Tải bản đầy đủ (.pdf) (668 trang)

Giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.97 MB, 668 trang )


HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH




PHNG THU HIN



Giá trị đạo đức truyền thống
với việc hình thành và phát triển nhân cách
sinh viên Việt Nam hiện nay
(qua thực tế các tr ờng Đại học, Cao đẳng ở Hà Nội)

Chuyờn ngnh : CNDVBC & CNDVLS
Mó s : 62 22 80 05




LUN N TIN S TRIT HC




Ngi hng dn khoa hc: 1. PGS, TS. NGUYN TH KIT
2. PGS, TS. NGUYN MINH HON





H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập.
Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức năng đã
công bố. Những kết luận khoa học của luận án là mới và chưa
có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.

Tác giả luận án



Phùng Thu Hiền


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
6
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đạo đức, đạo đức truyền
thống, nhân cách và tầm quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống

trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên 6
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng phát huy
giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên 18
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến phương hướng và giải pháp
nhằm phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên 21
Chương 2: NHÂN CÁCH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO
ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
26
2.1. Nhân cách và những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên 26
2.2. Giá trị đạo đức truyền thống và tầm quan trọng của nó trong việc
hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay 46
Chương 3: GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VỚI VIỆC HÌNH
THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT
NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA (QUA THỰC TẾ CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO
ĐẲNG Ở HÀ NỘI)
70
3.1. Thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên ở các trường đại học,
cao đẳng ở Hà Nội hiện nay 70
3.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát huy giá trị đạo đức
truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên Việt Nam hiện nay 93
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT HUY TỐT CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC

TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
114
4.1. Phương hướng phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong việc
hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay
114
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền
thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên
Việt Nam hiện nay 128
KẾT LUẬN
148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
152
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi con người phải biết quá khứ của mình, mỗi dân tộc phải biết lịch sử
của mình. Một dân tộc mà đánh mất quá khứ thì cũng là đánh mất chính bản
thân mình. Các giá trị văn hóa truyền thống là tài sản vô giá của dân tộc. Nó
là dòng chảy liên tục nảy sinh, tồn tại, phát triển trong suốt tiến trình dựng
nước, giữ nước và phát triển đất nước của cha ông. Đây là cơ chế tích lũy, lưu
truyền, chắt lọc, chuyển giao tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời
này sang đời khác, hình thái kinh tế - xã hội này qua hình thái kinh tế - xã hội
khác. Việc khai thác, phát huy vai trò của các giá trị văn hóa nói chung, giá trị
đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách của con người,
trong đó có sinh viên là đòi hỏi mang tính chiến lược của thời đại theo xu
hướng nhân văn hóa, là một yếu tố cơ bản để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc

trong tiến trình hội nhập và phát triển ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn động viên tuổi
trẻ phải ra sức rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập để vươn
lên xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước. Trong Di chúc để lại cho
chúng ta, Người đã dành cho thế hệ trẻ Việt Nam tình yêu thương, sự quan
tâm và niềm tin sâu sắc. Người nhận xét: “Đoàn viên và thanh niên ta nói
chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí
tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên” [152, tr.25]. Đồng thời, Người đã căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết” [152, tr.25].
Ngày nay, cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, mở rộng quan hệ quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, lối sống của
sinh viên Việt Nam đang có nhiều biến đổi. Hàng loạt các giá trị mới được hình
thành, góp phần làm đa dạng, phong phú thêm lối sống của các tầng lớp nhân
dân. Sự tác động của quá trình phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho các cá nhân, các nhóm xã hội năng động,
2

cởi mở và giàu khả năng thích nghi với những biến đổi của môi trường trong
nước và quốc tế. Giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng đã và đang tạo điều kiện
cho sinh viên tiếp thu các giá trị tốt đẹp từ lối sống của các quốc gia, dân tộc
khác để bổ sung và không ngừng hoàn thiện nhân cách, lối sống của mình.
Trong quá trình xây dựng CNXH, chúng ta đã tạo ra một thế hệ sinh
viên với những phẩm chất tốt đẹp như: bản lĩnh, tự tin, chủ động, sáng tạo,
nhanh nhạy Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu
hóa đã có ảnh hưởng tiêu cực đến lối sống, nhân cách của một bộ phận không
nhỏ thanh niên, sinh viên, làm thay đổi quan niệm của họ về các giá trị truyền
thống của dân tộc. Hiện tượng suy thoái đạo đức, lối sống trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên và sinh viên đã và đang diễn ra hết sức phức tạp. Tiêu cực

xã hội có chiều hướng gia tăng, đời sống văn hoá tinh thần, nhất là sự xuống
cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống, khuynh hướng muốn hiện đại hoá, lối sống
thực dụng, chạy theo đồng tiền, coi thường thuần phong mỹ tục, lãng quên
truyền thống cha ông để lại đã xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ trong
thanh niên, sinh viên. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế, xã hội, trong đó có
đạo đức, đang nảy sinh ngày càng nhiều vấn đề, nhiều tình huống phức tạp.
Những mất mát, lệch lạc về giá trị, lối sống, nhân cách, những hiện tượng tiêu
cực trong đời sống đạo đức xã hội, tội phạm ngày càng gia tăng, đặc biệt ở lứa
tuổi thanh thiếu niên, sinh viên đang là mối quan tâm của toàn xã hội Hơn
nữa, do đặc điểm tâm sinh lý đặc thù và còn thiếu kinh nghiệm sống, bản lĩnh
chưa thật sự vững vàng, sinh viên là tầng lớp rất nhạy cảm, dễ bị cuốn hút bởi
cái lạ, cái mới, do đó, cũng dễ rơi vào cạm bẫy của cái xấu, cái phản giá trị từ
những tác động bên ngoài. Vì vậy, trong cuộc sống hiện nay, họ thường gặp
khó khăn trong việc định hướng, phân biệt giữa cái tốt và cái xấu. Để giúp
sinh viên có bản lĩnh vững vàng, giúp họ có “sức đề kháng” trước những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường và xu thế mở cửa, hội nhập, việc phát
huy giá trị đạo đức truyền thống trong hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên hiện nay, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực của công cuộc đổi mới là việc
làm quan trọng và cần thiết. Sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội
cũng không nằm ngoài cái chung đó.
3

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn chủ đề: “Giá trị đạo đức
truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt
Nam hiện nay (qua thực tế các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội)” làm đề
tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc

phát huy giá trị đạo đức truyền thống đối với việc hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên thời gian qua, luận án đề xuất phương hướng và một số
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tốt giá trị đạo đức truyền thống để hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế các
trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội).
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài;
- Phân tích, làm rõ khái niệm nhân cách, các nhân tố tác động đến sự
hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay;
- Làm rõ giá trị đạo đức truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam, tầm quan trọng và nội dung của việc phát huy các giá trị
đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên
Việt Nam hiện nay;
- Phân tích thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam và những vấn đề đặt ra;
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tốt
giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách
sinh viên Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận án tập trung nghiên cứu giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt
Nam dưới những hình thức thể hiện khác nhau.
- Nhân cách sinh viên Việt Nam với các bộ phận hợp thành dưới tác
động của các giá trị đạo đức truyền thống.
4

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án chỉ tập trung nghiên cứu giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.
- Sinh viên là một khái niệm rộng chỉ lực lượng xã hội đông đảo ở mọi
miền đất nước, nhưng luận án chỉ giới hạn nghiên cứu sinh viên ở các trường

đại học và cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội; số liệu khảo sát chủ yếu
từ năm 1986 đến nay.
- Khi phân tích thực trạng, luận án không xem xét một cách tổng thể, mà
đi vào xem xét việc phát huy từng khía cạnh giá trị đạo đức truyền thống
trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống, về con
người và nhân cách.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp các phương
pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử - lôgíc, phương pháp hệ thống, điều tra xã
hội học, so sánh, để làm rõ các nội dung mà luận án đề cập.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ tầm quan trọng và nội dung của việc phát
huy các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích, chỉ rõ thực trạng việc phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện
nay và những vấn đề nảy sinh từ thực trạng đó.
- Đề xuất các phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
tốt các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần vào việc đưa ra những luận cứ khoa học để nâng cao hiệu

quả phát huy tốt các giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Những vấn đề mà luận án đề cập và giải quyết góp phần vào việc hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các
tổ chức, đoàn thể, cá nhân trực tiếp làm công tác bồi dưỡng, giáo dục sinh viên.
- Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai nghiên
cứu giảng dạy và cả những ai quan tâm đến vấn đề giá trị đạo đức truyền
thống, phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chương, 9 tiết.






6

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Đạo đức, giáo dục đạo đức luôn gắn liền với tư tưởng về con người, về
nhân cách con người trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại và đã được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Những công
trình nghiên cứu khoa học đó tồn tại dưới các hình thức đề tài khoa học, luận
án, luận văn, sách, tạp chí, báo. Qua các công trình đã công bố, chúng tôi có
thể khái quát như sau:

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐẠO ĐỨC, ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG, NHÂN CÁCH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁ TRỊ ĐẠO
ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN
CÁCH SINH VIÊN
- Trong các tác phẩm: “Lời nói đầu phê phán triết học pháp luật của
Hêghen”, “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”,
“Chống Đuyrinh” [122]…đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định đạo đức là sản phẩm của điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Ý thức đạo đức là sản phẩm của những
hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, nó phản ánh thực tiễn đạo đức của xã hội,
“xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là
sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã
hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn
luôn là đạo đức của giai cấp” [122, tr.137]. Trong đó, nhân tố quy định đạo
đức là các quan hệ kinh tế mà lợi ích là cái chi phối trực tiếp, là cơ sở khách
quan của đạo đức. Các ông đã kiên quyết gạt bỏ những học thuyết đạo đức có
tính chất duy tâm, tôn giáo, phi lịch sử. Các khái niệm, phạm trù đạo đức
được sử dụng trong tác phẩm như: thiện, ác, lương tâm, danh dự, vị tha, vị
kỷ… đã được C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa, lọc bỏ những nội dung có tính
chất duy tâm, tôn giáo…, đem lại cho chúng những nội dung mới, đặt nền
tảng cho một nền đạo đức khoa học - đạo đức cộng sản.
7

V.I.Lênin trong công trình nghiên cứu của mình đã viết: “Đạo đức giúp
cho xã hội loài người tiến lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [103,
tr.371]. Như vậy, theo quan điểm mácxít, đạo đức không phải xuất hiện từ
bên ngoài xã hội. Sự xuất hiện của đạo đức là do nhu cầu khách quan của sự
phát triển nhận thức, của đời sống xã hội, mà trước hết là do nhu cầu liên kết
giữa con người với nhau trong lao động sản xuất, trong đấu tranh… Vì thế,
“đối với chúng ta, đạo đức ở ngoài xã hội loài người thì không thể có được;

đó là lừa bịp” [103, tr.368].
Trên nền tảng phương pháp luận Mác-Lênin, đã xuất hiện các công
trình khoa học về đạo đức, cả trong và ngoài nước.
Trong rất nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói chuyện của mình, Hồ Chí
Minh luôn nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của đạo đức và việc giáo dục
đạo đức đối với việc hình thành, phát triển và bồi dưỡng nhân cách. Trong đó,
nổi bật nhất là tác phẩm “Đường cách mệnh” được Hồ Chí Minh viết năm
1927, là cuốn sách bồi dưỡng cho lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt
Nam đi theo học thuyết Mác - Lênin và con đường của Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại - con đường cách mạng vô sản mà Người đã lựa chọn.
Mở đầu cuốn sách - bài nói về “Tư cách một người cách mệnh”, Hồ Chí
Minh đã nêu lên một quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí. Vì khi
đã có “cái trí” thì “cái đức” chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ
vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo. Những
khái niệm như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính… đã có trong
Nho giáo từ mấy trăm năm trước trước công nguyên; khái niệm dân chủ, tự
do, công bằng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ đại Hy Lạp - La Mã, chúng đã bị
xuyên tạc trong nhiều thế kỷ qua, nhưng Hồ Chí Minh đã đưa vào đó những
nội dung mới, đồng thời, bổ sung những khái niệm, những phạm trù đạo đức
của thời đại mới. Vì vậy, những giá trị đạo đức mới đã được hoà nhập với
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Hơn nữa, những giá trị đạo
đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao mới.
- Tác phẩm “Giáo dục con người chân chính như thế nào?” của
V.A.Xukhômlinxki [198], dưới hình thức những lời khuyên bảo của nhà giáo
8

dục với trẻ em, thanh thiếu niên và những lời của tác giả nói với các nhà giáo
dục, trước hết là với các thầy giáo, cô giáo. V.A.Xu-khôm-lin-xki trình bày
một cách cụ thể, sinh động, hấp dẫn các phạm trù đạo đức, các nguyên tắc và
chuẩn mực đạo đức cùng phương pháp hình thành chúng trong học sinh. Giáo

dục cho học sinh biết sống đúng, hành động đúng, có thái độ đúng đối với bản
thân và đối với người khác. “Muốn cho lý tưởng đạo đức trở thành hiện thực,
cần dạy cho con người biết sống đúng, hành động đúng, có thái độ đúng đối
với bản thân và đối với người khác” [198, tr.17].
V.A.Xukhômlinxki đã nhấn mạnh giáo dục đạo lý làm người như một
điều hệ trọng bậc nhất, đối với thế hệ trẻ, từ trẻ thơ trong giáo dục mầm non
đến thanh thiếu niên trong giáo dục phổ thông và đại học. Điều hệ trọng ấy
chính là làm cho mỗi con người, từ khi còn là một đứa trẻ đến khi trưởng
thành, khôn lớn và vào đời, trong trái tim và tâm hồn của nó luôn luôn nảy nở
những tình cảm cao thượng, đẹp đẽ, hướng tới những gì tốt đẹp nhất của con
người và cuộc sống, để làm cho con người có “khát vọng nhìn thấy vẻ đẹp của
con người và của tâm hồn con người, củng cố cái đẹp trong bản thân mình,
khinh ghét sự hèn nhát, sự yếu đuối và sự nhu nhược” [198, tr.470]. Lòng
nhân hậu, vị tha là cội nguồn và là nền tảng vững chắc của những tình cảm
đẹp đẽ ấy, mà thiếu nó, con người không thể có được đời sống tinh thần
phong phú, sự nhạy cảm và tâm hồn dễ xúc động trước những cuộc đời và số
phận con người. Đó là sự quên mình, là làm cho đứa trẻ sớm biết quan tâm tới
những niềm vui và nỗi đau của người khác, rằng nó cần phải sống tốt đẹp,
lương thiện và tử tế, vì nó cần cho những người khác, nó sống vì người khác.
Đó là chỗ sâu sắc nhất của nhân tính. Phát triển và hoàn thiện nhân tính, đó là
chức năng cơ bản của giáo dục đạo đức. Vì thế, văn hóa đạo đức trở thành
thước đo hàng đầu về văn hóa làm người của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, tác giả
cũng đã nhấn mạnh về vai trò của người giáo viên - với tư cách là một nhà
giáo dục khi và chỉ khi họ “nắm vững công cụ giáo dục vô cùng tinh tế là
khoa học về đạo đức - đạo đức học. Đạo đức học trong trường phổ thông - đó
là “triết học thực hành về giáo dục” [198, tr.17].
9

- Cuốn sách: “Đạo đức học” của tác giả G.Bandzeladze [9], đã phân
tích và luận giải về vai trò của đạo đức, làm sáng tỏ nhiều hiện tượng đạo đức

xã hội cũng như mối quan hệ giữa đạo đức với “tính người” của con người.
Trong đó, ông nhấn mạnh đến đặc trưng của đạo đức: “Đạo đức của con
người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã
hội” [9, tr.48]. Và ông coi “đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện
sự quan tâm tự nguyện tự giác của những con người trong quan hệ với nhau
và trong quan hệ với xã hội nói chung” [9, tr.104]. Căn cứ vào sự phân tích
quan hệ giữa đạo đức và chính trị, pháp lý, nghệ thuật…, G.Bandzeladze chỉ
rõ những đặc điểm cụ thể của nội dung đạo đức, từ đó khẳng định: đạo đức là
đặc trưng bản tính của con người, chỉ con người mới có đạo đức, do đó nó
không thể không phản ánh những đặc trưng của bản tính người (hiểu theo
nghĩa bản chất tiêu biểu và tốt đẹp nhất của con người). Theo ông, đạo đức
bắt nguồn từ chỗ con người quan hệ với người khác như quan hệ với chính
mình. Trong quan hệ với mình, con người không thể nào tư lợi thì trong quan
hệ đạo đức với người khác, con người cũng không thể tư lợi. Do đó, đặc trưng
cơ bản nhất, bản chất nhất của đạo đức là “chí công vô tư”; “Bản chất của đạo
đức là sự quan tâm tự giác của những con người đến lợi ích của nhau, đến lợi
ích của xã hội. Khác với hành động bản năng của loài vật, hành vi đạo đức là
ở chỗ: sự quan tâm tự giác đến hạnh phúc của những người khác có tính chất
tự nguyện” [9, tr.104].
- Trong cuốn sách: “Triết học xã hội” của A.G.Xpirkin [196], đã khẳng
định đạo đức là: “Hệ thống những chuẩn mực xã hội điều chỉnh sự giao tiếp
giữa các cá nhân và hành vi con người nhằm bảo đảm sự thống nhất lợi ích
của cá nhân và tập thể” [196, tr.84]. Với quan niệm như vậy, đạo đức chính là
“công cụ” để điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với con người, nhằm
tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích giữa cá nhân với cá nhân và
giữa cá nhân với xã hội.
- Trong cuốn “Giáo trình đạo đức học” của Nguyễn Ngọc Long và
Nguyễn Thế Kiệt [112], đã định nghĩa một cách khái quát: “Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã
10


hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [112, tr.8]. Đạo đức là một
trong những hình thái ý thức xã hội, đạo đức nảy sinh từ tồn tại xã hội, nó
phản ánh tồn tại xã hội về lĩnh vực đạo đức. Đặc trưng cơ bản của đạo đức là
ý thức, năng lực, hành vi tự nguyện, tự giác của con người đối với con người
và đối với xã hội. Nó có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của con
người thông qua các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức làm cho cá nhân và xã
hội cùng tồn tại, phát triển, đảm bảo được quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã
hội, giúp cho con người hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.
- “Giáo trình đạo đức học” của tác giả Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị
Thọ [168], đã trình bày xuất phát từ việc đánh giá vai trò, chức năng của đạo
đức đối với sự phát triển của xã hội, vấn đề giáo dục đạo đức được đặt ra từ
rất sớm trong lịch sử và luôn được mọi giai cấp, mọi xã hội, mọi thời đại quan
tâm. Đặc biệt, trong điều kiện đổi mới đất nước ta hiện nay, việc giáo dục lối
sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của chính mình,
có ý thức bảo vệ thành quả của lao động, chăm lo lợi ích của cộng đồng, tránh
lối sống ích kỷ, thực dụng, ăn bám, dối trá, chạy theo đồng tiền bất chính có
vai trò quan trọng.
- Cuốn sách: “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay” của các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc
[27], các tác giả chỉ rõ mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là đã tạo ra
những điều kiện tối ưu cho sự phát triển, song mặt khác kinh tế thị trường đã
có những tác động tiêu cực nhất định tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc
biệt là lĩnh vực đạo đức. Vì vậy, để lý giải rõ những vấn đề đạo đức nảy sinh
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, cần phải
thấy rõ vai trò của đạo đức với tư cách là động lực tinh thần của sự phát triển
kinh tế - xã hội, để từ đó xây dựng đạo đức phù hợp với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Cuốn sách: “Mấy vấn đề về đạo đức học mácxít và xây dựng đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
11

Thế Kiệt [93], đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về đạo đức như: Đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội, quy luật vận động và phát triển của đạo
đức; Đạo đức mới, vai trò và các nguyên tắc của đạo đức mới (đạo đức xã hội
chủ nghĩa); Xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay.
- Cuốn sách “Tập bài giảng đạo đức học” của tác giả Phạm Văn Chung
[29], đã góp phần làm sáng tỏ và cụ thể hơn về lịch sử, lý luận và thực tiễn
những vấn đề, nội dung đạo đức cơ bản, quan trọng vốn được nêu lên và giải
đáp trong lịch sử và lý luận đạo đức như: bản chất, tính chất, nguồn gốc, cơ sở
của đạo đức, của các phạm trù: thiện, ác, hạnh phúc, lương tâm, nghĩa vụ, lẽ
sống. Tác giả đã xem xét mối liên hệ bên trong giữa các phạm trù, quan niệm
đạo đức học theo một trình tự nhất định trong hệ thống của chúng và cuối mỗi
bài thường có sự nhận định về vị trí và ý nghĩa của mỗi phạm trù, quan niệm
sau này.
- Luận án tiến sỹ triết học: “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Trần
Sỹ Phán [157], đã làm sáng tỏ thực chất, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của
việc giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con
người nói chung và sự hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên Việt
Nam nói riêng trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, giao lưu hội nhập mở
cửa hiện nay. Tác giả khẳng định:
Để phát triển giáo dục, đào tạo theo hướng cân đối giữa “dạy người,
dạy chữ, dạy nghề”, trong đó “dạy người” là mục tiêu cao nhất,
trước mắt cần tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đạo đức cho
sinh viên để hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức,
những giá trị nhân cách trong họ, mà sự phát triển những phẩm chất

đạo đức, những giá trị nhân cách là nội dung cơ bản và là mục tiêu
trực tiếp của giáo dục đạo đức [157, tr.39].
- Luận án Tiến sĩ triết học: “Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành
nhân cách của con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay” của tác
giả Lê Thị Thủy [177], đã đề cập đến mối liên hệ giữa đạo đức với sự hình
12

thành và phát triển nhân cách; Sự hình thành và phát triển nhân cách của con
người Việt Nam hiện nay dưới tác động của đạo đức, từ đó tác giả đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đạo đức đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách của con người Việt Nam hiện nay.
- Cuốn sách: “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay” của các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc
[27], tập hợp các bài viết chọn lọc được trình bày trong hội thảo khoa học
“Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”
do Viện Triết học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia tổ
chức tại Hà Nội, tháng 8 năm 2001. Ở đây, có một số bài viết đề cập tới việc
xây dựng, giáo dục đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường. Có tác giả
khẳng định:
Giáo dục đạo đức trong cơ chế mới của chúng ta không phải là xây
dựng đạo đức trong kinh tế thị trường bất kỳ, mà là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là kinh tế thị trường dưới
sự tác động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Trong xã
hội đó, ý thức đạo đức xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo trong
đời sống đạo đức. Đây là một đặc thù cơ bản của giáo dục đạo đức
trong kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay [27, tr.278-279].
- Cuốn sách “Tu dưỡng đạo đức tư tưởng” của tác giả La Quốc Kiệt
[90], đã cho rằng trong tình hình hiện nay, công tác giáo dục, đào tạo, cùng
với việc dạy chữ thì việc dạy người, việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối
sống cho sinh viên trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, sinh viên là

những chủ nhân đất nước trong tương lai, là những người đại diện cho nền
giáo dục của xã hội, bộ mặt văn hóa của xã hội. Vì vậy, sinh viên cần phải tu
dưỡng đạo đức tư tưởng, đây là:
Môn học về phẩm chất đạo đức và tư tưởng, môn lý luận mácxít và
môn đạo đức tư tưởng của các trường đại học nói chung là con
đường chủ yếu và khâu cơ bản tiến hành giáo dục lý luận mácxít và
giáo dục đạo đức tư tưởng cho sinh viên một cách hệ thống, là một
trong những đặc trưng bản chất của trường đại học xã hội chủ nghĩa,
13

là môn học cần thiết cho mỗi sinh viên, có tác dụng không thể thay
thế trong việc đào tạo họ trở thành người xây dựng và kế tục sự
nghiệp xã hội chủ nghĩa [90, tr.16].
- Bài viết: “Về việc tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng
nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Phúc [160],
trên cơ sở phân tích một cách khách quan sự biến động của đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường, “Việc chuyển sang thể chế kinh tế mới tất yếu
dẫn đến những biến đổi về chuẩn mực, giá trị đạo đức theo hướng đáp ứng
yêu cầu của thể chế mới” [160, tr.4], tác giả đã luận chứng một số giải pháp
căn bản để tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng nền đạo
đức mới ở nước ta.
- Luận án tiến sĩ Triết học “Giáo dục lý luận Mác - Lênin với việc hình
thành và phát triển nhân cách ở sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay” của tác giả Hoàng Anh [4], tác giả bàn đến nhân cách và
những nhân tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách ở
sinh viên Việt Nam, tầm quan trọng và thực trạng giáo dục lý luận Mác-Lênin
với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong điều
kiện kinh tế thị trường và đưa ra phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao vai trò giáo dục Mác - Lênin trong việc hình thành và phát triển nhân cách
sinh viên Việt Nam hiện nay.

- Bài viết: “Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phan Quốc Huy [81], cho
rằng: trong tình hình mới của đất nước, khu vực và thế giới có nhiều biến
động phức tạp, kẻ thù đang dùng mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng
hòng làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa và làm lung lay ý chí cách mạng của
thế hệ trẻ. Vì vậy, việc quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục đạo đức cách mạng cho sinh viên có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn, nhằm hình thành nên những lớp người có trí tuệ, có phẩm chất đạo
đức trong sáng, có ý chí, nghị lực, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, biết
làm giàu chính đáng, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay. Theo tác giả, nội dung giáo dục đạo đức cách
14

mạng cho sinh viên là: Giáo dục phẩm chất trung với nước, hiếu với dân,
phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, giáo dục cho sinh viên lòng
yêu thương con người; Giáo dục tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
- Bài viết: “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay”
của tác giả Phan Văn Bính [19], đã trình bày rõ tính tất yếu của việc giáo dục
đạo đức cho sinh viên là: Xuất phát từ yêu cầu của sự phù hợp ý thức đạo đức
với đặc điểm phát triển của xã hội; Xuất phát từ mục tiêu, quan điểm giáo dục
của Đảng và Nhà nước; Xuất phát từ yêu cầu khắc phục những tồn tại, yếu
kém trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của sinh viên hiện nay. Trên cơ
sở đó, tác giả chỉ rõ nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay là:
Giáo dục theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Giáo dục những giá trị
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc; Giáo dục đạo đức nghề nghiệp;
Giáo dục tinh thần tự chủ, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu để
tự khẳng định mình; Giáo dục văn hóa giao tiếp, tình yêu lứa đôi, hạnh phúc
gia đình. Để giáo dục đạo đức cho sinh viên một cách hiệu quả nhất, cần chú
trọng tới một số hình thức giáo dục như: Giáo dục thông qua môn học lý luận
(triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, đường lối cách

mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh); Sử dụng hình
thức nêu gương “người tốt việc tốt”; Giáo dục thông qua hình thức hoạt động
tập thể; Cơ sở đào tạo có trách nhiệm tham gia xây dựng nền đạo đức mới cho
sinh viên.
- Cuốn sách: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của
tác giả Trần Văn Giàu [54], đã phân tích sâu sắc về các giá trị tinh thần truyền
thống dân tộc và sự vận động của chúng qua những giai đoạn lịch sử Việt
Nam. Theo tác giả, mục đích tìm hiểu giá trị tinh thần truyền thống không chỉ là
tìm hiểu thêm về lịch sử dân tộc, mà còn “nhằm mục đích thiết thực là góp phần
xây dựng con người trong giai đoạn lịch sử cách mạng hiện nay, phục vụ cuộc
đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội” [54, tr.40].
- Bài viết: “Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong của sự
phát triển đất nước, dân tộc” của tác giả Nguyễn Văn Huyên [82], đã khẳng
định tính bền vững, trường tồn của các giá trị truyền thống, trong đó có giá trị
15

đạo đức, cũng như vai trò, sự cần thiết phải bảo vệ, giữ gìn, kế thừa và phát
huy chúng trong quá trình xây dựng xã hội mới.
- Luận án tiến sỹ triết học “Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức
truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Lý [117], đã phân tích những mặt tích cực
và hạn chế trong đạo đức truyền thống dân tộc, làm rõ vai trò của kế thừa và
đổi mới các giá trị đạo đức trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
ở nước ta. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ rõ sự cần thiết, xác định những nội dung
cơ bản cần được kế thừa, bổ sung và đổi mới trong các giá trị đạo đức truyền
thống và đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản, đảm bảo kế thừa
và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống nhằm xây dựng đời sống đạo đức
tốt đẹp của con người và xã hội Việt Nam hiện nay.
- Bài viết: “Nội dung và vị thế của giá trị truyền thống Việt Nam trong
giá trị nhân loại” của tác giả Lê Thị Lan [95], đã phân tích giá trị truyền

thống trong lịch sử phát triển dân tộc, nội dung và vị thế của giá trị truyền
thống Việt Nam trong giá trị nhân loại. Trong đó, tác giả khẳng định chủ
nghĩa yêu nước là một đặc trưng căn bản nhất của giá trị truyền thống Việt
Nam, nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự biến đổi hệ giá trị của dân tộc và “Do quá
trình toàn cầu hóa, một cơ hội mang tính toàn cầu mà mỗi dân tộc cần tận
dụng là khuyến khích sự đa dạng và chia sẻ các giá trị đạo đức. Điều đó có
nghĩa là giá trị của mỗi dân tộc có cơ hội tìm được vị thế của mình trong giá
trị nhân loại” [95, tr.16].
- Cuốn sách: “Đạo đức học - mỹ học và đời sống văn hóa nghệ thuật”
của tác giả Đỗ Huy [79], đã bàn về “Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta từ góc nhìn đạo đức học” và “các
giá trị đạo đức truyền thống ở nước ta và sự chuyển biến của chúng sang hiện
đại”, tác giả khẳng định:
Bảng giá trị Việt Nam đang quá độ rất mạnh mẽ với mục tiêu kết
hợp được các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, kết hợp
các giá trị dân tộc với các giá trị quốc tế; kết hợp các giá trị dân tộc
với các giá trị sắc tộc, các giá trị cá nhân với các giá trị cộng đồng…
16

Hiện nay trong xã hội đang thiết lập một hệ thống giá trị mà ở đó cái
lợi phải thống nhất cái đúng, cái tốt và cái đẹp [79, tr.40].
- Bài viết: “Quan hệ giữa các giá trị đạo đức truyền thống và hiện đại
trong xây dựng đạo đức” của tác giả Lê Thị Lan [96], từ chỗ cho rằng, thực
tiễn dân tộc nào dung hòa được các giá trị truyền thống với các giá trị hiện
đại, hay nói cách khác, tìm được phương thức biểu hiện mới của giá trị truyền
thống trong thời hiện đại thì sẽ phát triển. Các giá trị dân tộc truyền thống cần
phải được biến đổi cho phù hợp với thời đại mới. Tuy nhiên, trong quá trình
biến đổi đó, cần phải có sự gạn lọc, kế thừa, phát triển những giá trị truyền
thống, kết hợp với những giá trị mới mang tinh thần của thời đại. Tác giả đi
đến khẳng định: “Việc giải quyết mối quan hệ giữa các giá trị truyền thống và

hiện đại không thể dựa trên ý muốn chủ quan của nhà lý luận, mà phải dựa
trên cơ sở thực tiễn, dựa vào nền tảng kinh tế xã hội mà trên đó, các giá trị cũ
hoặc mới được thừa nhận, phát triển hay loại bỏ” [96, tr.25]. Trong đó, tác giả
đã khẳng định tinh thần yêu nước là một đặc trưng căn bản nhất của giá trị
truyền thống Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyết suốt sự biến đổi hệ giá trị của dân
tộc Việt Nam.
- Trong bài viết: “Từ “cái thiện” truyền thống đến “cái thiện” trong cơ
chế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Hùng Hậu [64], cho
rằng Chân - Thiện - Mỹ là khát vọng, hoài bão, ước mơ của loài người, là giá
trị phổ quát của mọi nền văn hóa, “Thiện trong truyền thống là sự kết hợp một
cách nhuần nhuyễn giữa cái Thiện của người Việt với những tinh hoa, tinh túy
của cái Thiện trong Nho, Phật, Lão” [64, tr.29], “Ngày nay, trong bối cảnh
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cái Thiện cũng
được bổ sung bằng nhiều nội dung mới. Nếu như trước kia, Thiện cao nhất,
lớn nhất là yêu nước, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, thì ngày nay,
Thiện phải làm sao cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh…” [64, tr.31]. Từ đó, tác giả đi đến kết luận: “trong cơ chế thị trường ở
Việt Nam hiện nay, cái Thiện mang một nội dung mới, một ý nghĩa thiết thực
cụ thể chứ không chỉ là cái Thiện chung chung, trừu tượng ở trong tâm mỗi
người” [64, tr.32].
17

- Luận án tiến sĩ: “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thị
Hoài Thanh [170], đã đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống
và hiện đại trong giáo dục đạo đức, vận dụng mối quan hệ này vào hoạt động
giáo dục đạo đức cho thanh niên. Tác giả cũng đã nêu rõ vai trò của giáo dục đạo
đức đối với thanh niên và chỉ rõ thực trạng của vấn đề này, từ đó đề xuất một số
phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp truyền
thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Vấn đề kế thừa và phát huy các giá
trị đạo đức truyền thống trong nền kinh tế thị trường ở nước ta” của Dương Thị
Liễu [108], đã phân tích làm rõ nội dung cơ bản của các giá trị đạo đức truyền
thống điển hình của dân tộc Việt Nam, mối quan hệ biện chứng giữa các giá trị
đạo đức truyền thống với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam, từ đó khẳng định sự cần thiết của việc kế thừa và phát huy các giá
trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh kinh tế thị trường. Bởi lẽ:
Dưới tác động của kinh tế thị trường đã xuất hiện xu hướng biến
động thái quá của các giá trị đạo đức hiện nay, trong đó có những
biểu hiện lệch chuẩn. Đó là từ chỗ coi trọng các giá trị chính trị - xã
hội chạy sang cực các giá trị kinh tế - vật chất, từ chỗ lấy con người xã
hội - tập thể làm mẫu mực sang chỗ quá nặng về con người cá nhân,
thậm chí cá nhân chủ nghĩa, từ chỗ lấy đức làm gốc chuyển sang coi
nhẹ đạo đức , từ chỗ coi trọng lối sống lành mạnh, giản dị đến chỗ xa
hoa lãng phí, phô trương Lối sống thực dụng của cơ chế thị trường
đã và đang làm đảo lộn quan niệm về giá trị truyền thống. Những quan
niệm truyền thống trở thành chuẩn mực trước kia thì đến nay không
còn phù hợp với con người hiện đại [108, tr.35].
- Luận án Tiến sĩ triết học: “Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay” của
Võ Văn Thắng [172], đã phân tích thực trạng, những vấn đề đang đặt ra trong
quá trình kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong
xây dựng lối sống ở nước ta hiện nay, tác giả khẳng định: “Kế thừa và phát
18

huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc để xây dựng lối sống mới là một
quá trình phấn đấu công phu, bền bỉ và khó khăn, đòi hỏi phải được tiến hành
một cách thường xuyên, kiên trì và thận trọng” [172, tr.134].
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG PHÁT HUY
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT

TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN
- Bài viết: “Tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên” của
Trần Đình Tuấn [186], đã khẳng định: “Sau hai thập kỷ đổi mới, Việt Nam đã
thu được nhiều thành công về kinh tế, vị thế chính trị, xã hội của quốc gia có
nhiều điều đáng tự hào, nhưng chúng ta lại phải đứng trước những thử thách
mới về sự tha hóa đạo đức đang diễn ra ở nhiều lứa tuổi, trong mọi mối quan
hệ, mọi lĩnh vực hoạt động của toàn xã hội” [186, tr.47]. Nguyên nhân của
đạo đức xuống cấp không phải do kinh tế chậm phát triển, không phải do
nghèo túng, cũng không phải do trình độ dân trí thấp và sự du nhập của các
luồng văn hóa, lối sống thiếu lành mạnh từ nước ngoài vào Việt Nam. “Vậy
đạo đức xuống cấp vì lý do gì? Trước hết phải xem lại kỷ cương và xã hội và
phương pháp giáo dục đạo đức của nhà trường, gia đình, xã hội” [186, tr.48].
Tác giả đã đề cập đến các biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên
là: Giáo dục cho học sinh, sinh viên có nhận thức chính xác về chuẩn mực giá
trị đạo đức mới; Hình thành cảm xúc, tình cảm đạo đức cho học sinh, sinh
viên; Hình thành nhu cầu tự hoàn thiện đạo đức cho học sinh, sinh viên; Rèn
luyện thói quen hành vi đạo đức cho học sinh, sinh viên; Phối hợp thống nhất
giữa giáo dục của nhà trường với giáo dục của gia đình và xã hội.
- Bài viết: “Thái độ của sinh viên hiện nay đối với một số giá trị truyền
thống dân tộc Việt Nam” (Qua kết quả khảo sát tại một số trường đại học ở
Hà Nội) của Vũ Thị Thanh [171], trên cơ sở khái quát một số quan điểm về
giá trị của các nhà xã hội học danh tiếng trên thế giới, tác giả nhấn mạnh tầm
quan trọng của hệ giá trị, quan điểm giá trị đối với xã hội nói chung và sinh
viên nói riêng trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập hiện nay
ở Việt Nam. Tác giả đã tiến hành khảo sát thực trạng thái độ của sinh viên đối
với một số giá trị truyền thống tốt đẹp của Việt Nam - đó là một thứ hành
19

trang cần thiết cho sinh viên khi bước vào đời. Qua kết quả khảo sát thái độ
của sinh viên (300 sinh viên khảo sát định lượng và 15 trường hợp phỏng vấn

sâu) đối với 5 giá trị truyền thống là yêu nước, đoàn kết, tương thân tương ái,
lạc quan, cần cù lao động - học tập, dũng cảm, tác giả đi đến kết luận:
Thái độ của sinh viên đối với giá trị truyền thống hiện nay là khá
tích cực. Đó luôn là những giá trị được sinh viên coi trọng Bởi
vậy, các chủ thể giữ vai trò xã hội hóa như gia đình, nhà trường và
các phương tiện truyền thông cần phát huy hơn nữa vai trò của mình
trong việc giáo dục giá trị truyền thống cho sinh viên [171, tr.20].
- Bài viết: “Một số giá trị đạo đức Việt Nam: từ truyền thống đến Hồ
Chí Minh” của Nguyễn Thế Kiệt [91], đã cho rằng đạo đức nảy sinh do nhu
cầu của đời sống xã hội và là kết quả của sự phát triển lịch sử. Các giá trị
của nó được hình thành và khẳng định từ quan hệ giữa người với người
trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Ở đây, bài viết đi sâu tìm hiểu về
một số giá trị đạo đức Việt Nam: từ truyền thống đến Hồ Chí Minh, được
hình thành trong những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước. Đó là: “tinh thần yêu nước, tinh thần nhân đạo cao cả, tinh thần đoàn
kết cộng đồng sâu sắc, tính trung thực, khiêm tốn, giản dị, thủy chung, cần
kiệm, sáng tạo trong lao động, hiếu học ” [91, tr.11]. Trong đó, lòng yêu
nước được xem là phẩm chất cơ bản phổ biến, cao nhất của con người, của
dân tộc ta.
- Luận án tiến sĩ Triết học: “Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá
trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” của tác
giả Mai Thị Quý [165], đã phân tích rõ thực chất, đặc trưng và tính hai mặt
của toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay, phân tích những biến động của các
giá trị truyền thống dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, luận chứng về vai
trò, ý nghĩa và sự cần thiết của việc kế thừa một số giá trị truyền thống tiêu
biểu của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và nêu rõ những nội
dung cơ bản của sự kế thừa đó như: Giá trị truyền thống yêu nước, giá trị
truyền thống gia đình, giá trị truyền thống nhân văn, giá trị truyền thống đoàn
kết, giá trị truyền thống hiếu học, giá trị truyền thống cần cù, tiết kiệm.
20


- Bài viết: “Giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế”
của tác giả Đặng Hữu Toàn [181], đã phân tích chỉ ra sự tác động tích cực,
tiêu cực của nền kinh tế thị trường đến đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta,
làm cho nhiều giá trị đạo đức truyền thống và nếp sống văn hóa vận động,
biến đổi không ngừng. Bên cạnh sự xuất hiện các giá trị đạo đức mới, nếp
sống văn hóa mới, lành mạnh, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế thị
trường, còn có những giá trị đạo đức truyền thống, nếp sống văn hóa truyền
thống tốt đẹp bị xâm hại và có nguy cơ bị mai một đi. Đặc biệt, ở những thành
phố lớn, các giá trị đạo đức truyền thống, nếp sống văn hóa truyền thống và
những phong tục tốt đẹp vốn có của dân tộc Việt Nam đang bị lấn át bởi
những thứ đạo đức ngoại lai, những quan hệ coi đồng tiền, lợi nhuận cao hơn
những giá trị đạo đức. Điều đó, đặt ra việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo
đức truyền thống trở nên cấp bách và cần thiết.
- Bài viết: “Giáo dục truyền thống cho sinh viên - yêu cầu cấp thiết
trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo hiện nay” của tác giả Lê Thị Vân Anh [3],
đã trình bày khái niệm truyền thống, vai trò của sinh viên đối với giáo dục
truyền thống, vai trò của truyền thống và giáo dục truyền thống cho sinh viên
rất quan trọng để hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam mới.
- Bài viết: “Giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng
nhân cách con người Việt Nam hiện nay” của tác giả Cao Thu Hằng [63], đã
khẳng định:
Giáo dục là một trong những phương thức hết sức quan trọng trong
quá trình hình thành nhân cách. Bằng con đường này, người ta lĩnh
hội được các giá trị xã hội, trong đó có các giá trị đạo đức, và do đó,
nhân cách con người mới được hình thành và phát triển Trong
công tác giáo dục đạo đức, việc coi trọng giáo dục đạo đức truyền
thống là một yêu cầu cơ bản [63, tr.21].
Giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống phải hướng đến mục tiêu là:

“hình thành nên những con người mới, vừa mang tính hiện đại, vừa mang bản
sắc dân tộc” [63, tr.21].
21

- Sách “Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay” của Lương Gia Ban và Nguyễn Thế Kiệt [8], đã
phân tích tầm quan trọng, nội dung và thực trạng giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra
giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới cho sinh viên hiện nay.
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG VIỆC HÌNH
THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN
- Cuốn sách: “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay”
của tác giả Nguyễn Chí Mỳ [148], đã gợi mở một số vấn đề đạo đức mới, luận
giải sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong cơ chế thị trường, từ đó, đề
xuất phương hướng, giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới, xây dựng
đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa…
- Đề tài: “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp” của
tác giả Nguyễn Duy Quý [163], từ việc phân tích hiện thực cuộc sống trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công trình này đã
phác họa một cách trung thực, khá toàn diện toàn cảnh bộ mặt đạo đức xã hội
Việt Nam hiện nay trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Với những số
liệu điều tra xã hội học phong phú, thuyết phục, tác giả làm hiện rõ thực trạng
đạo đức của cán bộ, đảng viên, công chức, thanh niên, đạo đức trong lao
động, giao tiếp và đạo đức trong gia đình.
Những yếu kém trong quản lý kinh tế và xã hội, việc buông lỏng
kiểm tra, kiểm soát, giám sát các hoạt động sản xuất - kinh doanh,
các lĩnh vực của công tác tổ chức và cán bộ, kể cả Đảng và Nhà

nước đã tạo nên những kẽ hở cho mặt trái của kinh tế thị trường
Pháp luật lại không đầy đủ, đồng bộ, kém hiệu lực và hiệu quả sự
hư hỏng, thoái hóa của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức
Môi trường đạo đức và nhân văn xã hội bị đe dọa nghiêm trọng.
Giáo dục đạo đức, văn hóa đạo đức, nhất là giáo dục truyền thống
22

bị xem nhẹ, thậm chí đã có lúc bị bỏ trống đã lấn át và làm xói mòn
các giá trị tinh thần, làm hủy hoại đạo đức, nhân cách. Hậu quả này là
do sự xem nhẹ giáo dục đạo đức và giáo dục truyền thống gây nên mà
giờ đây xã hội đang phải hứng chịu, phải trả giá đắt [163, tr.2].
Các tác giả đã phân tích khái quát về thực trạng chỉ ra nguyên nhân suy
thoái đạo đức trong xã hội cả khách quan, chủ quan, trong đó, nguyên nhân
chủ quan từ lãnh đạo, quản lý, giáo dục và tổ chức đời sống xã hội đã và đang
trực tiếp dẫn tới sự suy thoái đạo đức xã hội. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đã
đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức xã hội, đặc biệt là đạo
đức gia đình ở nước ta hiện nay theo hướng “ cần phải có một hệ thống các
giải pháp mang tính tổng thể, đồng bộ về nhận thức, quan điểm, kinh tế, chính
trị, văn hóa, giáo dục… từ cấp vĩ mô đến vi mô” [163, tr.282].


- Bài viết: “Đạo đức học sinh - sinh viên ở nước ta: Thực trạng và giải
pháp giáo dục” của tác giả Phạm Thị Kim Anh [5], đã chỉ rõ vấn đề đạo đức
và giáo dục đạo đức ở học sinh, sinh viên nước ta những năm gần đây đã trở
thành điểm nóng không chỉ của riêng ngành giáo dục mà của toàn xã hội. Tác
giả đã đưa ra một loạt ví dụ để chứng minh thực trạng giáo dục đạo đức cho
học sinh, sinh viên và chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng này như: Sự buông
lỏng trong việc quản lý giáo dục con cái trong gia đình; Việc giáo dục đạo
đức trong các nhà trường từ bậc phổ thông đến đại học có nhiều bất ổn; Các
giá trị đạo đức trong xã hội, cộng đồng tác động lớn đến hành vi, nhân cách

học sinh. Từ thực trạng và nguyên nhân đó, tác giả đưa ra một số biện pháp
giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên trong các nhà trường hiện nay là:
Kỷ luật trong trường học cần được thắt chặt hơn; Đổi mới nội dung,
phương thức giáo dục đạo đức ở các cấp học; Triển khai mô hình
“Trung tâm tư vấn các vấn đề xã hội”; Hợp tác chặt chẽ với các lực
lượng của học sinh, sinh viên; Phối hợp với gia đình, chính quyền
địa phương, cảnh sát khu vực để giúp đỡ những học sinh hư, vi
phạm kỷ luật [5, tr.7].
- Cuốn sách: “Sự biến đổi của các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây
dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Duy

×