất hiện cách đây 500 năm,
cùng với sự phát triển về buôn bán quốc tế cũng như sự chuyên môn hóa về
nghiệp vụ, phạm vi và mức độ giao nhận ngày càng được mở rộng, nên trong
những năm gần đây, dịch vụ giao nhân đã và đang phát triển không ngừng, ngày
càng được quan tâm và chú trọng hơn.
1.1.1.2. Vai trò của giao nhận trong Thương mại quốc tế.
Hoạt động giao nhận vận tải, với vai trò cơ bản nhất của nó, là một khâu
không thể thiếu trong quy trình xuất nhập khẩu hàng hóa. Giao nhận đảm trách
một phần công việc trong quá trình lưu thông hàng hóa. Nó chuyên chở và thực
hiện một số nghiệp vụ khác để đưa hàng hóa từ nơi gửi đến nơi nhận hàng. Cho

nên hoạt động giao nhận vận tải là chiếc cầu nối quan trọng giữa người gửi hàng
và người nhận hàng
Bằng việc đi thuê hay ủy thác cho một người thứ ba có chuyên môn về
hoạt động giao nhận, người gửi hàng không những giảm bớt một số công việc,
chia sẻ về mặt trách nhiệm và rủi ro mà còn tiết kiệm thời gian và giảm chi phí,
do không phải đầu tư vào một số điều kiện cơ sở hạ tầng cơ bản phục vụ cho
hoạt động giao nhận. Do vậy, mà theo thời gian phạm vi những công việc mà
người gửi hàng giao cho người giao nhận ngày càng nhiều.
Bên cạnh đó, với sự áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong
lĩnh vực giao nhận, hoạt động giao nhận đã ngày càng đưa hàng hóa đến tận tay
người tiêu dùng với tốc độ nhanh hơn, an toàn hơn và đảm bảo chất lượng của
hàng hóa. Cùng với sự áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ, sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt trong lĩnh vực này đã tác động làm nâng cao hiệu quả
và giảm chi phí của hoạt động giao nhận để nhằm phục vụ khách hàng ở mức tốt
nhất. Qua đó mà hoạt động giao nhận sẽ góp phần làm giảm giá thành của sản
phẩm và thúc đấy sự phát triển của thương mại quốc tế.
Như vậy, hoạt động giao nhận đang ngày càng đóng vai trị quan trọng
4
thiết yếu trong hoạt động thương mại quốc tế. Cùng với nó là vai trò và trách
nhiệm của người giao nhận ngày càng lớn trong mối quan hệ giữa người gửi
hàng và người nhận hàng.
1.1.2. Người giao nhận
1.1.2.1. Khái niệm người giao nhận
Người kinh doanh dịch vụ giao nhận gọi là người giao nhận. Người giao
nhận có thể là chủ hàng, chủ tàu, công ty xếp dỡ, người giao nhận chuyên
nghiệp hay bất kỳ một người nào khác có kinh doan dịch vụ giao nhận. Theo
Luật Thương mại Việt Nam thì người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa phải là
thương nhân có giấy nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa.
Trước đây người làm giao nhận chỉ làm đại lý thực hiện một số công việc
của nhà xuất khẩu, nhập khẩu như: xếp dỡ, lưu kho hàng hóa, làm thủ tục giấy

tờ lo liệu vận tải nội địa, thủ thục thanh toán tiền hàng,… Nhưng với khái niệm
giao nhận đang ngày càng mở rộng và trong vai trò người kinh doanh logistics
như hiện nay, người giao nhận còn cung cấp thêm những dịch vụ trọn gói về
toàn bộ quá trình vận tải và phân phối hàng hóa. Vì thế, người giao nhận không
chỉ còn được biết đến như là đại lý (agent) như trước kia mà còn là người gom
hàng (consolidator), người chuyên chở chính (principal carrier),…
1.1.2.2. Vai trò của người giao nhận
Ngày nay, với sự phát triển của vận tải container, vận tải đa phương thức,
người giao nhận không chỉ làm đại lý, người nhận ủy thác mà còn cung cấp dịch vụ
vận tải và đóng vai trị như một bên chính (Principal) – người chuyên chở (Carrier).
Người giao nhận đã làm chức năng và công việc của những người sau đây:
 Môi giới Hải quan (Customs Broker)
Trước đây người giao nhận chỉ hoạt động trong nước. Nhiệm vụ của
người giao nhận lúc đó là làm thủ thục hải quan đối với hàng nhập khẩu và
giành chỗ chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước với các hãng tàu theo sự
ủy thác của người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu tùy thuộc vào quy định của
5
hợp đồng mua bán. Trên cơ sở Nhà nước cho phép, người giao nhận thay mặt
người xuất khẩu để khai báo,làm thủ tục hải quan như một người môi giới hải
quan.
 Đại lý (Agent)
Nếu như trước kia người giao nhận không nhận trách nhiệm của người
vận chuyển. Người giao nhận chỉ là cầu nối giữa người gửi hàng và người
chuyên chở như là một đại lý của người chuyên chở để thực hiện các công việc
khác nhau như nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải quan, lưu
kho… trên cơ sở là hợp đồng ủy thác.
 Người gom hàng (Cargo Consolidator)
Tại Châu Âu, người giao nhận đã có trách nhiệm cung cấp dịch vụ gom
hàng để phục vụ cho vận tải đường sắt từ rất lâu. Nhưng đặt biết nhất là trong
vận tải hàng hóa bằng container dịch vụ gom hàng có thể nói là không thể thiếu

được vì nó có thể biến hàng lẻ (LCL) thành hàng nguyên (FCL) nhằm tận dụng
khả năng chở của container và giảm cước phí vận chuyển. Khi là người gom
hàng, người giao nhận sẽ đóng vai trị là người chuyên chở hoặc là đại lý.
 Người chuyên chở (Carrier)
Trong những năm gần đây, nhiều trường hợp người giao nhận đóng vai trị
là người chuyên chở, có nghĩa là người giao nhận trực tiếp ký hợp đồng vận tải
với chủ hàng đồng thời chịu trách nhiệm đưa hàng hóa từ nơi này đến nơi khác.
Người giao nhận đóng vai trị là người thầu chuyên chở (Contracting Carrier)
nếu người giao nhận ký hợp đồng mà không trực tiếp chuyên chở. Ngược lại,
nếu người giao nhận trực tiếp chuyên chở thì họ là người chuyên chở thực tế
(Performing Carrier)
Khi người giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt hoặc còn gọi là vận
tải từ của đến cửa thì người giao nhận có vai trò như là người kinh doanh vận tải
đa phương thức (MTO). Trong trường hợp này người kinh doanh vận tải đa
6
phương thức là người chuyên chở và cũng phải chịu trách nhiệm đối với hàng
hóa.
1.1.2.3. Trách nhiệm của người giao nhận.
Người giao nhận là người có trách nhiệm thực hiện các nghiệp vụ có liên
quan đến vận chuyển hàng hóa nhằm giao nhận theo đúng sự ủy thác của khách
hàng. Cho du người giao nhận hoạt động với tư cách là đại lý hay người chuyên
chở thì đều phải có trách nhiệm với mọi lỗi lầm của mình, Với tư cách là người
chuyên chở, người kinh doanh vận tải đa phương thức hay là người gom hàng
thì không những người giao nhận phải chịu trách nhiệm về hành vi sơ suất của
mình mà họ phải còn chịu trách nhiệm về những vi phạm của nhân viên, hay
nhân công do họ thuê.
Vì vậy, nói một cách cụ thể thì người giao nhận có những trách nhiệm
sau đây:
 Trách nhiệm của người giao nhận với tư cách là đại lý
Trong danh nghĩa đại lý, người giao nhận phải chịu trách nhiệm với các

bên sau:
• Trách nhiệm đối với khách hàng
Nếu trong quá trình làm nhiệm vụ có sai sót hay sơ suất gì do người giao
nhận hay nhân công mà lỗi lầm ấy không phải do cố ý nhưng lại gây ra tổn thất
về tài chính cho người ủy thách hoặc là gây thiệt hại về hàng hóa thì người giao
nhận vẫn phải chịu mọi trách nhiệm.
Những lỗi phải chịu này bao gồm:
- Không thông báo cho người nhận
- Giao hàng khác với chỉ dẫn của người ủy thác so với hợp đồng hay giao
hàng đến sai nơi quy định.
- Giao hàng không lấy vận đơn, các chứng từ liên quan.
- Không làm đúng chỉ dẫn của khách hàng như không mua bảo hiểm, làm
sai thủ tục hải quan cho hàng hóa.
7
- Tái xuất không theo những thủ tục cần thiết để xin hoàn thuế.
- Giao hàng không đúng người nhận hàng, làm thất lạc hàng hóa, không
thu tiền từ người nhận hàng.
- Không có thái độ chu đáo, bảo quản và cẩn thận với hàng hóa, hay trong
việc thay mặt khách hàng lựa chọn người chuyên chở, thủ kho hay các đại lý
khác.
• Trách nhiệm làm thủ tục Hải quan
Từ khi được ủy thác nhiệm vụ thực hiện khai báo Hải quan, người giao
nhận phải chịu trách nhiệm trước cơ quan hải quan về việc tuân thủ các quy định
về khai tên hàng, số lượng hay giá trị để cơ quan Nhà nước không bị thất thu.
Khi đó người giao nhận sẽ phải tự chịu tiền phạt và khách hàng không có trách
nhiệm bồi hoàn cho người giao nhận. Họ sẽ phải chịu trách nhiệm về tiền bạc
cũng như trách nhiệm về mặt pháp lý, phải gánh chịu trước pháp luật về những
hành vi mà mình gây ra.
• Trách nhiệm với bên thứ ba
Ngoại trừ một số công ty giao nhận có quy mô lớn có nhiều phương tiện

giúp đỡ cũng như có lực lượng lao động lớn, có khả năng cao thì hầu hết những
người giao nhận đều chỉ là những người làm dịch vụ bình thường, họ đều phải
thuê các công ty khác làm các bước trong quy trình như: bốc xếp hàng hóa, vận
chuyển đường bộ, kho hàng… Họ phải thực hiện đầy đủ và đúng với hợp đồng
với bên thứ ba để cung ứng đủ những dịch vụ cần thiết có liên quan đến quá
trình vận chuyển. Nhưng trong một vài trường hợp, người giao nhận có thể bị
bên thứ ba khiếu nại. Các khiếu nại này sẽ rơi vào hai loại sau:
- Người thứ ba bị thương, bị đau ốm thậm chí bị chết và hậu quả của việc đó.
- Sự mất mát tổn thất về tài sản của bên thứ ba và hậu quả của việc đó.
Không những thế, người giao nhận còn có thể phải gánh chịu rất nhiều chi
phí trong khi điều tra khiếu nại để bảo vệ quyền lợi cho mình cũng như hạn chế
tổn thất bao gồm các chi phí như: phí giám định, lưu kho, pháp lý… Nếu vào
trường hợp mà chi phí quá nhiều đến nỗi người giao nhận không phải chịu trách
nhiệm thì cũng không được phía bên kia hoàn trả lại những chi phí mà họ đã bỏ
8
ra.
 Trách nhiệm của người giao nhận với danh nghĩa là người
chuyên chở chính
Người giao nhận khi đóng vai trị là người chuyên chở chính có nghĩa vụ
ký hợp đồng vận chuyển với chủ hàng trực tiếp và chịu mọi trách nhiệm vận
chuyển hàng hóa từ nơi đi cho tới nơi đến.
Với tư cách là người chuyên chở, người giao nhận phải chịu trách nhiệm
về những sơ suất của người chuyên chở hay của người giao nhận khác… mà họ
thuê. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ là thế nào đều do luật lệ của các
phương tiện vận tải liên quan quy định. Tuy nhiên, người giao nhận sẽ không
phải chịu trách nhiệm về những hư hỏng, tổn thất hay mấ mát của hàng hóa
trong những trường hợp sau:
- Do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng ủy thác
- Do khách hàng đóng gói và ghi mã hiệu không đúng, không phù hợp
- Do bản chất hàng hóa

- Do những trường hợp ngoài ý muốn như: chiến tranh, đình công…
Bên cạnh đó, người giao nhận cũng không phải chịu trách nhiệm về mất
khoản lợi mà đáng lẽ người được hưởng là của khách hàng, hay về sự chậm trễ
hoặc giao nhầm địa chỉ nhưng không phải do lỗi của mình.
1.1.3. Phạm vi các dịch vụ giao nhận
Khi mà khái niệm “dịch vụ giao nhận” đang được hiểu theo một nghĩa
rộng hơn thì phạm vi hoạt động của người giao nhận cũng được mở rộng. Tùy
thuộc vào sự ủy thác của người gửi hày hay người nhận hàng mà người giao
nhận có thể tham gia vào nhiều khâu trong quy trình thực hiện hợp đồng. Thật ra
người giao nhận hoàn toàn có thể trực tiếp hoàn thành các công việc trong quy
trình đó hoặc cũng có thể ủy nhiệm cho đại lý hay người thứ ba thực hiện. Vào
khoảng những năm gần đây, người giao nhận còn cung cấp them cả dịch vụ vận
tải đa phương thức, họ có vai trò là MTO (Multimodal Transport Operator) và
đồng thời phát hành chứng từ vận tải đa phương thức.
9
Những dịch vụ mà người giao nhận thường tiến hành là:
- Chuẩn bị hàng hóa để chuyên chở: gom hàng, nhận hàng từ chủ hàng,
giao cho người chuyên chở, nhận hàng từ người chuyên chở rồi giao cho người
nhận hàng, đồng thời làm mọi thủ tục như gửi hàng, nhận hàng, đóng gói bao bì,
lưu kho, bảo quản, kiểm tra các chứng từ cần thiết.
- Tổ chức chuyên chở hàng hóa, lựa chọn tuyến đường vận tải cũng như
phương thức vận tải và người chuyên chở phù hợp, làm công tác tư vấn cho chủ
hàng.
- Làm thủ tục nhận hàng, gửi hàng
- Làm thủ tục hải quan, kiểm tra
- Mua bảo hiểm cho hàng hóa
- Lập các chứng từ có liên quan đến hàng hóa trong quá trình vận chuyển
- Thanh toán, thu đổi ngoại tệ
- Nhận hàng từ chủ hàng, giao cho người chuyên chở và giao cho người
nhận

- Thu xếp và chuyển tải hàng hóa
- Nhận hàng từ người chuyên chở và giao cho người nhận
- Đóng gói bao bì, phân loại, tái chế hàng hóa
- Lưu kho, bảo quản hàng hóa
- Nhận và kiểm tra các chứng từ liên quan đến quá trình vận chuyển
- Thanh toán cước phí, chi phí xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi…
- Nắm bắt và thông báo tình hình đi lại của phương tiện vận tải
- Thông báo tổn thất với người chuyên chở
- Giúp chủ hàng trong việc khiếu nại, đòi bồi thường.
Ngoài ra, người giao nhận còn cung cấp các dịch vụ đặc biệt theo yêu cầu
của chủ hàng như: vận chuyển máy móc thiết bị cho các công trình xây dựng
lớn, vận chuyển quần áo may sẵn trong các container đến thẳng cửa hàng, vận
chuyển hàng triển lãm ra nước ngoài…
1.1.4. Mối quan hệ của người giao nhận với các bên
Bởi tính chất nghề nghiệp cũng như quy mô hoạt động rộng rãi trên toàn
thế giới nên mối quan hệ của người giao nhận cũng ngày một rộng rãi và mở
rộng hơn:
 Chính phủ và các chức trách khác
Trong lĩnh vực giao nhân, người giao nhận phải làm việc với các cơ quan
10
như:
- Hải quan: đây là cơ quan mà người giao nhận phải thực hiện nghĩa vụ
khai báo và nộp thuế.
- An ninh sân bay: thực hiện nghĩa vụ cân hàng, soi hàng.
- Ngân hàng: đóng vai trị là người bảo lãnh, người trung gian trong việc
thanh toán với người nhập khẩu.
- Bộ Y tế, Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Môi trường: xin cấp các giấy
phép, giấy chứng nhận…
- Tòa lãnh sự: xin giấy chứng nhận xuất xứ.
- Cơ quan kiểm soát xuất nhập khẩu.

 Các bên tư nhân
- Chủ tàu: là người thực hiện việc chuyên chở hàng hóa cho người xuất
nhập khẩu.
- Người kinh doanh vận tải đường bộ
- Bên thực hiện việc đóng gói bao bì
- Nguồn lưu giữ kho hàng
- Cơ quan bảo hiểm
 Người bảo hiểm trách nhiệm
Người giao nhận dễ gặp rủi ro ngay cả khi hoạt động với tư cách là đại lý
và ngay cả khi là người ủy thác. Người giao nhận phải chịu những trách nhiệm
tùy thuộc vào phạm vi hoạt động mà người giao nhận làm.
Thông thường người giao nhận không chịu trách nhiệm đối với những
hành động hay sai sót của bên thứ ba, chẳng hạn như người chuyên chở hay
người giao nhận khác… miễn là người giao nhận đã có sự cần mẫn hợp lý khi
lựa chọn bên thứ ba đó.
Trách nhiệm của người giao nhận với tư cách là người ủy thác: là người
ủy thác, người giao nhận không những chịu trách nhiệm đối với lỗi của bản thân
mình mà cả những lỗi lầm của người làm công của mình nữa.
Có ba loại bảo hiểm trách nhiệm sau:
- Bảo hiểm trách nhiệm hữu hạn: dựa vào cơ sở các điều khoản kinh
doanh tiêu chuẩn quy định giới hạn trách nhiệm của người giao nhận, người giao
nhận có quyền lựa chọn chỉ mua bảo hiểm cho trách nhiệm đó. Người giao nhận
còn có quyền chấp nhận một mức miễn bồi thường cho người bảo hiểm và người
giao nhận phải tự bảo hiểm cho họ phần tổn thất dưới mức này. Người bảo hiểm
11
cũng có thể tạo cách giảm chi phí bảo hiểm cho mình bằng việc hạ thấp giới hạn
bảo hiểm của mình, giới hạn này chỉ hợp lý khi nó căn cứ vào kinh nghiệm về
những khiếu nại mà người giao nhận đã gặp phải, song có nguy cơ là người giao
nhận phải chịu trách nhiệm nặng nề do bị khiếu nại lớn vượt qua giới hạn bảo
hiểm trên.

- Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý đầy đủ: người giao nhận hoạt động trên
cơ sở các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn đã quy định giới hạn trách nhiệm của
mình có quyền hay chỉ bảo hiểm trách nhiệm hữu hạn hay bảo hiểm trách nhiệm
pháp lý đầy đủ và tốt nhất người giao nhận nên bảo hiểm trách nhiệm pháp lý
đầy đủ
- Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý tột đỉnh (top up): loại này dùng cho khách
hàng mua bảo hiểm trong trường hợp trách nhiệm của người nhận vượt quá
những giới hạn đã nêu trên bằng cách trả cho người bảo hiểm hàng hóa phụ phí
bảo hiểm. Mặc dù kiểu bảo hiểm này thuận lợi cho cả người giao nhận và khách
hàng, song dường như chỉ phổ biến ở Châu Âu.
1.2. Các tổ chức giao nhận trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tổ chức các cơ quan giao nhận trên thế giới
Vào những năm 1522 tại Badiley- Thụy Sĩ, hãng giao nhận đầu tiên trên
thế giới đã xuất hiện với tên gọi là E.Vasnai, đây là doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực vận tải, giao nhận và thu phí rất cao, tầm khoảng 1/3 giá trị của
hàng hóa.
Song song với sự phát triển không ngừng của vận tải và buôn bán quốc tế,
giao nhận đã sớm trở thành một ngành kinh doanh độc lập, tách riêng ra khỏi
vận tải và buôn bán. Và trong thời kỳ đó, đặc điểm chính của tổ chức này là:
- Đa số các tổ chức đều là các công ty tư nhân
- Hầu như các hãng đều kinh doanh giao nhận tổng hợp
- Chuyên môn hóa về giao nhận theo từng lĩnh vực như mặt hàng, khu
vực địa lý…
- Các hãng, công ty thường có sự kết hợp giữa giao nhận nội địa và quốc tế
- Có sự cạnh tranh gay gắt giữa các bên
12
Chính vì yếu tố cạnh tranh gay gắt giữa các hãng mà dần dần đã dẫn đến
sự ra đời của các Hiệp hội giao nhận trong những phạm vi khác nhau như: trong
một cảng, một khu vực hay một quốc gia. Bên cạnh đó trên phạm vi quốc tế
cũng hình thành các Liên đoàn giao nhận như: Liên đoàn những người giao nhận

Bỉ, Hà Lan, Mỹ… và rộng rãi hơn cả là Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao
nhận FIATA.
1.2.2. Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA)
Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA) là một tổ chức giao
nhận vận tải lớn nhất trên thế giới và được thành lập vào năm 1926. FIATA là
một tổ chức tự nguyện phi chính trị, đó là đại diện của 35.000 công ty giao nhận
trên 130 quốc gia, trong đó thành viên của FIATA là các hội viên chính thức
(Ordinnary Members) và hội viên hợp tác (Associated Members). Hội viên
chính thức là Liên đoàn giao nhận của các nước, còn hội viên hợp tác là của các
công ty giao nhận riêng lẻ.
FIATA cũng được các tổ chức liên đoàn đến buôn bán và vận tải như:
Phòng thương mại quốc tế, Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế (IATA),
các tổ chức của người chuyên chở và chủ hàng thừa nhận.
FIATA được sự thừa nhận của các cơ quan Liên hiệp quốc như: Hội đồng
kinh tế- xã hội Liên Hiệp Quốc (ECOSOC), Hội nghị của Liên hiệp quốc về
thương mại và phát triển (UNCTAD), Ủy ban Châu Âu của Liên hiệp quốc
(ECE) và ESCAP…
Mục tiêu chính của FIATA là tăng cường và bảo vệ lợi ích của người giao
nhận trên phạm vi quốc tế, tuyên truyền các dịch vụ vận tải, nâng cao chất lượng
dịch vụ giao nhận, liên kết nghề nghiệp, xúc tiến quá trình đơn giản hóa và
thống nhất chứng từ và các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn nhằm cải tiến chất
lượng dịch vụ của các hội viên, đào tạo nghiệp vụ với trình độ quốc tế, đẩy
mạnh mối quan hệ hợp tác với các tổ chức giao nhận với chủ hàng và người
13
chuyên chở.
FIATA có phạm vi hoạt động rất rộng, thông qua hoạt động của hàng loạt
các Tiểu ban:
- Tiểu ban nghiên cứu về kỹ thuận vận chuyển đường ô tô, đường sắt,
đường hàng không…
- Tiểu ban đào tạo nghề nghiệp

- Tiểu ban về các quan hệ xã hội
- Tiểu ban luật pháp, chứng từ và bảo hiểm
- Tiểu ban về hải quan
- Ủy ban về vận chuyển đường biển và vận tải đa phương thức
- Ủy ban về đơn giản hóa thủ tục buôn bán
Ở Việt Nam hiện nay cũng có rất nhiều những công ty giao nhận đã tham
gia và trở thành thành viên chính thức của FIATA.
1.2.3. Các công ty giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Vào khoảng những năm 1960, hầu như các tổ chức giao nhận ở Việt Nam
đề có tính chất phân tán. Các công ty xuất nhập khẩu đã thành lập riêng phòng
kho vận, chi nhánh xuất nhập khẩu, trạm giao nhận ở các cảng, ga, đường sắt
liên vận do các đơn vị xuất nhập khẩu tự đảm nhận việt tổ chức chuyên chở
hàng hóa của mình.
Năm 1970, Bộ Ngoại thương ( nay là Bộ Thương mại) đã thành lập hai tổ
chức giao nhận nhằm tập trung đầu mối quản lý, chuyên môn hóa khâu vận tải,
giao nhận. Hai tổ chức đó là:
- Công ty giao nhận đường bộ, trụ sở ở Hà Nội.
- Cục kho vận kiêm Tổng công ty giao nhận Ngoại thương, trụ
sở ở Hải Phòng.
Sau đó, Bộ Ngoại thương đã sát nhập hai tổ chức trên vào năm 1976 để
thành lập một Công ty giao nhận thống nhất là Tổng công ty giao nhận và kho
vận ngoại thương (Vietrans). Vào thời gian đó, Công ty Vietrans là công ty duy
nhất của Việt Nam được cấp phép thực hiện giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu
dưới sự ủy nhiệm của các đơn vị xuất nhập khẩu.
Sau này khi nước ta đã dần chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự điều
tiết của Nhà nước, chính vì vậy mà Vietrans không còn độc quyền trong dịch vụ
14
giao nhận hàng hóa nữa mà do nhiều cơ quan khác tham gia thậm chí nhiều chủ
hàng còn kiêm luôn cả lĩnh vực giao nhận.
Trong những năm gần đây, với sự phát triển không ngừng của dịch vụ

giao nhận, và để nâng cao hơn nữa thị trường giao nhận đồng thời bảo vệ quyền
lợi của các nhà giao nhận mà Hiệp hội giao nhận Kho vận Việt Nam (VIFFAS)
vào năm 1994 đã được thành lập và ngay trong năm đó, Hiệp hội đã trở thành
một hội viên chính thức của FIATA. Tính cho đến nay, VIFFAS đã tròn 19
tuổi, bao gồm trên 150 thành viên, đại diện 15% số doanh nghiệp trong ngành về
lượng (khoảng 1.000 doanh nghiệp trên cả nước), nhưng ước 50% đại diện về
vốn kinh doanh và quy tụ 40% nhân lực của ngành. VIFFAS đã xác lập hình ảnh
và nêu cao vai trò, kết nối ngành nghề trong và ngoài nước, là chỗ dựa của các
thành viên và là cầu nối với các cơ quan quản lý Nhà nước.
1.3. Vài nét hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam
1.3.1. Hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu trước năm 1986
1.3.1.1. Khái quát chung về ngành giao nhận vận tải.
Ở Việt Nam, ngành giao nhận vận tải được coi là còn khá non trẻ, ngành
này ra đời vào những năm 1975-1976, khi đội tàu viễn dương bắt đầu những con
tàu lớn được trang bị hiện đại để có thể đảm nhận việc chuyên chở hàng hóa
xuất nhập khẩu.
Vào những ngày đầu khi cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng về lĩnh vực giao
nhận vận tải còn yếu kém. Vận tải biển ngoại thương thời kỳ này chủ yếu là vận
tải cận dương, một số tuyến đường chủ yếu là sang các nước thuộc khối Xã hội
Chủ Nghĩa cũ (Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc) và các nước Đông Nam Á
(Bangkok- Nhật Bản, Bangkok- Philippin, Nhật Bản- Bangladest) chủ yếu là do
hệ thống các cảng biển với một số cảng lớn như Hải Phòng, Sài Gòn trang bị kỹ
thuật còn sơ sài, xếp dỡ chủ yếu bằng phương pháp thủ công, đội tàu chuyên chở
nhỏ bé, cũ kỹ… Ngoài ra, đội tàu buôn của nước ta chỉ chuyên vận tải những
mặt hàng nguyên liệu như than, quặng… với khối lượng chuyên chở thấp, phải
dung cờ tàu nước ngoài để hoạt động trên các tuyến vận tải quốc tế và cập cấc
15
cảng nước ngoài. Vào giai đoạn này, hoạt động chính của giao nhận vận tải là
chở hàng thuê và cho nước ngoài thuê tàu. Nói tóm lại, thực trang xảy ra lúc này
nguyên nhân trực tiếp là do nền kinh tế Việt Nam thời đó còn yếu kém và chậm

phát triển.
1.3.1.2. Thực trạng hoạt động giao nhận vận tải
Từ những điều nêu trên, có thể nhận thấy rõ giao nhận vận tải thời kỳ này
không có đủ điều kiện phát triển với môi trường sống là hoạt động giao lưu kinh
tế với nước ngoài nói chung và ngành vận tải ngoại thương nói riêng. Cụ thể
hoạt động giai đoạn này có một số nét tiêu biểu như sau:
- Cơ quan duy nhất của Nhà nước được phép giao nhận hàng hóa xuất
nhập khẩu trên cơ sở ủy thác của các đơn vị xuất nhập khẩu là Tổng công ty
giao nhận và kho vận ngoại thương (Vietrans). Chính vì thế, có thể nói ngành
kinh doanh này bấy giờ mang tính chất độc quyền dưới sự bao cấp của Nhà
nước. Cạnh tranh hầu như không có nên không thúc đấy sự phát triển của toàn
ngành.
- Giao nhận vận tải chưa có hình hài rõ nét của một ngành kinh doanh
dịch vụ độc lập, mọi hoạt động mang tính chất phân tán. Phần lớn các đơn vị
xuất nhập khẩu tự thành lập riêng phòng kho vận, trạm giao nhận ở các cảng ga
hoặc cán bộ phụ trách giao nhận.
Do các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chưa thực sự quen với việc sử dụng
dịch vụ của hãng giao nhận thay vì đứng ra thực hiện công tác giao nhận cho
nên hoạt động của Vietrans cũng không sôi động và tấp nập. Bên cạnh đó, xuất
hiện thêm Công ty vận tải và thuê tàu (Vietracht) cũng tham gia vào lĩnh vực
này trong khoảng đầu những năm 1980.
- Khối lượng và chủng loại các mặt hàng giao nhận kém, các tuyến
đường chuyên chở đơn điệu. Đây cũng là một hậu quả dây chuyền do thực trạng
chung của ngành giao nhận vận tải.
- Các công việc giao nhận ngoại thương chủ yếu là các nghiệp vụ đơn
giản gần với khái niệm tiếp vận hàng hóa xuất nhập khẩu, tức là tổ chức nhận và
16
gửi hàng ở cảng, sân bay, lo liệu các thủ tục xuất nhập khẩu và thủ tục hải quan,
vận chuyển nội địa, lưu kho, lưu bãi… Các nghiệp vụ tổ chức cả quá trình
chuyên chở hàng viễn dương hầu như không phát triển mà việc này do các hãng

tàu biển và các hãng hàng không đảm nhiệm.
- Nhìn chung cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các nghiệp vụ của giao nhận
ngoại thương Việt Nam lúc này khá là lạc hậu và chỉ phát triển như giai đoạn
đầu của ngành giao nhận thế giới. Người giao nhận chưa có chức năng và vai trò
hoàn thiện và chưa phát huy được hết khả năng, cùng với nó ngành giao nhận
cũng chưa có vai trò lớn trong các loại hình kinh doanh dịch vụ vận tải như chỗ
đứng thực sự cua rnos trên thị trường vận tải lúc bấy giờ.
1.3.2. Ngành giao nhận vận tải chuyển mình với xu hướng mở cửa và hội
nhập kinh tế
1.3.2.1. Những tiền đề của sự phát triển
 Bối cảnh nền kinh tế có những thay đổi thuận lợi:
Bằng việc thông qua Đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986, Nhà nước đã thực
hiện các chính sách mở cửa nền kinh tế, nhờ đó đã thổi một luồng sinh khí mới
cho hoạt động kinh tế của đất nước.
Thực tế cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã có những biến động to lớn vào
khoảng thời gian cuối những năm 80, đầu những năm 90. Hàng loạt các sự kiện
và hoạt động kinh tế quan trọng lận lượt diễn ra đã đánh dấu cho sự chuyển
mình của nền kinh tế đất nước trong đó phải kể đến việc Việt Nam tham gia vào
các tổ chức khu vực và thế giới. Cụ thể là Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của ASEAN và đồng thời tham gia vào khu vực mậu dịch tư do ASEAN
(AFTA) năm 1995, tham gia vào diễn đàn kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
(APEC) đặc biệt là trong thời gian này Việt Nam đã nộp đơn tham gia và tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Ngoài ra, những nỗ lực để hoàn thiện cơ sở
vật chất và điều kiện kinh tế để phù hợp với không khí kinh tế sôi động chung
như: hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài để thu hút vốn bên ngoài, tiêu chuẩn hóa
hệ thống thuế và thủ tục hải quan để tiến tới thực thi chương trình CEPT…
17
Đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng đó là việc Mỹ bỏ cấm vận kinh tế đối
với Việt Nam năm 1995 và việc xúc tiến đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế
thương mại với Mỹ mà minh chứng rõ nét là Hiệp định thương Việt- Mỹ. Bên

cạnh đó, Việt Nam còn tiếp tục tham gia các cuộc gặp gỡ Á- Âu (ASEM) và ký
kết các hiệp định song phương về hợp tác kinh tế vùng, tiểu vùng, khu vực và
toàn cầu.
Một trong những lý do quan trọng thúc đẩy các hoạt động của các ngành
kinh tế trở nên sôi động hơn đặc biệt là sự sôi động chưa từng có của thương
mại và buôn bán quốc tế đó là môi trường kinh tế được cải thiện, quan hệ
thương mại hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng. Cơ hội tìm kiếm thị
trường mới, các bạn hàng và hợp đồng mới, các điều kiện và phương thức buôn
bán quốc tế ngày càng thông thoáng và phong phú làm cho khối lượng hàng hóa
lưu chuyển giữa Việt Nam và thế giới không ngưng tăng lên.
 Những thay đổi trong ngành vận tải
Hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng nhộn nhịp hơn đã tạo điều kiện cho
sự phát triển của ngành giao nhận vận tải. Song song với sự tăng trưởng về hàng
hóa chuyên chở, nhu cầu đa dạng hóa các phương thức vận tải, hiện đại và tiêu
chuẩn hóa dịch vụ vận tải cũng tăng lên nhằm đáp ứng nhu cầu về một dịch vụ
chất lượng cao của các khách hàng trong nước và quốc tế, đồng thời bắt kịp và
hội nhập với nền vận tải thế giới đã phát triển từ lâu đời, đi trước chúng ta hàng
chục năm.
Biểu đồ 1.1: Sản lượng hàng hóa qua cảng Hải Phòng
Đơn vị: Việt nam đồng
18
Biểu đồ 1.2: Sản lượng container
Hệ thống các cảng biển và cảng hàng không đều được mở rộng, nâng cấp,
lắp đặt trang thiết bị hiện đại toàn diện, cơ sở hạ tầng của ngành vận tải có sự cải
thiện đáng kể. Các hãng, đội tàu ở Việt Nam cũng được cải thiện đáng kể nhờ
dựa vào sự củng cố về kinh nghiệm cũng như sự liên kết với với cách hãng nước
19
ngoài. Theo số liệu thống kê trên có thể thấy, nhờ sự cải thiện tích tực kể trên
mà hàng năm đều có sự tăng trưởng về cả khối lượng hàng và cả tuyến đường
chuyên chở.

Từ những năm 1980, việc áp dụng container vào chuyên chở hàng hóa
xuất nhập khẩu đã được áp dụng rộng rãi lần đầu tiên ở Việt Nam. Kết quả này
có được là nhờ việc đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế đối ngoại cũng như hiện
đại hóa các quy trình tổ chức vận tải. Đó là hội tụ đầy đủ các điều kiện cần thiết
để vận tải container phát triển tại Việt Nam.
Với sự xuất hiện và ngày càng lan rộng, việc sử dụng container trong
ngành vận tải Việt Nam đã thúc đẩy việc thực hiện phương thức tổ chức vận tải
mới- một hệ thống vận tải từ cửa đến cửa (door to door) cùng sự kết hợp của
nhiều phương thức vận tải (đường biển, đường hàng không, đường ô tô…) –
chính là vận tải đa phương thức, nó khiến việc chuyên chở hàng hóa ngày một
phong phú và đa dạng hơn, làm ngành dịch vụ giao nhận vận tải trở nên cạnh
tranh và nóng hơn bao giờ hết. Thời điểm này chính là thời điểm hội tụ đủ điều
kiện cho sự nhìn nhận và phát triển thực sự của ngành giao nhận vận tải như một
loại hình kinh doanh dịch vụ vận tải mới mẻ.
1.3.2.2. Một số đặc điểm nổi bật của giao nhận hàng hóa xuất nhập
khẩu hiện nay
Cho đến nay đã có hàng trăm hãng giao nhận gồm cả công ty Nhà nước,
cổ phần, tư nhân và cả nước ngoài, trong đó một số công ty đã trở nên thực sự
lớn mạnh với quy mô hoạt động vô cùng rộng nhằm phát huy mọi sở trường của
người giao nhận.
Việc tạo ra sự biến chuyển to lớn trong lĩnh vực này là do sự tham gia
ngày càng sâu rộng của các hãng giao nhận quốc tế vào dịch vụ vận tải Việt
Nam. Đặc biệt là hàng loạt các công ty giao nhận nổi tiếng trên thế giới như
Schenker, Birkart, Danzas… đã mở văn phòng đại diện tại Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh.
20
Biểu đồ 1.3: Cơ cấu thành phần kinh tế kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng
hóa xuất nhập khẩu
Đơn vị: %
Hầu hết các hãng giao nhận Việt Nam hiện nay không chỉ đơn thuần cung

cấp những dịch vụ riêng lẻ theo sự ủy thác của khách hàng và hưởng hoa hồng
đại lý và đều tập trung phát triển và đẩy mạnh hoạt động của mình trong chức
năng cung cấp dịch vụ vận tải bằng mọi phương thức: đường biển, đường hàng
không và vận tải đa phương thức.
Phần lớn các hãng giao nhận tại Việt nam kinh doanh giao nhận tổng hợp
nhưng chưa có hãng nào đủ lớn mạnh để mở rộng phạm vi hơn nữa cung cấp
dịch vụ của mình mà có sự chuyên môn hóa về từng loại hàng và theo từng khu
vực địa lý.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT
NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TNHH TIẾP VẬN MERCURY
2.1. Tổng quan về công ty TNHH Tiếp vận Mercury
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Mercury
21
Tân công ty: Công ty TNHH Tiếp vận Mercury
Tên giao dịch: Mercury Logistics Vietnam Company Limited
(Mercury Logistics Co, LTD )
Địa chỉ: 28 Vũ Phạm Hàm, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: 04. 37622823/24 Fax: 04. 37622825
Website: www.mercurylogs.co
– Email:

Công ty TNHH Tiếp Vận Mercury là đơn vị chuyên cung cấp dịch vụ tiếp
vận nội địa và quốc tế bằng đường biển, đường hàng không, đường sắt, đường
bộ và chuyển phát nhanh.
Với kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực giao nhận vận tải, công ty là
đối tác gắn bó lâu năm với các đơn vị như tập đoàn Công nghiệp Than và
Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel, tập
đoàn Xăng dầu Việt Nam, công ty CP kinh doanh Khí hóa lỏng Miền Bắc, tổng
công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama), công ty CP TM Tư vấn và Xây dựng Vĩnh

Hưng, tập đoàn Sunhouse, công ty CP Vàng bạc đá quý SJC Sài Gòn, tập đoàn
Vàng bạc đá quý Doji, tổng công ty Chè Việt Nam, công ty CP Công nghệ
AMEC, công ty CP Địa kỹ thuật Việt Nam… Từ một doanh nghiệp nhỏ, bằng
nỗ lực không ngừng của đội ngũ nhân viên giàu nhiệt huyết và tận tụy trong
công việc, Mercury đã vươn lên trở thành đơn vị giao nhận vận tải có uy tín với
mạng lưới văn phòng tại thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và Hồ Chí Minh. Công ty
cam kết mang đến cho khách hàng sự hài lòng tối đa thông qua việc đảm bảo
tiến độ giao nhận hàng hóa với chi phí hợp lý nhất. Chính vì vậy dịch vụ của
Mercury ngày càng được nhà thầu tin tưởng và lựa chọn. Doanh số toàn công ty
năm 2011 đạt trên 20 tỷ đồng và trong 3 năm liền công ty đạt tốc độ tăng trưởng
trên 200%.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ
22
2.1.2.1. Chức năng
Công ty TNHH Tiếp vận Mercury hoạt động kinh doanh thương mại dịch
vụ theo giấy phép kinh doanh trong những lĩnh vực sau:
 Những ngành nghề mà công ty hoạt động dịch vụ:
- Dịch vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu: thực hiện dịch vụ có liên
quan đến giao nhận, thuê các phương tiện vận tải, mua bảo hiểm cho hàng hoá
xuất nhập khẩu, thu gom hoặc chia hàng lẻ, thuê vỏ container, giao hàng đến tận
nơi.
- Dịch vụ uỷ thác xuất nhập khẩu: nhận uỷ thác giao nhận vận tải trong
nước và quốc tế bằng các phương tiện đường biển, đường hàng không và các
loại hình xuất nhập khẩu, hàng hội chợ, triển lãm.
- Dịch vụ khai thuê hải quan: thay mặt chủ hàng làm thủ tục hải quan, thủ
tục về cảng, giám định và dịch vụ vận chuyển hàng hoá tận nơi.
Công ty TNHH Tiếp Vận Mercury có nhiều năm kinh nghiệp xử lý các
loại hàng hóa từ loại hàng đơn giản đến phức tạp như:
- Hàng hóa thông thường (general cargo)
- Hàng thực phẩm, rau quả đông lạnh (perishable cargo)

- Hàng giá trị cao như vàng, bạc, đá quý, kim cương… (valuable cargo)
- Hàng nguy hiểm như thiết bị hạt nhân, máy móc và động cơ đã sử
dụng, ắc quy… (dangerous cargo)
- Hàng động vật sống (live animal)
- Hàng hải sản (seafood)
- Hàng rời như nông sản khô không đóng bao, sắt, thép xây dựng không
đóng container, máy móc xây dựng cồng kềnh… (bulk cargo)
- Hàng nhạy cảm như rượu, thuốc lá… (sensitive cargo)
Với đa dạng loại hình và mục đích xuất nhập khẩu như:
- Phí mậu dịch
- Mậu dịch/Thương mại
- Hành lý cá nhân
- Tài sản di chuyển
- Tạm nhập tái xuất
- Tạm xuất tái nhập
- Tạo tài sản cố định
- Dự án ODA
- Xuất nhập khẩu tại chỗ
23

×