MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………… 2
NỘI DUNG……………………………………………………………. 3
1. Cơ sở của những quy định về Quốc hội………………………… 3
1.1. Vị trí tính chất, chức năng của Quốc hội…....................... 3
1.2. Hoạt động của Quốc hội……………………………………. 3
1.3. Hoạt động của Đại biểu Quốc hội…………………………… 4
2. Thực trạng hoạt động của Đại biểu Quốc hội……………….. 6
3. Giải pháp nâng cao hoạt động của Đại biểu Quốc hội………. 10
KẾT LUẬN…………………………………………………………….. 12
LỜI NÓI ĐẦU
Đại biểu Quốc hội là những công dân ưu tú do nhân dân trực tiếp bầu ra trong cuộc bầu
cử, họ đại diện cho tâm tư nguyện vọng của nhân dân địa phương bầu ra mình cũng như nhân
dân cả nước; là những người gắn bó mật thiết nhất với nhân dân đóng vai trò là cầu nối giữa
1
Nhà nước với nhân dân. Hiện nay khi mà Quốc hội đang có những đổi mới và hoàn thiện thì
các đại biểu ngày càng đóng vai trò quan trọng. Vậy thực trạng các hoạt động của đại biểu
quốc hội hiện nay như thế nào những gì đã làm và chưa làm được? Phương hướng hoàn thiện
hoạt động của Đại biểu Quốc hội như thế nào? Làm sao để các đại biểu phát huy hết khả năng
của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ đại diện cho nhân dân của mình. Để làm rõ vấn đề
này, Nhóm 1 chúng em quyết định chọn đề tài: “Hoạt động của Đại biểu Quốc hội - thực
trạng và giải pháp”.
NỘI DUNG
1. Cơ sở của những quy định về Quốc hội
1.1. Vị trí, tính chất, chức năng của Quốc hội.
2
Trong bộ máy nhà nước ta, QH chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. HP năm 1992 đã nêu
rõ vị trí và tính chất của QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.( Điều 83)
Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Quốc hội đại diện
cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Quốc
hội phải chịu trách nhiệm trước nhân dân cả nước, thay mặt nhân dân quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước nhận quyền lực trực tiếp từ
nhân dân và sử dụng quyền lực nhà nước trên phạm vi toàn lãnh thổ. Quốc hội ban hành ra
Hiến pháp, luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất của đất nước
trên tất cả các lĩnh vực; quy định những nguyên tắc cơ bản, chủ yếu về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm các chức vụ cao cấp nhất của bộ máy nhà nước. Quốc hội là cơ quan giám
sát tối cao toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, giám sát việc thi hành
pháp luật.
1.2. Hoạt động của Quốc hội.
1.2.1. Kì họp Quốc hội:
Kì họp là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Quốc hội. Kì họp là nơi
biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực nhà nước cao nhất; trí tuệ tập thể của các đại
biểu Quốc hội. Tại kì họp, Quốc hội thảo luận dân chủ và quyết định những vấn đề quan trọng
nhất của đất nước và của nhân dân; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các
cơ quan nhà nước..
Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kì, do UBTVQH triệu tập. Trong trường hợp Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu
hoăc theo quyết định của mình, UBTVQH triệu tập Quốc hội họp bất thường (Điều 86 Hiến
pháp năm 1992). Hình thức họp Quốc hội: họp công khai. Trong các trường hợp cần thiết,
theo đề nghị của Chủ tịch nước, UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần
ba tổng số đại biểu Quốc hội thì Quốc hội quyết định họp kín.
1.2.2. Các cơ quan của Quốc hội.
Các cơ quan của QH bao gồm Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Hội đồng dân tộc; Các Uỷ
ban của Quốc hội. Nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan này được quy định cụ thể trong
Luật tổ chức QH.
1.2.3. Hoạt động của Đại biểu Quốc hôi:
Đại biểu Quốc hội là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà
nước và xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra bằng tổng tuyển cử tự do. Đó là
những đại biểu chân chính của nhân dân. Đại biểu Quốc hội là cầu nối quan trọng giữa chính
quyền nhà nước với nhân dân. Đại biểu quốc hội vùa chịu trách nhiệm trước cử tri vừa chịu
trách nhiệm trước cơ quan quyền lực cao nhất nhà nước.
1.2.3.1. Nhiệm vụ
Đại biểu Quốc hội phải chịu trách nhiệm trước cử tri và Quốc hội về việc thực hiện
nhiệm vụ của mình, phải thường xuyên tiếp xúc cử tri để thu thập các ý kiến cử tri một cách
trung thực, báo cáo cử tri về các hoạt động của mình và cả Quốc hội. Đại biểu có nhiệm vụ trả
lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri. Tiếp dân là công việc thường xuyên của ĐBQH, phải tiếp
dân theo định kì, giúp dân gửi các khiếu nại, tố cáo... kịp thời. ĐBQH phải gương mẫu trong
3
việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh
hoạt công cộng. ĐBQH có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật, động viên nhân dân
chấp hành pháp luật và tham gia quản lý nhà nước.( Điều 46; 51 và 52 Luật tổ chức Quốc Hội
2001); tham gia các phiên họp toàn thể của Quốc hội, các cuộc họp của Tổ đại biểu Quốc hội,
của Đoàn đại biểu Quốc hội; ĐBQH là thành viên của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
có trách nhiệm tham gia các phiên họp, thảo luận, biểu quyết các vấn đề và tham gia các hoạt
động khác thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội mà mình là
thành viên. ĐBQH hoạt động không chuyên trách được dành ít nhất một phần ba thời gian làm
việc để thực hiện nhiệm vụ đại biểu. ( Điều 47 Luật tổ chức Quốc hội 2001)
1.2.3.2. Quyền hạn
ĐBQH có Quyền trình dự án luật, trình kiến nghị về luật, pháp lệnh; trình dự án luật,
pháp lệnh theo trình tự do pháp luật quy định. (Điều 48 Luật tổ chức Quốc hội 2001); quyền
chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của
Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC; quyền gặp gỡ yêu cầu các cơ quan
nhà nước, UBMTTQ, các tổ chức thành viên mặt trận... trong phạm vi chức năng nhiệm vụ
quyền hạn của mình; quyền tham gia bầu cử, có thể được bầu vào cơ quan nhà nước, cơ quan
lãnh đạo. quyền biểu quyêt các dự án luật, các nghị quyết, báo cáo. ĐBQH có quyền kiến nghị
với UBTVQH xem xét trình QH việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ
do QH bầu hoặc phê chuẩn; quyền bất khả xâm phạm và miễn tố: ĐBQH được pháp luật bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền tham gia thảo luận và quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước tại các kì họp Quốc Hội, tham gia thảo luận, tranh luận các vấn đề
trong chương trình kì họp, mà đại biểu quốc hội là thành viên. ĐBQH không phải chịu trách
nhiệm hình sự về lời phát biểu của mình. Đây là quyền hạn quan trọng nhất của ĐBQH
1.2.3.3. Những bảo đảm cho hoạt động của đại biểu quốc hội:
Để bảo đảm cho hoạt động của ĐBQH, Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Quốc hội
quy định ĐBQH có quyền bất khả xâm. Nếu không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời
gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của UBTVQH thì không được bắt giam, truy tố
ĐBQH và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội.
ĐBQH được cung cấp đầy đủ tài liệu và thông tin cần thiết để hoạt động. Theo quy
định của pháp luật hiện hành, đại biểu Quốc hội được cung cấp công báo, các văn kiện chính
thức của kì họp Quốc hội, các tài liệu khác mà Chủ tịch Quốc hội xét có thể giúp đại biểu
trong hoạt động của mình.
ĐBQH được tạo điều kiện thuận lợi để làm nhiệm vụ đại biểu; được bố trí thời gian và
địa điểm gặp gỡ tiếp xúc với cử tri; được sắp xếp thời gian và phương tiện; được đài thọ
lương và phụ cấp trong thời gian tạm thời không làm công tác thường xuyên của mình để làm
nhiệm vụ đại biểu; được quyền ưu tiên mua vé tàu, xe, máy bay...; được hưởng chế độ cung
cấp thuốc men, nằm bệnh viện theo tiêu chuẩn cán bộ trung cấp.
ĐBQH được cấp một tài khoản hoạt động phí hàng tháng do Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quy định. ĐBQH chuyên trách phải được dành toàn bộ thời gian làm việc cho hoạt động
của Quốc hội, được bố trí nơi làm việc và các điều kiện cần thiết khác cho hoạt động đại biểu
của mình, được hưởng lương và các khoản trợ cấp khác do UBTVQH quy định. ĐBQH hoạt
động theo chế độ không chuyên trách được dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc để làm
nhiệm vụ đại biểu. Cơ quan, tổ chức nơi ĐBQH làm việc phải tạo mọi điều kiện cho đại biểu
4
làm nhiệm vụ.
1.2.3.4. Hoạt động của Đại biểu Quốc hội
- Hoạt động xây dựng pháp luật : Cơ sở của hoạt động này dựa trên quyền hạn và nhiệm
vụ được quy định trong Hiến Pháp nước CHXHCNVN. Những nhiệm vụ và quyền hạn trong
hoạt động xây dựng pháp luật phải dựa vào năng lực lập pháp của các ĐBQH, trên các góc
nhìn của các đại biểu khác nhau.
- Hoạt động giám sát :
Giám sát của đại biểu Quốc hội được hiểu là hoạt động theo dõi , xem xét, đánh giá,
hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
(1)
nhằm mục
đích đảm bảo cho pháp luật được thực thi một cách hiệu quả nhất, theo dõi tính hợp hiến và
hợp pháp đối với nội dung các văn bản do các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát trực tiếp của
Quốc hội ban hành, cũng như tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động thực tiễn của các cơ
quan nhà nước đó. Cơ sở cho hoạt động giám sát của ĐBQH là hoạt động này được quy định
tại ĐIều 98 HP 1992 và Điều 49 Luật tổ chức Quốc hội 2001. Quyền giám sát của Quốc hội
cũng như ĐBQH không đối trọng với các quyền hành pháp và tư pháp.
(2)
- Hoạt động tại kỳ họp:
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu là quan trọng nhất của Quốc hội. Tại kỳ họp, các
ĐBQH tham gia thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
cụ thể là về những mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; những vấn đề thuộc quốc tế, dân sinh;
những vấn đề đối nội, đối ngoại và quốc phong an ninh của đất nước.
- Hoạt động tiếp xúc cử tri:
Trong thời gian giữa hai kỳ họp, đại biểu quốc hội có nhiệm vụ tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu
cử của mình, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với Quốc hội. Ngoài ra đại biểu
Quốc hội phải tiếp dân theo định kì, theo lịch tại trụ sở tiếp dân và tiếp dân tại nhà ở, tại nơi
công tác. Đại biểu Quốc hội tiếp dân để nghe dân góp ý xây dựng nhà nước đồng thời giúp
dân giải quyết những thắc mắc, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo.
Theo quy định của pháp luật, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp xúc cử tri. Đại biểu
Quốc hội chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này thông qua các hình thức chủ yếu sau đây:
- Tiếp xúc cử tri tại đơn vị bầu cử trước và sau kỳ họp Quốc hội theo sự bố trí của đoàn đại
biểu Quốc hội.
- Tiếp xúc cử tri theo chuyên đề.
- Tiếp xúc cử tri tại nơi cư trú hoặc nơi công tác
- Hoạt động đối ngoại :
Đây là những hoạt động tiến hành bên ngoài kỳ họp, bên ngoài các hoạt động kiểm tra
giám sát, thảo luận đóng góp ý kiến như đi thăm và chúc mừng các tổ chức, đoàn thể… Đây là
một hoạt đông nhằm đi sâu hơn vào đời sống nhân dân, khích lệ, động viên các tổ chức, cá
nhân xuất sắc, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
2. Thực trạng hoạt động của Đại biểu Quốc hội
2.1. Trong hoạt động xây dựng pháp luật.
• Những kết quả đạt được:
1
Điều 2, Luật Hoạt động giám sát của Quốc Hội số 05/2003/ ngày 17/6/2003
2
Đỗ Mười – Xây dựng Nhà nước của dân…, NXB Sự thật, Hà Nội, 1992.
5
Hoạt động xây dựng pháp luật của các ĐBQH trong những năm gần đây đạt được
những kết quả rất khả quan. Những vấn đề cần thiết được các đại biểu nghiêm túc đưa ra
trong các kỳ họp và được đóng góp ý kiến tương đối đầy đủ. Trong những năm vừa rồi, khá
nhiều các văn bản luật cần thiết trong cho quá trình hội nhập kinh tế thị trường được các đại
biểu đề cập như Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán…Sự nhanh nhạy trong vấn đề nhìn nhận tình
hình của các đại biểu là một yếu tố cần thiết trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của
nước ta. Trong quá trình thảo luận thông qua, một đạo luật đưa ra được nhìn dưới nhiều góc
độ khác nhau từ những vị đại biểu khác nhau, được đóng góp những ý kiến xuất phát từ thực
tế địa phương, thực tế công việc. Rất nhiều đạo luật có tính hợp lý cao nhờ sự tích cực tham
gia thảo luận của đại biểu. Quá trình sửa đổi bổ sung luật cũng được tiến hành tích cực khhi
trong thời gian gần đây, có rất nhiều bộ luật được bổ sung phù hợp hơn với thực tế đất nước.
• Một số hạn chế, vướng mắc:
Hoạt động đề xuất xây dựng và trình dự án luật dường như không được mạnh mẽ, hơn
nữa, sự cấp bách phải xây dựng luật chỉ dừng lại ở góc nhìn cá nhân. Điều quan trọng nhất ở
đây là xác lập được ưu tiên. Người phụ trách đầu tư đề nghị bổ sung Luật Đầu tư công. Người
tiếp xúc nhiều với nông dân nói đến Luật Nông dân…
Quyền sáng kiến lập pháp này chủ yếu là dừng lại ở khâu đề xuất; việc trình những dự
án luật là rất ít. Đây là một vấn đề thực tế khi phần lớn đại biểu không qua đạo tạo luật, chính
vì vậy, việc nắm bắt và đưa ra những dự án luật là điều khó khăn, cùng với đó, việc khảo sát
tình hình thực tế thực thi pháp luật đòi hỏi ở đại biểu một đầu óc quan sát nhạy bén, logic.
Qua điều tra, có đến 34.4% ĐBQH khẳng định đã từng có ý tưởng xây dựng các dự án luật,
pháp lệnh. Thế nhưng, để ĐBQH có thể trình dự án luật, cần đến nhiều điều kiện mà hiện nay
ở ta đang thiếu: quy trình rõ ràng, cụ thể; nguồn tài chính; chuyên gia giúp xây dựng một dự
luật…Đa số đại biểu (chiếm đến 70.6% tổng số ý kiến của đại biểu được hỏi) cho rằng lý do
cơ bản nhất của tình trạng trên là do pháp luật của chúng ta quy định còn khá chung chung, vì
thế mà ĐBQH không tìm ra được một cơ chế, quy trình, thủ tục thích hợp để biến quyền hiến
định của mình trở nên dễ dàng khi triển khai trên thực tế. Hơn nữa, tính kỷ luật của các cơ
quan soạn thảo luật nhìn chung chưa cao. Đa số các cơ quan trình vi phạm về thời gian, ảnh
hưởng đến chất lượng và tiến độ thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của QH.
Trước đây, với quy trình làm luật cũ, mỗi năm quốc hội thông qua khoảng 4 – 5 đạo
luật. Những nhiệm kỳ quốc hội gần đây, quốc hội thông qua 10 – 12 đạo luật/ năm, rồi 10- 12
đạo luật/Kỳ họp và cho ý kiến vào hàng chục dự án luật khác. Số lượng dự án luật trình quốc
hội xem xét, thông qua tại mỗi Kỳ họp tăng lên, trong khi đó quốc hội chúng ta vẫn họp một
năm hai kỳ. Nếu căn cứ vào con số nêu trên thì đây thực sự là sức ép rất lớn. Như vậy, cùng
một lúc rất khó để bảo đảm đủ cả 4 điều kiện: nhanh - nhiều - tốt - rẻ.
Một văn bản luật hợp lý phải được thay đổi bổ sung trong cả quá trình thực thi để có
hiệu quả cao nhất trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội; nó được thực hiện trong hoạt động
phổ biến của đại biểu. Chính trong quá trình đưa pháp luật vào đời sống nhân dân, đại biểu có
thể nhận thấy một số điểm bất cập khi áp dụng vào thực tế.Tuy nhiên, việc nhận thu nhận
những ý kiến về việc sửa đồi bổ sung Luật chỉ rất nhỏ lẻ, các đại biểu chưa thể tập hợp một
cách có hệ thống.
2.2. Trong hoạt động giám sát
Về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội:
6