Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Hiệu quả hoạt động của Đại biểu quốc hội trong giai đoạn hiện nay, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.06 KB, 11 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nhà nước ta là “nhà nước của dân, do dân và vì dân”, tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua người đại diện, các cơ quan đại biểu
do mình bầu ra. Nghiên cứu hoạt động của đại biểu Quốc hội theo pháp luật hiện hành
cũng như thực tiễn sẽ giúp chúng ta nhìn nhận ra được những mặt tích cực và phát huy,
những mặt hạn chế và khắc phục đối với hoạt động thực tiễn của Đại biểu Quốc hội. Từ
đó, rút ra những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói chung và của các
Đại biểu nói riêng, góp phần hoàn thiện vai trò là người Đại biểu của nhân dân. Bài viết xin
làm rõ đề tài “ Hiệu quả hoạt động của Đại biểu quốc hội trong giai đoạn hiện nay, thực
trạng và giải pháp”.
NỘI DUNG
1. Đại biểu quốc hội
Đại biểu quốc hội là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt
cho nhân dân thực hiện hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội. ĐBQH là những người đang
làm việc tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, thuộc nhiều tầng lớp cư dân khác nhau
trên phạm vi cả nước, được cử tri bầu và tín nhiệm vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm trước cử tri và trước cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
trong khi thực hiện nhiệm vụ. Vì vật khi làm nhiệm vụ, đại biểu Quốc hội phải xuất phát từ
lợi ích chung của cả nước, đồng thời phải chú ý quan tâm đúng mức lợi ích của địa phương đã
bầu ra mình, phải căn cứ vào pháp luật và thực tế địa phương; theo tinh thần của Lenin là
những người: “Tự mình công tác, tự mình áp dụng những luật pháp của mình, tự mình kiểm
tra lấy những tác dụng của luật pháp ấy, tự mình chịu trách nhiệm trước cử tri của mình”.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Đại biểu quốc hội
a, Nhiệm vụ:
Thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, phải thường xuyên tiếp xúc
với cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiếm của cử tri đối với các cơ quan nhà nước, với
Quốc hội; báo cáo với cử tri hoạt động của bản thân với tư cách đại biểu và báo cáo hoạt động
1
của Quốc hội; tiếp xúc cử tri đại biểu Quốc hội có trách nhiệm trả lời nnhững yêu cầu kiến
nghị của cử tri; đôn đốc, giám sát các cơ quan giải quyết những yêu cầu, kiến nghị của cử tri. (


Điều 46; 51 và 52 luật tổ chức Quốc Hội 2001).
Tham gia đầy đủ các kỳ họp Quốc hội với ý thức trách nhiệm cao, tham gia thảo luận
các vấn đề thuộc quyền quyết định của quốc hội, có trách nhiệm làm cho kì họp Quốc hội đạt
hiệu quả tốt; thực hiện nhiệm vụ nếu là đại biểu thành viên, các cơ quan Quốc hội, bảo đảm
giải quyết tốt nhiệm vụ của từng cơ quan trong nhiệm vụ chung của Quốc hội. ( Điều 47 luật
tổ chức Quốc hội 2001).
Gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật có cuộc sống trong sạch lành
mạnh; tôn trọng các quy tắc trong sinh hoạt công cộng, có trách nhiệm.
b, Quyền hạn:
Quyền tham gia thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của QH tại các kỳ họp QH là quyền quan trọng nhất của Đại biểu
quốc hội. Ý kiến phát biểu của ĐBQH được ghi vào biên bản, tổng hợp và sử dụng. ĐBQH
chịu trách nhiệm về ý kiến phát biểu cuả mình. ĐBQH không thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về những lời phát biểu của mình trước QH.
Quyền chất vấn chủ tịch nước, chủ tịch QH, thủ tướng chính phủ và các thành viên khác
của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC ( Điều 49 luật tổ chức Quốc hội
2001 điều 98 hiến pháp 1992).
Quyền trình quyết dự án luật, kiến nghị về Luật ra trước QH, dự án pháp lệnh ra trước
UBTVQH theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định ( điều 48 LTCQH)
Quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan có hành vi vi phạm pháp
luật thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt những hành vi vi phạm pháp
luật đó trong thời hạn quy định. (Điều 53 LTCQH)
Quyền gặp gỡ yêu cầu cơ quan nhà nước, UBMTTQ và các tổ chức thành viên mặt
trận, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang cung cấp tình hình và tài liệu cần thiết liên quan đến
hoạt động của đại biểu (điều54).
2
Quyền tham gia bầu cử và có thể bầu vào các cơ quan nhà nước, các cơ quan lãnh
đạo, các tổ chức QH.
Quyền tham dự các kỳ họp của HĐND các cấp nơi mình được bầu (điều 55 LBCQH)
Quyền kiến nghị với UBTVQH xem xét trình QH việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với

những người giữ các chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn (điều 50, 55 LTCQH)
Quyền bất khả xâm phạm và miễn tố ( Điều 58 luật tổ chức Quốc hội và điều 99 hiến
pháp 1992).
3. Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐBQH
a. Hoạt động tiếp công dân
Điều 24 Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH nêu rõ: “Đoàn đại biểu QH
có nhiệm vụ tổ chức việc tiếp công dân của ĐBQH, tiếp nhận, chuyển đơn, theo dõi đôn
đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân mà ĐBQH, đoàn ĐBQH đã chuyển đến
cơ quan tổ chức có thẩm quyền giải quyết; mời đại diện HĐND, UBND ở địa phương
tham dự các buỏi họp tiếp dân của ĐBQH; trong trường hợp cần thiết thì mời đại diện cơ
quan hữu quan ở địa phương cùng tham dự để tiếp thu xử lí những vấn đề liên quan”.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu nhận thấy các ĐBQH trong cả nước đã rất quan tâm đến
hoạt động tiếp công dân. Từ thực tiễn hoạt động tiếp công dân của ĐBQH, cử tri có niềm
tin sâu sắc vào các vị ĐBQH- người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Chính vì vậy, trong các buổi tiếp công dân của ĐBQH, có nhiều công dân đăng kí để gặp
và trình bày nội dung liên quan với các vị ĐBQH. Thông qua hoạt động tiếp công dân, các
ĐBQH không chỉ lắng nghe công dân trình bày ý kiến, kiến nghị của mình và tiếp thu một
cách thụ động mà ĐBQH đã đành thời gian để tuyên truyền, giải thích về đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, phối hợp với các cơ quan chức năng
của địa phương để làm rõ nội dung về tâm tư, nguyện vọng ý kiến cũng như khiếu nại, tố
cáo của công dân.
Một số công dân đến trụ sở tiếp công dân gửi đơn, thư khiếu nại, tố cáo đến các vị
ĐB lại chưa hiểu đúng vai trò, chức năng nhiệm vụ của ĐBQH. Chính vì công dân tố cáo
khiếu nại không đạt được như ý muốn chủ quan của mình, nên đã biểu thị thái độ không
3
đúng mực, có lúc gay gắt và cho rằng ĐBQH chỉ nhận đơn thư khiếu nại tố cáo nghiên
cứu rồi lưu lại văn phòng.
Có nhiều hạn chế đó là do nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng chủ yếu là
do công dân đi khiếu nại, tố cáo chưa hiểu chính xác về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của
ĐBQH trong lĩnh vực tiếp nhận đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân; do công tác giáo

dục phổ biến tuyên truyền pháp luật nói chung và Luật tổ chức QH quy định về chức năng,
nhiệm vụ của ĐBQH trên các lĩnh vực và trong lĩnh vực tiếp công dân còn hạn chế; Sự
phối hợp giữa đoàn ĐBQH với thường trực HĐND, UBND, thanh tra các cấp nhất là cấp
tỉnh chưa được tốt; các cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo khi
nhận được đơn, thư do các vị ĐBQH chuyển đến chưa nghiêm túc thực hiện trách nhiệm
của mình theo Luật định.
Hoạt động tiếp xúc cử tri vẫn còn tình trạng tiếp xúc cử tri "chuyên nghiệp" khi các
đại biểu về các địa phương tiếp xúc cử tri nhưng thực chất họ chỉ tiếp xúc với những cử tri
do chính quyền địa phương lựa chọn. Mặc dù thời gian qua trong việc tiếp xúc cử tri đã có
những đổi mới đó là cho phép cử tri tự do tham gia, qua đó khắc phục tình trạng "cử tri
chuyên trách, đại biểu kiêm nhiệm" thường thấy. Tuy nhiên, thực tế niều cử tri mong muốn
được phát biểu, tham gia ý kiến tại các cuộc tiếp xúc vẫn phải đứng ngoài cuộc hoặc phải
gặp riêng những chuyên viên hay cán bộ địa phương thay vì đối diện với các ĐBQH. Một
vấn đề nữa đó là việc tổ chức trong không gian quá chật hẹp là một lý do. Sự hạn chế trong
việc lựa chọn địa điểm tổ chức đã hạn chế việc thực hiện mục tiêu đổi mới nói trên. Với
một địa điểm thiếu chỗ ngồi, dù ban tổ chức có muốn cho cử tri tự do góp mặt cũng "lực
bất tòng tâm".
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp dân, tiếp xúc cử tri, giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân của ĐBQH, phải thực hiện đồng bộ như sau:
- Tiếp tục đề nghị Quốc hội nghiên cứu, sửa đổi toàn diện Luật khiếu nại, tố cáo, đặc
biệt các quy định liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan nhà nước.
- Có thẩm quyền giả quyết khiếu nại, tố cáo khi nhận được đơn thư khiếu nại tố cáo
do ĐBQH chuyển đến và quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
ĐBQH trong lĩnh vực tiếp công dân, tiếp nhận đơn thư khiếu nại , tố cáo.
4
- Thường xuyên tuyên truyền cho nhân dân hiểu được đầy đủ, chính xác về nhiệm vụ,
chức năng, quyền hạn của ĐBQH, trong đó có lĩnh vực tiếp ông dân.
- Hằng năm tổ chức tập huấn nâng cao kĩ năng dân nguyện nói chung và lĩnh vực tiếp
công dân nói riêng cho ĐBQH và cả cán bộ Văn phòng phục vụ Đoàn ĐBQH.
- Thường xuyên tổ chức giao ban, trao đổi kinh nghiệm theo từng khu vực hay một số

tỉnh, thành phố về các lĩnh vực hoạt động, trong đó có lĩnh vực tiếp công dân và giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Xây dựng hệ thống mạng vi tính về hoạt động dân nguyện để phục vụ các Đoàn
ĐBQH, cung cấp trang bị, phần mềm theo dõi nội dung đơn thư khiếu nại, tố cáo cho các
Văn phòng phục vụ Đoàn ĐBQH các tỉnh thành phố để thống nhất theo dõi một mẫu
chung trong cả nước.
-Tăng cường sự phối hợp giữ các Đoàn ĐBQH và thường trực HĐND, UBND, thanh
tra, công an, Đài phát thanh và truyền hình tỉnh trong tổ chức tiếp công dân.
-Các văn phòng phục vụ Đoàn ĐBQH cần tổ chức bộ phận riêng rẽ phục vụ hoạt
động dân nguyện nói chung và đặc biệt là tiếp nhận, nghiên cứu, phân loại và tham mưu
cho ĐBQH cách thức giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo của công dân.
b. Về vấn đề chất vấn
Với vai trò là thành viên của Quốc hội, ĐBQH giám sát thông qua hoạt động chất
vấn. Gần đây, hoạt động chất vấn của ĐBQH đã có những tiến bộ đáng kể. Tại mỗi kỳ họp,
các ĐBQH đã thực hiện hàng trăm chất vấn đối với UBTVQH, chính phủ, Chánh án
TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC và các nhân sự cấp cao khác giữ trọng trách trong bộ
máy nhà nước. Quá trình thực hiện chất vấn đã có sự phát triển mới về chất, đã có sự đan
xen đối thoại, tranh luận trực tiếp tạo không khí cởi mở giữa người chất và người trả lời
chất vấn tác động tích cực tới hoạt động lập pháp và cũng tạo cơ sở cho ĐBQH quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước. Nhiều văn bản pháp luật quan trọng liên quan đến
đời sống thiết yếu của nhân dân thông qua hoạt động này đã được triển khai thực hiện kịp
thời góp phần không nhỏ vào việc thực hiện các đường lối chính sách của Đảng ở các lĩnh
vực khác nhau. Trên cơ sở đó Đảng có sự sửa đổi bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tế.
Thực hiện quyền chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH đã trở thành nếp sống sinh hoạt
thường xuyên, dân chủ trong các kì họp quốc hội được cử tri cả nước quan tâm theo dõi và
5

×