Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tóm tắt luận án tiên sĩ nguồn gốc hình thành và đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa của thành ngữ thuần việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.34 KB, 25 trang )

1

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ, chúng ta
thường sử dụng thành ngữ để làm cho lời nói sinh động, tạo ấn tượng
sâu sắc đối với người đọc, người nghe. Thành ngữ được sử dụng trong
lời ăn tiếng nói hàng ngày quen thuộc đến mức không cần biết đến
nguồn gốc của chúng. Các thành ngữ tiếng Việt được ra đời từ khi nào?
Chúng có xuất xứ từ đâu? Những thành ngữ nào thì được coi là thành
ngữ có nguồn gốc Việt? Những câu hỏi này ít nhiều đã được đặt ra trong
các cơng trình nghiên cứu thành ngữ, nhưng lại chưa được giải quyết
một cách toàn diện, triệt để và hệ thống, có cơ sở khoa học, nhiều khi
mang tính chất "từ nguyên dân gian". Từ cách đặt vấn đề nói trên, đề tài
luận án tiến hành tìm hiểu nguồn gốc ra đời của thành ngữ thuần Việt.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1 Giai đoạn trước 1945
Ở giai đoạn trước 1945, thành ngữ hầu như chưa trở thành một đối
tượng nghiên cứu độc lập của ngành ngôn ngữ học, mà nó thường được
xem xét chung với tục ngữ. Những tác giả đầu tiên chú ý đến loại đơn vị
này là Phạm Quỳnh, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (1928), Dương Quảng
Hàm (1924).
2.2 Giai đoạn sau năm 1945
Ở giai đoạn này, thành ngữ trở thành tâm điểm nghiên cứu của nhiều
nhà Việt ngữ học. Vì vậy, những kết quả nghiên cứu về thành ngữ nói
chung đã đạt được trên nhiều phương diện. Các vấn đề như khái niệm
thành ngữ, đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của thành ngữ, phân biệt
thành ngữ với tục ngữ... đã được các nhà Việt ngữ học khai thác triệt để
và đã có quan điểm đồng thuận. Bên cạnh đó, một số vấn đề khác như
nguồn gốc của thành ngữ, mối quan hệ giữa thành ngữ và văn hóa bước
đầu cũng đã được đề cập đến, song chưa có lời giải đáp thỏa đáng.




2

3. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được chúng tôi sử dụng bao gồm:
Phương pháp hệ thống, phương pháp miêu tả, phương pháp phân tích
diễn ngơn, phương pháp so sánh - lịch sử.
4. Mục đích, đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích
Luận án muốn thử nghiệm đề xuất và áp dụng cách truy tìm lai
lịch, nguồn gốc ra đời, cơ sở hình thành và ý nghĩa từ nguyên khoa học
của thành ngữ thuần Việt, qua đó giúp hiểu rõ những đặc điểm văn hóa,
tư duy của người Việt. Đồng thời, luận án cũng mong muốn làm sáng tỏ
đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa của thành ngữ thuần Việt qua hiện tượng
biến thể và các quan hệ đồng nghĩa - trái nghĩa thành ngữ, từ đó thúc đẩy
sự phát triển lĩnh vực nghiên cứu thành ngữ học tiếng Việt và bộ môn từ
nguyên học ở Việt Nam .
4.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các thành ngữ thuần Việt, tức là
các thành ngữ do người Việt sáng tạo ra phản ánh thực tế đời sống, cách
cảm, cách nghĩ của con người Việt Nam. Do vậy, chúng tôi loại bỏ
những thành ngữ Hán Việt thực sự. Ví dụ: bạo hổ bằng hà, ác nhân sát
đức, bạch diện thư sinh, v.v...Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu,
trong một số trường hợp, chúng tôi chấp nhận cả những trường hợp
trung gian giữa thành ngữ và tục ngữ.
4.3 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu thành ngữ nói chung
- Nghiên cứu những vấn đề lí thuyết có liên quan đến đề tài
- Xác định nguồn gốc, xuất xứ ra đời của các thành ngữ thuần Việt

- Tìm hiểu đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa của thành ngữ thuần Việt
qua hiện tượng biến thể thành ngữ và quan hệ đồng nghĩa - quan hệ trái
nghĩa thành ngữ.


3

5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
5.1 Ý nghĩa khoa học
Giải quyết tốt vấn đề, luận án góp phần hồn thiện việc nghiên cứu
thành ngữ từ góc độ nguồn gốc và những đặc điểm cấu trúc (hiện tượng
biến thể), ngữ nghĩa (quan hệ đồng nghĩa - trái nghĩa). Qua đó, luận án
cũng khẳng định những giá trị văn hóa dân tộc được kết tinh trong thành
ngữ. Các kết quả nghiên cứu cịn góp phần phát triển bộ môn từ nguyên
khoa học vốn chưa phát triển ở nước ta.
5.2 Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, qua việc tìm hiểu nguồn gốc, xuất xứ của thành
ngữ, luận án góp phần hữu ích vào việc giúp hiểu đúng, hiểu chính xác
nghĩa của thành ngữ, từ đó sử dụng thành ngữ đúng và hay trong giao
tiếp, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Những kết quả
nghiên cứu cịn có giá trị hữu ích trong việc giảng dạy và học tập chuyên
đề Thành ngữ tiếng Việt cho sinh viên các ngành Việt Nam học, Cử nhân
Văn học. Việc dạy và học thành ngữ không chỉ thuần túy cung cấp cho
sinh viên những kiến thức ngôn ngữ học mà còn giúp họ thấy được
những giá trị văn hóa dân tộc ẩn tàng trong thành ngữ.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận,Tài liệu tham khảo, luận án gồm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề lí thuyết
Chương 2: Nguồn gốc của thành ngữ thuần Việt

Chương 3: Đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa của thành ngữ thuần Việt.


4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT
1.1 Một số vấn đề lí thuyết về thành ngữ
1.1.1 Khái niệm thành ngữ
Thành ngữ là những cụm từ cố định, có sẵn, được lưu truyền trong
dân gian từ đời này sang đời khác. Về chức năng, thành ngữ là đơn vị
tương đương với từ, dùng để gọi tên sự vật hiện tượng hay biểu thị khái
niệm. Về ý nghĩa, thành ngữ thường mang tính hình tượng, tính bóng
bẩy, gợi tả.
1.1.2 Đặc điểm của thành ngữ
1.1.2.1 Đặc điểm kết cấu.
Thành ngữ là cụm từ có tính cố định, ổn định, chặt chẽ. Chính nhờ có
tính chất chặt chẽ, cố định mà thành ngữ được dùng tương đương như
từ.Tuy nhiên, tính cố định, ổn định và bền vững về hình thái cấu trúc của
thành ngữ khơng phải là bất biến, bất di bất dịch. Nghĩa là trong hoạt
động giao tiếp, người ta vẫn chấp nhận việc sử dụng thành ngữ một cách
sáng tạo, linh hoạt. Hai đặc tính nói trên của thành ngữ khơng hề mâu
thuẫn, loại trừ nhau mà có tác dụng bổ sung cho nhau. Chính điều này
khiến cho kho tàng thành ngữ ngày càng được mở rộng, phong phú hơn
do xuất hiện nhiều biến thể của một thành ngữ.
1.1.2.2 Đặc điểm ngữ nghĩa.
Đặc trưng nổi bật về nghĩa của thành ngữ là tính hồn chỉnh, bóng
bẩy và tính gợi cảm cao. Nghĩa của thành ngữ không phải là nghĩa đen
của các yếu tố cấu thành cộng lại mà là nghĩa bóng, nghĩa tồn khối.
Nghĩa này được suy ra từ nghĩa của các yếu tố cấu thành. Chẳng hạn,

thành ngữ kén cá chọn canh khơng có nghĩa là kén chọn cá ngon, canh


5

ngọt trong ăn uống mà dùng để chỉ người phụ nữ kén chọn chồng q kĩ
do cầu kì hoặc khó tính.
1.1.3 Cấu tạo và phân loại thành ngữ
1.1.3.1 Đặc điểm cấu tạo.
Dựa vào hình thức, thành ngữ được phân chia thành hai loại: Thành
ngữ có kết cấu chủ vị hay kết cấu liên hợp chủ vị, chẳng hạn như mèo
mù vớ cá rán, chó cắn áo rách, nhà tan cửa nát,... và thành ngữ có kết
cấu là một cụm từ, chẳng hạn tay búp măng, chạy long tóc gáy...
1.1.3.2 Phân loại thành ngữ.
Dựa vào cơ chế cấu tạo, nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ chia thành ngữ
tiếng Việt thành hai loại là thành ngữ so sánh và thành ngữ miêu tả ẩn
dụ. Cũng dựa vào cơ chế cấu tạo, nhưng Nguyễn Thiện Giáp (1999) lại
chia thành ngữ thành hai loại lớn, đó là thành ngữ hịa kết và thành ngữ
hợp kết.
1.2 Khái niệm thành ngữ thuần Việt. Để xác định khái niệm thành
ngữ thuần Việt và các tiêu chí nhận diện, chúng tôi bắt đầu từ việc xác
định khái niệm từ thuần Việt, bởi lẽ thành ngữ thuần Việt trước hết được
cấu tạo từ các từ thuần Việt.
1.2.1 Khái niệm từ thuần Việt
Xét theo nguồn gốc, có thể chia hệ thống từ vựng tiếng Việt thành
hai mảng lớn là từ thuần Việt (hay từ bản ngữ) và từ vay mượn (hay từ
ngoại lai). Từ vay mượn là những từ tiếng Việt mượn của các ngôn ngữ
khác nhưng được cải tạo về hình thức ngữ âm và ngữ pháp để phù hợp
với đặc điểm của tiếng Việt. Bên cạnh các từ vay mượn, hệ thống từ
vựng tiếng Việt cịn có những từ cơ bản, biểu thị các sự vật, hiện tượng,

tính chất, quan hệ… xuất hiện lâu đời cùng với cộng đồng sử dụng ngơn
ngữ. Đó chính là các từ thuần Việt. Lớp từ thuần Việt là cốt lõi của từ


6

vựng tiếng Việt. Nó là chỗ dựa và có vai trò điều khiển, chi phối hoạt
động của mọi lớp từ khác.
Ở đây, cần lưu ý khái niệm thuần Việt. Khi nói từ thuần Việt là
chúng tơi nhằm đối lập từ thuần Việt với từ không thuần Việt, tức là
những từ không phải gốc Việt.Từ thuần Việt chỉ bao gồm những từ do
người Việt tự sáng tạo ra mà không bao hàm các từ vay mượn. Đó phải
là các từ gốc Mơn- Khơ me. Tuy nhiên, trong q trình phát triển của
tiếng Việt, cách đây hàng ngàn năm nó đã có sự vay mượn các từ thuộc
ngôn ngữ của các dân tộc khác cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam
mà không phải tiếng Hán, như các ngôn ngữ Tày - Thái, (ví dụ các từ:
bánh, bát, bóc, ngọn...). Cho nên khái niệm thuần Việt mà chúng tôi sử
dụng ở đây chỉ mang tính tương đối và quy ước chỉ lớp từ trong tiếng
Việt đối lập với các từ vay mượn từ tiếng Hán và các ngơn ngữ Ấn Âu.
Theo đó từ thuần Việt là tất cả những từ còn lại trong tiếng Việt sau
khi đã trừ đi các từ Hán Việt và các từ gốc Hán khác(kiểu như sủi cảo,
ca la thầu…) và các từ vay mượn từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga.
Để phân biệt từ thuần Việt và từ Hán Việt có thể dựa vào ba tiêu chí
ngữ âm, ngữ nghĩa và màu sắc phong cách. Ví dụ, về ngữ âm: Ở bộ phận
âm đầu: Hán Việt không có các âm g, r. Vậy những tiếng nào bắt đầu
bằng những phụ âm này thì chắc chắn là những âm thuần Việt. Hoặc ở
phần vần: Các vần sau đây chỉ xuất hiện trong tiếng Hán: Uyên;Ưu;
Uyết,Uy... ví dụ: tuy, tùy, tủy, quy, quý, quỷ…Các vần sau đây chỉ có ở
tiếng hay từ đơn thuần Việt: Om, on, ong, oi; Im, in, ip, it, iu ...
Ngồi những tiêu chí kể trên, chúng tơi cũng lưu ý “bất kì âm tiết nào

có thể hoạt động làm thành từ đơn tiết đều được xem là từ thuần Việt”.
Thêm vào đó, chính cảm thức ngôn ngữ của mỗi người là yếu tố quyết định
tính thuần Việt hay phi thuần Việt của các từ.
1.2.2 Khái niệm thành ngữ thuần Việt.


7

Để phục vụ mục đích nghiên cứu, chúng tơi tạm thời đề xuất một
quan niệm về thành ngữ thuần Việt như sau: Thành ngữ thuần Việt là
những thành ngữ do người Việt tự sáng tạo dựa trên những chất liệu ngữ
âm thuần Việt, phản ánh đời sống văn hóa, tinh thần, phong tục tập
quán, thói quen, nếp cảm, nếp nghĩ của người Việt. Dấu ấn thuần Việt
của thành ngữ thể hiện ở các phương diện ngữ âm, ngữ nghĩa, màu sắc
phong cách và cấu trúc.
1.3 Tiểu kết chương 1
Nằm trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, thành ngữ chiếm một vị trí
đặc biệt quan trọng. Nó vừa là đơn vị ngơn ngữ vừa là đơn vị văn hóa.
Thành ngữ là những cụm từ cố định có kết cấu chặt chẽ, ổn định, cố
định và có nghĩa bóng bẩy, nghĩa biểu trưng.
Thành ngữ thuần Việt trước hết là những thành ngữ do người Việt tự
sáng tạo dựa trên những chất liệu ngữ âm thuần Việt, phản ánh đời sống
văn hóa, tinh thần, phong tục tập quán, thói quen, nếp cảm, nếp nghĩ của
người Việt. Tính chất thuần Việt của thành ngữ thể hiện ở các phương
diện ngữ âm, ngữ nghĩa, màu sắc phong cách và cấu trúc.
CHƯƠNG 2
NGUỒN GỐC THÀNH NGỮ THUẦN VIỆT
Trong luận án khái niệm "nguồn gốc" được hiểu theo 2 phương diện:
thứ nhất là xuất xứ không gian ra đời: thành ngữ này là của dân tộc nào,
địa phương nào (ví dụ: thành ngữ gốc Hán…); thứ hai: cơ sở văn hóa xã hội, phong tục, tập quán….để một thành ngữ ra đời (ví dụ: thành ngữ

ra đời từ phong tục ma chay hay cưới xin, hay từ một tích truyện….).


8

Do vậy để xác định được nguồn gốc của từng thành ngữ thuần Việt cụ
thể, trước hết cần làm sáng tỏ những nhân tố làm cơ sở cho sự hình
thành và ra đời của các thành ngữ nói chung, của các thành ngữ thuần
Việt nói riêng.
2.1 Những cơ sở cho sự hình thành và ra đời của thành ngữ
Cơ sở quan trọng mà chúng tơi dựa vào để tìm ra nguồn gốc của
thành ngữ là những thành tố của hệ thống văn hóa Việt Nam, bao gồm
bốn yếu tố: văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng
xử với mơi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.
Đi vào cụ thể hơn, việc xác định nguồn gốc ra đời của thành ngữ nói
chung, thành ngữ thuần Việt nói riêng, cần phải dựa vào phạm vi sử
dụng của chúng. Trên cơ sở này, qua sự khảo sát và phân tích tư liệu,
chúng tơi bước đầu xác định được thành ngữ có thể mới đầu ra đời và
được sử dụng trong phạm vi đời sống toàn dân hay chỉ ở một địa phương
cụ thể nào đó (ví dụ: Thành ngữ đèo heo hút gió liên quan đến thành ngữ
đèo Neo hút gió ở Bắc Giang- nơi có địa danh Đèo Neo) hay trong phạm
vi một ngành nghề thủ cơng nào đó (ví dụ: già kém kẹn hom được sử
dụng ban đầu trong nghề thủ công ươm tơ dệt vải). Hoặc thành ngữ chủ
yếu được sử dụng trong sách vở, liên quan đến các điển tích , điển cố (ví
dụ: bát cơm Phiếu Mẫu, …). Do vậy dựa vào các phạm vi sử dụng chủ
yếu có thể xác định được các nguồn gốc ra đời đầu tiên của thành ngữ
nói chung, thành ngữ thuần Việt nói riêng:
- Thành ngữ có nguồn gốc từ đời sống tồn dân
- Thành ngữ có nguồn gốc từ địa phương
- Thành ngữ có nguồn gốc từ các ngành nghề thủ cơng nghiệp

- Thành ngữ có nguồn gốc từ sách vở (tích truyện dân gian, tích
truyện Trung Quốc, tác phẩm văn học nổi tiếng)
2.2 Nguồn gốc ra đời của thành ngữ thuần Việt


9

2.2.1 Thành ngữ ra đời từ đời sống toàn dân. Loại này lại được chia
thành một số nhóm nhỏ như sau:
2.2.1.1 Thành ngữ phản ánh đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Việt.
Đây là loại thành ngữ thuần Việt có số lượng nhiều nhất đồng thời
cũng là lớp thành ngữ có mức độ thuần Việt cao nhất. Chúng gồm một
số nhóm nhỏ như sau:
- Thành ngữ ra đời từ phong tục tập quán của người Việt. Ví dụ: cha
đưa mẹ đón, vui như trảy hội, đơng như đám hội, ...
- Thành ngữ có xuất xứ từ quan niệm tín ngưỡng, tơn giáo của người
Việt, điển hình là đạo Phật. Ví dụ: hiền như bụt, đi với bụt mặc áo cà sa,
đi với ma mặc áo giấy...
- Thành ngữ có xuất xứ từ văn hóa nhận thức của người Việt.Ví dụ: ba
bè bảy mối, ba chốn bốn nơi, chia năm sẻ bảy, v.v...
- Thành ngữ có xuất xứ từ văn hóa đi lại của người Việt.Ví dụ: vụng
chèo khéo chống, bốc mũi bỏ lái, mũi dại lái phải chịu đòn..
Phần lớn các thành ngữ thuộc nhóm này có xuất xứ từ những thói
quen, nếp nghĩ hay lối sống trong đời sống sinh hoạt và lao động hàng
ngày của người Việt. Chẳng hạn: cơm hẩm cà thiu, cơm hẩm mắm
chườm, chó chui gầm chạn, ăn mắm mút giòi, chân lấm tay bùn, buôn
thúng bán mẹt, vai u thịt bắp, cổ cày vai bừa, ,..
- Thành ngữ có xuất từ từ văn hóa ăn uống. Ví dụ: chém to kho mặn,
thái to bung dừ, cơm chiêm mắm mặn, cơm hẩm cà thiu, trơn như đổ
mỡ...

- Thành ngữ có xuất xứ từ văn hóa mặc. Ví dụ: áo vải quần nâu, áo
thơ giày cỏ, áo lụa quần hồng, mớ ba mớ bảy,...
- Các trò chơi dân gian cũng là nơi sản sinh ra nhiều thành ngữ thuần
Việt:cờ gian bạc bịp, cờ gian bạc lận, bắt cá hai tay, thò lò sáu mặt, ...


10

2.2.1.2 Thành ngữ thuần Việt phản ánh đặc tính sinh học của các lồi
động thực vật.

10
Ví dụ: chuồn chuồn đạp nước, nước mắt cá sấu, te tái như gà mái
nhảy ổ, mặt rỗ như tổ ong, cổ ngẳng như cổ cò; tươi như hoa, ngang
cành bứa, rách như tổ đỉa... Nhìn chung, các thành ngữ thuộc nhóm này
phản ánh rõ cách nhìn nhận, quan sát, đánh giá của người Việt về tập
tính của các lồi động thực vật, từ đó tạo nên các thành ngữ.
2.2.2 Thành ngữ có xuất xứ từ địa phương
Ví dụ: vênh váo như bố vợ phải đấm có nguồn gốc từ tỉnh Hà Nam,
chiêm khê mùa thối có xuất từ từ vùng đồng chiêm trũng (Nam Định, Hà
Nam), cơng tử Bạc Liêu có xuất xứ từ tỉnh Bạc Liêu...
2.2.3 Thành ngữ thuần Việt phản ánh đặc điểm, q trình sản xuất
của các ngành nghề thủ cơng. Ví dụ: mỏng mày hay hạt, chân chỉ hạt
bột, nát như tương bần...
2.2.4 Thành ngữ có nguồn gốc từ sách vở. Ví dụ: con rồng cháu
tiên, đẽo cày giữa đường, nói dối như cuội, vắt cổ chày ra nước...Trong
nhóm này có một số thành ngữ thuần Việt được hình thành từ sự vay
mượn chất liệu của tiếng Hán, thường là mượn tên riêng của các nhân
vật trong truyện hoặc sử sách của Trung Quốc. Ví dụ: nóng như Trương
Phi, đa nghi như Tào Tháo, lẩy bẩy như Cao Biền dậy non.. Nhóm thành

ngữ này chiếm một số lượng khơng nhiều.
Ngồi ra có thể cịn có một số thành ngữ Việt được hình thành
do người Việt tự tạo lập bằng chất liệu từ ngữ Hán - Việt. Các thành ngữ
này không hề có trong tiếng Hán. Loại thành ngữ này được hình thành
bằng cách ghép các yếu tố Hán - Việt có sẵn để tạo nên thành ngữ. Đây
là những thành ngữ rất dễ lẫn lộn với những thành ngữ gốc Hán đích
thực. Ví dụ, ghép các yếu tố bán, thân, bất toại để tạo nên thành ngữ
bán thân bất toại với nghĩa nửa người bị bại liệt. Hoặc ghép hai từ ghép


11

Hán Việt anh hùng và liệt nữ tạo thành anh hùng liệt nữ, để chỉ người
đàn bà có khí tiết.Theo chúng tơi, nhóm thành ngữ này cần có sự khảo
sát một cách kĩ lưỡng thì mới có thể chỉ ra được nguồn gốc xuất xứ của
chúng.
Tóm lại, những điều trình bày trên đây giúp chúng ta hình dung
một cách khái quát về các nguồn ngữ liệu hình thành nên kho tàng thành
ngữ thuần Việt. Số lượng các thành ngữ thuần Việt có thể rất nhiều
nhưng tựu trung các thành ngữ khơng phải có nguồn gốc đâu xa mà nó
bắt nguồn từ chính những gì quen thuộc trong đời sống hàng ngày, từ lời
ăn tiếng nói của dân tộc. Bằng sự liên tưởng chuyển nghĩa (theo hai
phương thức cơ bản là ẩn dụ và hoán dụ), người Việt đã tạo nên kho tàng
thành ngữ vô cùng phong phú và đa dạng của riêng mình.
2.3 Một số thành ngữ có nhiều cách giải thích nguồn gốc
Như trên đã thấy, dựa vào nghĩa đen của các thành tố cấu tạo, chúng ta
có thể xác định nguồn gốc ra đời của thành ngữ. Tuy nhiên, đối với một
số thành ngữ, việc truy tìm nguồn gốc của chúng là rất khó khăn, bởi
nhiều lí do khác nhau. Dựa vào những tư liệu thu thập được, chúng tơi
chia các thành ngữ này thành ba nhóm như sau:

2.3.1 Những thành ngữ có nhiều cách giải thích do dựa vào những
hiện tượng văn hóa khác nhau.
Ví dụ: vắng như chùa bà đanh, vụng chèo khéo chống... có 21 thành
ngữ thuộc nhóm này.
2.3.2 Thành ngữ có nhiều cách giải thích nguồn gốc do có hiện
tượng biến thể của thành tố cấu tạo.
Ví dụ: mũi vạy lái phải chịu địn và mũi dại lái phải chịu địn, chờ
được vạ thì má đã sưng và chờ được mạ thì má đã sưng hay chờ được


12

nạ thì má đã sưng v.v...Số lượng các thành ngữ thuộc nhóm này là 23
đơn vị.
2.3.3 Thành ngữ được giải thích có xuất xứ cả từ trong tiếng Việt và
trong tiếng Hán.
Ví dụ: ếch ngồi đáy giếng, ơm cây đợi thỏ, v.v...
2.4 Một số nguyên nhân khiến một thành ngữ có nhiều cách giải
thích nguồn gốc khác nhau
Ngun nhân thứ nhất: do một số yếu tố cấu tạo nên thành ngữ đã trở
thành từ cổ.
Nguyên nhân thứ hai, một số thành ngữ đã tách hẳn khỏi môi trường
cụ thể của ngành nghề đã sản sinh ra chúng để trở thành lối nói chung
của tồn xã hội
Ngun nhân thứ ba, đó là do chúng bị cách giải thích theo từ nguyên
dân gian làm cho "méo mó".
2.5 Tiểu kết chương 2
Dựa vào quy luật ngơn ngữ và các yếu tố văn hóa, chúng tôi đã xác
định được những nguồn chủ yếu tạo nên thành ngữ thuần Việt. Số
lượng thành ngữ thuần Việt rất lớn, lại liên tục được bổ sung theo thời

gian, nhưng chung quy lại chúng được hình thành từ mấy nguồn chính
sau đây:
- Từ các phong tục của người Việt như phong tục hôn nhân, tang ma,
lễ tết và lễ hội; các tín ngưỡng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thần
linh, tư tưởng sùng bái con người, sùng bái thiên nhiên và các loài động
thực vật.
- Các lĩnh vực văn hóa khác nhau như văn hóa ăn uống, văn hóa mặc,
văn hóa ở, văn hóa đi lại.
- Từ các tích truyện dân gian, nhân vật điển hình trong các tác phẩm
văn học nổi tiếng.


13

- Một số thành ngữ do người Việt tạo ra bằng cách mượn các điển
tích, điển cố tiếng Hán, được Việt hóa về ngữ âm để làm chất liệu cấu
tạo theo lối tư duy và quy tắc ngữ pháp của tiếng Việt.

13

Khi các thành tố cấu tạo thành ngữ đều có ý nghĩa rõ ràng, thành ngữ
khơng chứa từ cổ, từ ít dùng hoặc khơng có sự biến dạng về ngữ âm thì
mối liên hệ giữa thành ngữ và nguồn gốc hiện ra rõ ràng. Bên cạnh đó,
cịn có một số thành ngữ được giải thích xuất xứ từ nhiều nguồn khác
nhau do trong thành ngữ có những từ ngữ cổ, nghĩa cổ hoặc có sự biến
dạng ngữ âm khiến thành ngữ khó hiểu hoặc có nhiều cách hiểu khác
nhau về ý nghĩa. Khi đó dễ có sự tác động của cách lí giải theo từ
nguyên dân gian.
Trong sự ra đời của thành ngữ thuần Việt, bên cạnh sự chi phối của
các nhân tố ngồi ngơn ngữ (như thời gian, khơng gian), cịn có sự tác

động của các quy luật ngôn ngữ mà nổi bật là quy luật liên tưởng. Có
hai quy luật liên tưởng quan trọng, đó là liên tưởng tương đồng (tạo
nên các thành ngữ ẩn dụ), liên tưởng tương cận (tạo nên các thành ngữ
hoán dụ). Đặc biệt, liên tưởng đồng âm cũng là một trong những cơ sở
quan trọng tạo nên nhiều biến thể thành ngữ khiến có thể có nhiều cách
giải thích nguồn gốc khác nhau của thành ngữ.
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC - NGỮ NGHĨA CỦA
THÀNH NGỮ THUẦN VIỆT
3.1 Đặc điểm cấu trúc
3.1.1 Dẫn nhập
3.1.2 Hiện tượng biến thể của các thành ngữ thuần Việt
3.1.2.1 Sơ lược về hiện tượng biến thể của thành ngữ


14

Hiện tượng biến thể của từ và các cụm từ cố định đã được một số nhà
ngôn ngữ học trên thế giới đề cập đến. Tiêu biểu là những đóng góp của
Ju.S. Stepanov (1984), Tomita Kenji (1999)...Ở Việt Nam, trong các tài
liệu ngôn ngữ học, vấn đề biến thể của các đơn vị ngôn ngữ, đặc biệt là
biến thể của từ và cụm từ cố định bước đầu mới được chú ý qua một số
bài viết của Trương Đông San (1976), Vũ Quang Hào (1992)...Nhìn
chung các tác giả đều thống nhất ở chỗ cho rằng khái niệm biến thể của
một đơn vị ngơn ngữ chỉ áp dụng cho mặt hình thức của đơn vị đó. Có
thể nói, biến thể của một đơn vị từ vựng thực chất là sự biến đổi về hình
thức âm thanh của đơn vị đó mà khơng có sự thay đổi về mặt ý nghĩa.
3.1.2.2 Hiện tượng biến thể của các thành ngữ thuần Việt
* Định nghĩa
Biến thể thành ngữ là những dạng thức khác nhau của một thành ngữ,
có ý nghĩa biểu trưng hồn tồn giống nhau, có kết cấu ngữ pháp đồng

nhất, trong đó có thể thay đổi hình thức ngữ âm, trật tự cấu tạo hoặc
thay thế thành phần cấu tạo bằng các từ đồng nghĩa, cùng trường nghĩa.
Các biến thể của thành ngữ khơng có sự khác biệt về ý nghĩa cơ bản mà
chỉ khác nhau về sắc thái biểu cảm hay màu sắc phong cách. Ví dụ: cá
nằm trên thớt - các nằm trốc thớt, già đòn non nhẽ - già đòn non lẽ, ...
* Phân biệt thành ngữ gốc (hay thành ngữ hằng thể) và thành ngữ biến
thể: Việc phân biệt thành ngữ gốc và thành ngữ biến thể, theo chúng tôi
cần dựa trên hai phương diện đồng đại và lịch đại để xem xét. Nếu xét
trên phương diện đồng đại, thành ngữ gốc có cấu trúc ổn định, mang tính
phổ biến, tồn dân, được sử dụng rộng rãi trong mọi hồn cảnh giao tiếp.
Trong khi đó, thành ngữ biến thể có sau, ít phổ biến, có sự phá vỡ về cấu


15

trúc của thành ngữ gốc, chẳng hạn ăn gió nằm mưa và ăn gió với nằm
mưa. Đối với các thành ngữ có nhiều cách giải thích nguồn gốc, theo
chúng tơi, cần dựa trên phương diện lịch đại. Khi đó, thành ngữ gốc là
thành ngữ có trước, có chứa những từ ngữ cổ mà hiện nay khơng cịn tồn
tại trong ngơn ngữ tồn dân. Hiện nay chúng khơng cịn được sử dụng.
Cịn các thành ngữ đang sử dụng hiện nay khơng có những đặc điểm
trên, được coi là thành ngữ biến thể. Sự biến thể của những thành ngữ
này có hai dạng: biến thể về cấu trúc và biến thể về ý nghĩa.
* Kết quả thống kê phân loại thành ngữ biến thể được trình bày qua
bảng sau:
Bảng 3.1. Thành ngữ biến thể
TT

Dạng thành ngữ biến thể


Số lượng
(cặp)
91

Tỉ lệ %

1

Biến thể ngữ âm

2

Biến thể thành ngữ bằng cách thay
đổi trật tự thành tố cấu tạo
Biến thể thành ngữ bằng cách rút gọn
hoặc mở rộng

257

28.6

94

10.5

4

Biến thể thành ngữ có thành tố cấu
tạo được thay thế bằng từ đồng nghĩa


136

15,2

5

Biến thể thành ngữ có thành tố cấu
tạo được thay thế bằng từ cùng
trường nghĩa
Tổng số

320

35,5

902

100%

3

3.2 Đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ thuần Việt
3.2.1 Hiện tượng đồng nghĩa thành ngữ

10,1


16

3.2.1.1 Sơ lược tình hình nghiên cứu hiện tượng đồng nghĩa

Lịch sử nghiên cứu các từ đồng nghĩa được bắt đầu từ rất sớm. Tuy
nhiên, gặt hái được nhiều thành công ở lĩnh vực này phải kể đến công
lao của các nhà Nga ngữ học với những tên tuổi tiêu biểu như T.A
Bertagaép và V.I Zimin, Skliarốp…
3.2.1.2 Cơ sở xác định
Để xác định sự đồng nghĩa của thành ngữ trong tiếng Việt, chúng tôi
dựa vào ý kiến của M.F Palépskaja về hiện tượng đồng nghĩa ngữ pháp.
"Các đơn vị đồng nghĩa cú pháp - là những kết cấu khác loại về mặt cấu
trúc mà vẫn giữ địa vị ngữ pháp đồng nhất, biểu hiện cùng một nội dung
ý nghĩa thông báo và khác nhau bởi những sắc thái của ý nghĩa vốn được
tạo ra do sự biến đổi của ý nghĩa ngữ pháp".
3.2.1.3 Tiêu chí xác định các đơn vị thành ngữ đồng nghĩa
Để xác định quan hệ đồng nghĩa giữa các thành ngữ, chúng tơi dựa
vào tính đồng nhất và khác biệt của hai tiêu chí kết cấu ngữ pháp và nội
dung ý nghĩa. Về phương diện kết cấu ngữ pháp: đó là tính đồng nhất
hay khác biệt về kết cấu ngữ pháp. Về phương diện ý nghĩa: các thành
ngữ có ý nghĩa biểu trưng giống nhau dựa trên những hình ảnh cơ sở
khác nhau.
3.2.1.4 Định nghĩa thành ngữ đồng nghĩa
Các thành ngữ đồng nghĩa là những thành ngữ khác nhau có ý nghĩa
biểu trưng cơ bản giống nhau, có kết cấu ngữ pháp khác nhau; hoặc có
kết cấu ngữ pháp đồng nhất nhưng có sự thay thế thành phần cấu tạo
bằng các từ ngữ thuộc các trường từ vựng - ngữ nghĩa khác nhau, dựa
trên những hình ảnh cơ sở khác nhau. Các thành ngữ đồng nghĩa có thể
khác nhau về sắc thái ý nghĩa hoặc sắc thái biểu cảm.
3.2.1.5 Các quan hệ đồng nghĩa trong thành ngữ


17


Với 509 cặp thành ngữ đồng nghĩa, chúng tôi nhận thấy có ba kiểu
quan hệ đồng nghĩa trong thành ngữ. Cụ thể như sau:
Kiểu thứ nhất: một thành ngữ có ý nghĩa biểu trưng và một thành ngữ
diễn đạt ý nghĩa đen hay trực tiếp. Kiểu này có 61 cặp, chiếm tỉ lệ 12%
trong tổng số các thành ngữ đồng nghĩa. Ví dụ: mua gian bán lận - mua
thừa bán thiếu
Kiểu thứ hai: Các thành ngữ đồng nghĩa với nhau dựa trên các hình
ảnh cơ sở khác nhau. Đây kiểu quan hệ đồng nghĩa phổ biến, có 448 cặp,
chiếm tỉ lệ 88%. Ví dụ: bán mặt cho đất, bán lưng cho trời - cháy mặt
lấm lưng.
Kiểu thứ ba: Những thành ngữ có từ trung tâm thì đồng nghĩa một
cách hiển nhiên với một từ sẵn có. Ví dụ: dai như chão, dai như đỉa, dai
như bò đái đồng nghĩa với dai
3.2.1.6 Các tiêu chí phân biệt hiện tượng đồng nghĩa và biến thể của
thành ngữ thuần Việt
(1) Hình ảnh làm cơ sở cho ý nghĩa biểu trưng của thành ngữ
(2) Kết cấu ngữ pháp
Dựa vào hai tiêu chí này chúng ta có thể phân biệt các biến thể thành
ngữ và đồng nghĩa thành ngữ như sau:
Các biến thể thành ngữ là những dạng khác nhau của một thành ngữ,
có ý nghĩa biểu trưng hồn tồn giống nhau, có kết cấu ngữ pháp đồng
nhất, trong đó có thể thay đổi hình thức ngữ âm, thay đổi trật tự các
thành tố, thay thế thành phần cấu tạo bằng từ đồng nghĩa hoặc cùng
trường nghĩa, rút gọn hoặc mở rộng.
Các đồng nghĩa thành ngữ là những thành ngữ khác nhau có ý nghĩa
biểu trưng về cơ bản giống nhau, dựa trên những hình ảnh cơ sở khác
nhau, có kết cấu ngữ pháp khác nhau; hoặc có kết cấu ngữ pháp đồng


18


nhất nhưng có sự thay thế thành phần cấu tạo bằng những từ ngữ thuộc
các trường nghĩa khác nhau.
3.2.2 Hiện tượng trái nghĩa của thành ngữ thuần Việt
Một cách chung nhất, quan hệ trái nghĩa giữa các thành ngữ xảy ra khi
hai thành ngữ biểu thị ý nghĩa tương phản, đối lập nhau. Có hai trường
hợp thành ngữ trái nghĩa:
Thứ nhất, thành ngữ trái nghĩa là những thành ngữ so sánh có thành tố
trung tâm là các tính từ biểu thị những thuộc tính đối lập nhau. Chẳng
hạn, đẹp như tiên >< xấu như ma, khơ như ngói >< ướt như chuột lột ...
Thứ hai, những thành ngữ ẩn dụ cũng có thể trái nghĩa khi chúng biểu
thị những ý nghĩa tương phản, đối lập nhau dựa trên một nét nghĩa đồng
nhất. Chẳng hạn, thắt lưng buộc bụng >< vung tay quá trán, ném tiền
qua cửa sổ, v.v...
3.3 Thành tố văn hóa - lịch sử trong ý nghĩa và cấu trúc của các
thành ngữ thuần Việt
3.3.1 Sơ lược về mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa
Trên thế giới, vấn đề mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa dân tộc từ
lâu đã trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều nhà ngôn ngữ học. Ở
châu Âu có thể kể đến những tên tuổi lớn như W.Humboldt, F.de
Saussure, ở châu Mỹ là Franz Boas, E. Sapir và B. Whorf ... Ở Việt
Nam, vấn đề này cũng đã thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu và cũng đã đạt được một số thành tựu đáng kể qua các cơng
trình của Trần Ngọc Thêm (1993), Đỗ Hữu Châu (2000), Nguyễn Đức
Tồn (2002,2008,2010)...
3.3.2 Đặc trưng văn hóa- dân tộc của ý nghĩa biểu trưng
3.3.2.1 Khái niệm biểu trưng


19


Đó là cách người ta lấy một sự vật cụ thể hoặc một tính chất thích hợp
để gợi ra, liên tưởng đến một cái trừu tượng nào đó. Chẳng hạn, chim bồ
câu biểu trưng cho hịa bình.
3.3.2.2 Ý nghĩa biểu trưng trong thành ngữ thuần Việt.
Trong phần này, chúng tôi tìm hiểu đặc trưng văn hóa của dân tộc
Việt qua việc sử dụng chất liệu để tạo nghĩa biểu trưng. Do khn khổ
của luận án có hạn, cho nên chúng tôi lựa chọn một số trường hợp tiêu
biểu sau đây:
(1) Sử dụng từ chỉ bộ phận cơ thể người làm chất liệu biểu trưng
(2) Sử dụng hình ảnh các con vật làm chất liệu biểu trưng.
(3) Sử dụng chất liệu biểu trưng là thực vật
(4) Sử dụng các số đếm làm chất liệu biểu trưng
(5) Sử dụng danh từ riêng làm chất liệu biểu trưng
Qua việc sử dụng các chất liệu biểu trưng kể trên có thể nhận thấy đặc
điểm nổi bật trong tư duy ngôn ngữ của người Việt là lối tư duy hình
tượng, ưa thích những cách nói hình ảnh, ví von, giàu sắc thái biểu cảm sản phẩm của một nền văn hóa trọng tình.
3.3.3 Đặc trưng văn hóa - dân tộc trong cấu trúc của thành ngữ
tiếng Việt
3.3.3.1 Các đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam
Trong hoạt động giao tiếp, tiếng Việt có những đặc trưng như tính
biểu trưng cao. Tính biểu trưng thể hiện ở xu hướng khái quát hóa, ước
lệ hóa với những cấu trúc cân đối, hài hịa. Đây là một đặc điểm rất điển
hình của tiếng Việt. Đặc điểm thứ hai của ngôn từ Việt Nam là giàu chất
biểu cảm - sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình.
3.3.3.2 Đặc trưng văn hóa - dân tộc trong cấu trúc của thành ngữ
(1) Tính cân đối của thành ngữ thuần Việt
(2) Tính biểu cảm
3.4 Tiểu kết chương 3



20

Trong chương này, hiện tượng biến thể thành ngữ được phân biệt với
hiện tượng đồng nghĩa thành ngữ. Theo đó thành ngữ đồng nghĩa và
thành ngữ biến thể khác nhau ở chỗ:
Thứ nhất, biến thể thành ngữ là những dạng khác nhau của một thành
ngữ, có ý nghĩa biểu trưng hồn tồn giống nhau, có kết cấu ngữ pháp
đồng nhất. Còn đồng nghĩa thành ngữ là những thành ngữ khác nhau có
ý nghĩa biểu trưng về cơ bản giống nhau, dựa trên những hình ảnh cơ sở
khác nhau, có kết cấu ngữ pháp khác nhau; hoặc có kết cấu ngữ pháp
đồng nhất nhưng có sự thay thế thành phần cấu tạo bằng những từ ngữ
thuộc các trường từ vựng - ngữ nghĩa khác nhau. Thứ hai, thành ngữ
đồng nghĩa thực chất là những cách nói hình ảnh khác nhau về cùng một
sự vật hiện tượng. Việc nhìn nhận, đánh giá đối tượng theo những góc
độ khác nhau đã tạo nên những hình ảnh khác nhau về cùng một đối
tượng. Có thể nói, các thành ngữ đồng nghĩa chính là một minh chứng
cho sự giàu đẹp, phong phú và đa dạng của tiếng nói dân tộc. Đồng thời,
việc tìm hiểu các thành ngữ đồng nghĩa phần nào giúp chúng ta hình
dung bức tranh văn hóa, tư duy của dân tộc Việt Nam.Thứ ba, các thành
ngữ khơng chỉ có quan hệ đồng nghĩa với nhau mà cịn có quan hệ trái
nghĩa. Các thành ngữ đồng nghĩa và thành ngữ trái nghĩa tạo thành hai
kiểu quan hệ ngữ nghĩa lớn trong hệ thống thành ngữ.
Hơn bất cứ một đơn vị nào khác trong hệ thống từ ngữ tiếng Việt,
thành ngữ là đơn vị phản ánh đậm nét những dấu ấn văn hóa - lịch sử
của dân tộc Việt. Qua hệ thống thành ngữ thuần Việt, có thể thấy rõ đời
sống tâm hồn, tình cảm cùng lối tư duy mang đậm màu sắc nông nghiệp
của con người Việt Nam.
KẾT LUẬN



21

1. Nằm trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, thành ngữ chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó vừa là đơn vị ngơn ngữ vừa là đơn vị
văn hóa. Thành ngữ là những cụm từ cố định có kết cấu chặt chẽ, ổn
định, cố định và có nghĩa bóng bẩy, nghĩa biểu trưng.
Thành ngữ thuần Việt là những thành ngữ do người Việt tự
sáng tạo dựa trên những chất liệu ngữ âm thuần Việt, phản ánh đời
sống văn hóa, tinh thần, phong tục tập quán, thói quen, nếp cảm, nếp
nghĩ của người Việt. Tính chất thuần Việt của thành ngữ thể hiện ở các
phương diện ngữ âm, ngữ nghĩa, màu sắc phong cách và cấu trúc.
Về hình thức ngữ âm: Các thành ngữ thuần Việt trước hết là
những thành ngữ do người Việt tự sáng tạo dựa trên những chất liệu
thuần Việt. Ngồi ra, cũng có những thành ngữ do người Việt tự sáng
tạo dựa vào việc mượn một yếu tố có cơ sở từ tiếng Hán nhưng được cấu
tạo theo lối tư duy của người Việt, phản ánh đời sống tâm hồn tình cảm
của người Việt.
Về nội dung ngữ nghĩa: Thành ngữ thuần Việt phản ánh sâu sắc
những đặc trưng văn hóa - tư duy của dân tộc Việt. Do vậy, những thành
ngữ nào mang đậm dấu ấn của nền văn hóa nơng nghiệp Việt Nam thì
đều có thể coi là thành ngữ thuần Việt.
Về màu sắc phong cách: Thành ngữ thuần Việt thường mang
sắc thái dân dã, gần gũi, mộc mạc, được sử dụng phổ biến trong lời ăn
tiếng nói hàng ngày.
Có thể nói, tính chất thuần Việt của các thành ngữ được biểu hiện
rõ nét ở hai tiêu chí, đó là chất liệu ngữ âm và đặc trưng ngữ nghĩa.
2. Dựa vào các quy luật ngôn ngữ và các yếu tố văn hóa, luận
án đã xác định được các nguồn chủ yếu tạo nên thành ngữ thuần Việt.
Số lượng thành ngữ thuần Việt rất lớn, lại liên tục được bổ sung theo



22

thời gian nhưng chung quy lại chúng được hình thành từ mấy nguồn
chính sau đây:
- Từ các phong tục của người Việt, như phong tục hôn nhân,
tang ma, lễ tết và lễ hội; các tín ngưỡng như tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên, thần linh, tư tưởng sùng bái con người, sùng bái thiên nhiên và các
loài động thực vật;
- Các lĩnh vực văn hóa khác nhau như văn hóa ăn uống, văn
hóa mặc, văn hóa ở, văn hóa đi lại;
- Từ các tích truyện dân gian, nhân vật điển hình trong các tác
phẩm văn học nổi tiếng;
- Một số thành ngữ do người Việt tạo ra bằng cách mượn các
điển tích, điển cố tiếng Hán, được Việt hóa về ngữ âm để làm chất liệu
cấu tạo theo lối tư duy và quy tắc ngữ pháp của tiếng Việt.
Khi các thành tố cấu tạo thành ngữ đều có ý nghĩa rõ ràng,
thành ngữ khơng chứa từ cổ, từ ít dùng hoặc khơng có sự biến dạng về
ngữ âm thì mối liên hệ giữa thành ngữ và nguồn gốc ra đời của chúng
có thể nhận thấy rõ ràng.
Bên cạnh đó, cịn có một số thành ngữ được giải thích xuất xứ
từ nhiều nguồn khác nhau do trong thành ngữ có những từ ngữ cổ,
nghĩa cổ hoặc có sự biến dạng ngữ âm khiến thành ngữ khó hiểu hoặc
có nhiều cách hiểu khác nhau về ý nghĩa. Khi đó dễ có sự tác động của
cách hiểu theo từ nguyên dân gian. Đối với những thành ngữ này, bằng
phương pháp phân tích, phục nguyên, chúng ta có thể xác định tương
đối chính xác nguồn gốc của chúng, trả chúng về nguồn gốc xuất xứ
ban đầu.
Tìm hiểu nguồn gốc ra đời của thành ngữ thuần Việt như chúng

ta thấy quả là một vấn đề rộng lớn và phức tạp. Rộng bởi hai lẽ: Thứ
nhất là vấn đề thời gian. Các thành ngữ cũng giống như từ, vốn ra đời


23

từ rất xa xưa. Hơn nữa, chúng lại ra đời trong một xã hội Việt Nam cổ
truyền, khi mà nhận thức của con người còn rất ''ngây thơ", kinh tế
nghèo nàn, lạc hậu. Các chất liệu cấu tạo nên thành ngữ chủ yếu là
những sự vật, hiện tượng gắn bó với đời sống sinh hoạt của người xưa.
Thứ hai là vấn đề không gian. Liên quan mật thiết đến sự hình
thành của thành ngữ khơng chỉ có nhân tố ngơn ngữ mà cịn có sự chi
phối của các nhân tố ngồi ngơn ngữ như phong tục, tơn giáo, tín
ngưỡng, văn hóa...gắn với đặc điểm địa phương, vùng miền khác nhau.
Chính những lí do kể trên khiến cho việc truy tìm nguồn gốc thành ngữ
địi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành, thống hợp. Bất kì một sự
nghiên cứu nào về nguồn gốc của thành ngữ nếu bỏ qua một trong hai
phương diện trên đều là sự nghiên cứu phiến diện, dễ dẫn đến sai lầm.
Trong sự ra đời của thành ngữ, bên cạnh sự chi phối của các
nhân tố ngồi ngơn ngữ như đã kể trên, cịn có sự tác động của các quy
luật ngôn ngữ mà nổi bật là quy luật liên tưởng. Có hai quy luật liên
tưởng quan trọng, đó là liên tưởng tương đồng (tạo nên các thành ngữ
ẩn dụ), liên tưởng tương cận (tạo nên các thành ngữ hoán dụ). Đặc biệt,
liên tưởng đồng âm cũng là một trong cơ sở quan trọng tạo nên nhiều
biến thể thành ngữ khiến cho cùng một thành ngữ có thể có nhiều cách
giải thích nguồn gốc khác nhau.
3. Như trên đã thấy, thành ngữ thuần Việt ra đời dựa trên cơ sở
các thành tố văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Việt. Vì
thế, cho nên mỗi thành ngữ thuần Việt đã không chỉ phản ánh khá rõ đặc
điểm của lĩnh vực văn hóa mà nó đã ra đời, mà cịn phản ánh đặc điểm

tư duy của người Việt. Do vậy, muốn truy tìm được nguồn gốc của một
thành ngữ thuần Việt cần phải dựa vào các thành tố văn hóa Việt Nam
được phản ánh hay còn được lưu giữ trong cấu trúc và ngữ nghĩa của


24

thành ngữ, như phong tục, tơn giáo, tín ngưỡng, văn hóa ăn, văn hóa đi
lại, đời sống lao động, sinh hoạt v.v...
4. Tương tự như từ, trong hệ thống thành ngữ thuần Việt cũng
tồn tại hai kiểu quan hệ ngữ nghĩa, đó là quan hệ đồng nghĩa và quan hệ
trái nghĩa. Có thể nêu một vài nhận xét sau đây:
Thứ nhất, biến thể thành ngữ là những dạng khác nhau của một
thành ngữ, có ý nghĩa biểu trưng hồn tồn giống nhau, có kết cấu ngữ
pháp đồng nhất. Cịn đồng nghĩa thành ngữ là những thành ngữ khác
nhau có ý nghĩa biểu trưng về cơ bản giống nhau, dựa trên những hình
ảnh cơ sở khác nhau, có kết cấu ngữ pháp khác nhau; hoặc có kết cấu
ngữ pháp đồng nhất nhưng có sự thay thế thành phần cấu tạo bằng
những từ ngữ thuộc các trường từ vựng - ngữ nghĩa khác nhau. Hai dạng
thành trên khác nhau về bản chất.
Thứ hai, thành ngữ đồng nghĩa thực chất là những cách nói hình
ảnh khác nhau về cùng một sự vật, hiện tượng. Việc nhìn nhận, đánh giá
đối tượng theo những góc độ khác nhau đã tạo nên những hình ảnh khác
nhau về cùng một đối tượng. Có thể nói, các thành ngữ đồng nghĩa chính
là một minh chứng cho sự giàu đẹp, phong phú và đa dạng của tiếng nói
dân tộc. Đồng thời, việc tìm hiểu các thành ngữ đồng nghĩa phần nào
giúp chúng ta hình dung bức tranh văn hóa, tư duy của dân tộc Việt.
Thứ ba, các thành ngữ khơng chỉ có quan hệ đồng nghĩa với
nhau mà cịn có quan hệ trái nghĩa. Tuy nhiên, số lượng các thành ngữ
trái nghĩa ít hơn nhiều so với thành ngữ đồng nghĩa. Các thành ngữ đồng

nghĩa và thành ngữ trái nghĩa tạo thành hai kiểu quan hệ ngữ nghĩa lớn
trong hệ thống thành ngữ. Đồng thời, chúng cũng không tồn tại biệt lập
mà nằm trong hệ thống đồng nghĩa từ vựng nói chung.
5. Qua việc tìm hiểu ý nghĩa biểu trưng của các từ chỉ bộ phận
cơ thể, hình ảnh động thực vật, số từ, danh từ riêng trong thành ngữ
tiếng Việt, chúng tôi cũng nhận thấy rằng, hơn bất kì một đơn vị nào


25

khác trong hệ thống ngôn ngữ, thành ngữ là loại đơn vị phản ánh đậm
nét những dấu ấn văn hóa dân tộc. Việc sử dụng các chất liệu trên để
biểu trưng là những hiện tượng biểu trưng đặc thù của tiếng Việt. Nó
phản ánh rất rõ lối tư duy của người Việt trong cách thức biểu trưng, đó
là thích dùng lối nói hốn dụ.
6. Những kết quả nghiên cứu nói trên của luận án cũng mới chỉ
là ban đầu. Còn rất nhiều nội dung cần phải được tiếp tục khảo sát, đặc
biệt là những vấn đề về nguồn gốc của thành ngữ thuần Việt. Rõ ràng là
việc truy tìm nguồn gốc của từng thành ngữ cụ thể trong kho tàng thành
ngữ thuần Việt mênh mông và rộng lớn ấy là một cơng việc hết sức khó
khăn, cần phải có sự trang bị nhiều kiến thức chuyên sâu và nhiều tri
thức liên ngành. Dĩ nhiên, đây cũng là một hướng nghiên cứu hứa hẹn
nhiều điều mới mẻ, thiết thực.


×