Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Thực trang ban hành văn bản pháp luật trái thẩm quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.18 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 2
Nội dung
I. Khái quát vấn đề thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật ở nước ta 2
II. Thực trang ban hành văn bản pháp luật trái thẩm quyền 3
III. Nguyên nhân 5
IV. Giải pháp 6
Kết luận 8
Danh mục tài liệu tham khảo 9
1
LỜI MỞ ĐẦU
Ban hành văn bản pháp luật là việc đưa văn bản tới đối tượng tác động để
thực hiện. Tùy theo loại văn bản pháp luật và hình thức ban hành văn bản, thẩm
quyền của mỗi cơ quan ban hành văn bản cũng là khác nhau. Ví dụ như Công bố
là văn bản qui phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; đăng
công bào Chính phủ thuộc thẩm quyền của các cơ quan trung ương, hoặc công
báo địa phương thuộc thẩm quyền của các cơ quan cấp tỉnh,... Tuy nhiên, thực
tiễn cho thấy vẫn còn văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, thậm chí có những văn
bản tồn tại trong thời gian tương đối dài trước khi bị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xử lí. Góp phần tìm hiểu nguyên nhân, hạn chế tình trạng trên, bài viết
dưới đây xin đề cập đến một số vấn đề liên quan đến việc ban hành văn bản pháp
luật trái thẩm quyền.
NỘI DUNG
I. Khái quát vấn đề thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật ở nước ta
Hiện nay, pháp luật qui định rất nhiều về chủ thể có quyền ban hành
văn bản pháp luật, như các cơ quan quyền lực, hành chính, kiểm sát,
xét xử; người đứng đầu và một số công chức khác của các cơ quan nhà
nước; tổ chức xã hội hoặc cá nhân được ủy quyền quản lí nhà nước đối
với một số công việc cụ thể (công đoàn hoặc người chỉ huy tàu bay,
tàu biển,...)


Để ban hành một văn bản pháp luật đúng thẩm quyền, cần phải đảm
bảo hai phương diện về thẩm quyền là thẩm quyền hình thức và thẩm
quyền nội dung của chủ thể ban hành văn bản. Chỉ những chủ thể do
pháp luật qui định mới có quyền ban hành văn bản pháp luật. Nếu văn
bản được ban hành bởi một cá nhân hay tổ chức mà pháp luật không
2
qui định về thẩm quyền ban hành thì văn bản đó không có hiệu lực
pháp luật.
II. Thực trạng ban hành văn bản pháp luật trái thẩm quyền
Có thể nói, trong số các văn bản pháp luật thì văn bản qui phạm pháp
luật chiếm số lượng lớn hơn cả. Vì vậy, những sai phạm xảy ra trong
việc ban hành loại văn bản này cũng nhiều hơn so với các loại văn bản
pháp luật khác. Thẩm quyền ban hành văn bản qui phạm pháp luật
được qui định cụ thể tại Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật
(sau đây gọi là Luật). Tại khoản 1, Điều 1 qui định: “Văn bản qui
phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối
hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được qui
định trong Luật này hoặc trong Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, trong đó có qui tắc xử
sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực
hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội”. Khoản 2 Điều này qui định
tiếp “Văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành
không đúng thẩm quyền... thì không phải là văn bản qui phạm pháp
luật” và Điều 3 về nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản qui phạm
cũng qui định nguyên tắc “tuân thủ thẩm quyền”. Theo các qui định
trên thì việc văn bản qui phạm pháp luật phải được ban hành đúng
thẩm quyền là một tiêu chuẩn bắt buộc. Tuy nhiên, thực trạng về việc
ban hành hiện nay còn rất nhiều hạn chế.
Thứ nhất, từ Điều 11 đến Điều 20 trong Luật qui định về thẩm quyền ban
hành văn bản của từng cơ quan, trong đó xác định mỗi cơ quan được quyền ban

hành văn bản qui phạm về những vấn đề gì. Tuy nhiên, xem xét toàn bộ quá trình
xây dựng văn bản thì những quy định này dường như chỉ riêng cơ quan ban hành
văn bản phải quan tâm. Sau khi cơ quan ban hành đã xác định vấn đề nào họ cần
3
ban hành văn bản để điều chỉnh thì các chủ thể khác tham gia vào quá trình xây
dựng văn bản mặc nhiên coi là đúng thẩm quyền. Chẳng hạn, cơ quan soạn thảo
tiến hành rất nhiều hoạt động như tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá văn
bản pháp luật hiện hành, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội
dung dự thảo, đánh giá tác động xã hội của dự thảo... nhưng gần như không có
hoạt động nào có mục đích xác định dự thảo có đúng thẩm quyền của cơ quan
ban hành không. Tương tự như vậy, cơ quan thẩm tra, thẩm định dự án, dự thảo
văn bản là cơ quan có mục đích hoạt động là phát hiện những sai sót của văn bản
ngay trong quá trình xây dựng nhưng phạm vi thẩm tra cũng không bao hàm nội
dung xem xét văn bản có được ban hành đúng thẩm quyền hay không
1
. Lẽ dĩ
nhiên, trách nhiệm chính trong việc xác định vấn đề cần ban hành văn bản có
đúng thẩm quyền hay không thuộc về cơ quan ban hành văn bản, nhưng thực tế
tồn tại các văn bản ban hành trái thẩm quyền cho thấy vấn đề này cần được sự
quan tâm của các chủ thể khác nữa.
Thứ hai là về vấn đề giám sát, kiểm tra, xử lí, rà soát, hệ thống hóa văn
bản. Các hoạt động này được thực hiện bởi chính cơ quan ban hành văn bản và
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Tuy nhiên, mục đích của giám sát,
kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa pháp luật lại chỉ là phát hiện những nội dung sai
trái, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của
đất nước để kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ mà không có mục
đích phát hiện văn bản ban hành trái thẩm quyền
2
. Đồng thời, nếu xem xét kỹ các
quy định về thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu

trái pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, thì thực ra các cơ quan này chỉ kiểm tra, xử lý các văn bản có nội
1
Khoản 3 Điều 36, Điều 43 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
2
Điều 87, 93 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
4
dung trái với các văn bản pháp luật có hiệu lực cao hơn mà không kiểm tra, xử lý
văn bản ban hành trái thẩm quyền. Như vậy, một mặt, việc hạn chế khả năng ban
hành văn bản trái thẩm quyền không được chú trọng đúng mức trong quá trình
xây dựng văn bản, mặt khác, khi văn bản đã ban hành trái thẩm quyền thì các
hoạt động phát hiện, xử lý sau khi văn bản đã được ban hành cũng thiếu cơ sở
pháp lý, không được quan tâm đầy đủ nên khó tránh khỏi tình trạng có những
văn bản trái thẩm quyền tồn tại trong hệ thống pháp luật. Phải chăng so với sai
phạm khác như văn bản có nội dung trái pháp luật thì trái thẩm quyền không phải
là sai phạm lớn nên ít được chú ý hơn? Ngoài nguy cơ ảnh hưởng đến sự hài hòa,
thống nhất trong thực hiện quyền lực nhà nước và khó đảm bảo chất lượng văn
bản như đã nói ở trên thì văn bản ban hành trái thẩm quyền còn có thể có những
biểu hiện bất lợi khác nữa trong quản lý nhà nước. Chẳng hạn, sau khi Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 có hiệu lực thì chính quyền địa phương
không còn quyền ban hành văn bản quy định về hành vi vi phạm hành chính và
xử lý vi phạm hành chính, nhưng hầu hết các địa phương trong cả nước vẫn ban
hành văn bản quy định về những vấn đề này. Giả sử quyết định của Uỷ ban nhân
dân một tỉnh quy định một hành vi nào đó là vi phạm hành chính nhưng hành vi
này lại không được coi là vi phạm hành chính theo quy định trong các văn bản
của Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội, thì người bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi này có quyền khiếu nại về quyết định xử phạt vi
phạm hành chính không? Sự nguy hiểm của văn bản ban hành trái thẩm quyền
trong trường hợp này thể hiện không chỉ ở khả năng xâm phạm các quyền, lợi ích
chính đáng của đối tượng tác động, mà nó còn tước đi khả năng tự bảo vệ hay

yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của họ.
III. Nguyên nhân
5

×