Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận XÂY DỰNG MA TRẬN SWOT CHO NGÀNH CAO SU VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.16 KB, 12 trang )

XÂY DỰNG MA TRẬN SWOT CHO NGÀNH CAO SU VIỆT NAM
I- Ngành cao su thế giới.
1. Nguồn cung cao su thế giới.
Trong khi nhu cầu thị trường thế giới về cao su ngày một tăng mạnh thì hầu hết
các nước sản xuất cao su lớn đều sụt giảm về sản lượng do diện tích đất trồng
không được mở rộng, thiên tai xảy ra trong vài năm gần đây như súng thần, hạn
hán kéo dài, bão lũ đã làm giảm nguồn cung cao su của các nước Đông Nam Á, nơi
chiếm tới 80% sản lượng của toàn cầu. Nguồn cung cao su thế giới năm 2009 giảm
một phần chủ yếu do ba quốc gia xuất khẩu cao su tự nhiên lớn nhất thế giới
(chiếm 70% lượng cao su thiên nhiên sản xuất ra trên thế giới) là Thái Lan,
Indonesia và Malaysia đã thống nhất sẽ cắt giảm sản lượng vào năm 2009. Tại
Thái Lan, sản lượng cao su năm 2009 sẽ chỉ đạt 2,84 triệu tấn, giảm 7,8% so với
năm 2008. Malaysia dự kiến cắt giảm 10% sản lượng cao su vào năm 2009 so với
năm 2008. Năm 2009, sản lượng cao su thiên nhiên của Malaysia dự kiến đạt
962,000 tấn. Sản lượng cao su dự kiến tại Indonesia trong năm 2009 chỉ đạt 2,66
triệu tấn, giảm 7% so với mức 2,86 triệu tấn của năm 2008. Trong khi đó,
Malayxia bắt đầu chuyển sang tập trung vào cây cọ dầu (nước này cũng có thể mất
250.000 ha cây cao su trong giai đoạn 2008-2020 do công nghiệp hoá mạnh mẽ và
tăng diện tích trồng cọ dầu),Thái Lan thiếu đất trồng cây cao su trầm trọng và diện
tích trồng mới tại Braxin, Indonesia, Lào, Campuchia… cần một khoảng thời gian
khá dài để đưa vào khai thác. Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp
Indonexia, Indonexia đang hướng tới tốc độ tăng trưởng sản lượng 4,12%/năm
nhằm nâng sản lượng cao su lên 3,072 triệu tấn vào năm 2010. Để đạt được mục
tiêu này, Chính phủ Indonexia có kế hoạch phục hồi 250.000 ha cao su tiểu điền đã
cũ và trồng mới 50.000 ha cao su tiểu điền cho đến năm2010.
2. Nguồn cầu cao su thế giới
Theo Tập đoàn Nghiên cứu Cao su Quốc tế (IRSG), trung bình mỗi năm trên
thế giới tiêu thụ khoảng 9,7 triệu tấn cao su tự nhiên, trong đó các sản phẩm dùng
cho ngành công nghiệp chế biến săm lốp chiếm tới hơn 50% tổng cầu. Dự kiến,
tiêu thụ cao su thiên nhiên thế giới năm 2008 sẽ đạt khoảng 10,1 triệu tấn và đến
năm 2020 sẽ là 31,3 triệu tấn Giá dầu mỏ - nguyên liệu để sản xuất cao su tổng hợp


– tăng cao và thường giữ ở mức trên 100 USD/thựng. Điều này làm tăng chi phí
sản xuất cao su tổng hợp, đẩy giá thành của cao su tổng hợp lên cao, khiến các nhà
sản xuất chuyển sang cao su tự nhiên để thay thế cho cao su tổng hợp. Nhu cầu của
các nước tiêu thụ tiếp tục tăng mạnh, đặc biệt tại các nền kinh tế phát triển nhanh
như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Brazil; trong khi nguồn dự trữ ở cả các nước sản
xuất, các nhà nhập khẩu, nhất là cỏc hóng sản xuất lốp xe đều eo hẹp. Giá mủ cao
su thế giới liên tục tăng cao trong 3 năm trở lại đây do nhu cầu tiêu thụ tăng nhanh,
có thời điểm giá cao su xuất khẩu đạt mức kỷ lục mới là 2.475 USD/tấn. Giá tăng
quá cao vào năm 2009 đã khiến thương gia và các nhà sản xuất không dám mua
nhiều, dẫn đến việc kho dự trữ không được củng cố. Do vậy, nhu cầu về cao su tự
nhiên được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới.
II- Ngành cao su Việt Nam
1. Tình hình sản xuất cao su
Nhờ giá cao su liên tục tăng cao trong nhiều năm qua góp phần kinh doanh
thuận lợi và đạt hiệu quả cao nên diện tích vườn cây cao su không ngừng được mở
rộng. Hiện nay, cả nước hiện có hơn 500.000 ha cao su được trồng tập trung ở
Đông Nam Bộ (339.000 ha), Tây Nguyên (113.000 ha), Bắc Trung Bộ (41.500 ha)
và duyên hải Nam Trung Bộ (6.500 ha). Trong tổng diện tích 500.000 ha trồng cây
cao su ở nước ta, có 63% diện tích đang ở độ tuổi khai thác. Dự kiến năm 2010,
diện tích cây cao su đạt mức 700.000 ha. Tuy nhiên, quỹ đất trồng mới cao su tại
Việt Nam hiện còn không nhiều. Các doanh nghiệp Việt Nam để mở rộng sản xuất
đã chuyển hướng sang trồng và khai thác tại nước bạn Lào và Campuchia nhằm
thực hiện mục tiêu đến năm 2015, Tập đoàn Cao su Việt Nam sẽ đạt diện tích trồng
cây cao su ở Lào và Campuchia là khoảng 100.000 ha/nước. Sản lượng đạt trung
bình 450.000 tấn/năm, trong đó trên 80% sản lượng dùng để xuất khẩu. Lượng cao
su xuất khẩu của Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam (VRG) chiếm hơn 70%.
Nhưng cho đến nay, Việt Nam mới có 63% diện tích cao su được đưa vào khai
thác, do đó tiềm năng phát triển còn rất lớn. Từ năm 2006 đến nay, giá cao su
nguyên liệu tăng liên tục, trong khi các đơn vị cao su quốc doanh hầu như không
còn đất để mở rộng diện tích trồng mới thì người dân ở nhiều địa phương trong

nước ta đổ xô trồng cao su với mức tăng bình quân 3%/năm và được dự báo sẽ
tăng cao hơn trong năm 2010. Riêng tại khu vực Đông Nam Bộ bình quân mỗi
năm diện tích cao su tiểu điền tăng từ 13.000 đến 20.000 ha. Theo Hiệp hội cao su
Việt Nam (VRA) ,năm 2007 diện tích cao su tiểu điền chiếm khoảng 253.320 ha,
bằng 46,1% tổng diện tích với trên 75.000 hộ trồng cao su ở 24 tỉnh thành. Mục
tiêu mà Chính phủ đưa ra là đến năm 2010, diện tích cao su VN sẽ tăng lên
700.000 ha so với 549.600 ha hiện nay, trong đó diện tích trồng mới chủ yếu là cao
su tiểu điền (dự kiến chiếm 350.000 ha trong 700.000 ha). Tuy nhiên diện tích cao
su tiểu điền được đầu tư vốn nhỏ, diện tích nhỏ lại đa phần nằm ở vùng sâu vùng
xa nên rất khó để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào áp dụng đồng bộ. Bên cạnh đó,
cao su tiểu điền trồng phân tán nên việc thu gom mủ gặp nhiều khó khăn, chất
lượng mủ giảm và giá thành cao. Sản phẩm làm ra chưa gắn với khâu chế biến,
thường bị tư thương ép giá khiến người nông dân chưa được hưởng lợi tương xứng
với những thành quả mà họ đáng được hưởng.
Do điều kiện canh tác, đất đai khác nhau nên năng suất cao su của Việt Nam có
sự khác nhau giữa các vùng, dẫn đến chi phí sản xuất, chế biến ở một số tỉnh cũng
khác nhau tương đối lớn, ảnh hưởng rất lớn tới lợi nhuận từ quá trình sản xuất chế
biến cao su. Trong thời gian qua, ngành cao su Việt Nam đa chú trọng đầu tư thâm
canh nên đã nâng cao đáng kể được năng suất trên mỗi diện tích vườn cây, từ 1,73
tấn/ha năm 1995, tăng lên 1,96 tấn/ha năm 2006 và 2,07 tấn năm 2007, đưa Việt
Nam xếp thứ 2 trên thế giới về năng suất. Năng suất cạo mủ của công nhân, có ảnh
hưởng lớn đến năng suất khai thác mủ cao su, tùy thuộc vào kinh nghiệm và sức
khỏe của công nhân. Nguồn lực lao động dồi dào, chi phí lao động thấp cộng với
việc áp dụng phương pháp canh tác hiệu quả nên đa tạo ra lợi thế cạnh tranh của
ngành cao su so với các ngành khác.
2. Thị trường tiêu thụ
Cao su luôn là ngành xuất khẩu mũi nhọn của Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, xuất khẩu có giá trị cao. Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam là đơn
vị chính cung ứng gần như tất cả sản lượng mủ cao su xuất khẩu cũng như tiêu thụ
trong và ngoài nước, chiếm tỷ trọng quy mô trên 70% toàn ngành cao su Việt Nam,

là hạt nhân phát triển cao su ra diện rộng. Đặt biệt, Tập đoàn công nghiệp cao su
Việt Nam còn được Chính phủ giao trách nhiệm phát triển 150.000 ha cao su tại
Lào và Campuchia, 50.000 ha cao su tại Tây Nguyên, 100.000 ha cao su tại Tây
Bắc. Thị trường trong nước khá nhỏ bé so với thị trường xuất khẩu. Nhu cầu về sản
phẩm cao su của thị trường trong nước chỉ chiếm khoảng 10-15% tổng sản lượng
mủ cao su sản xuất hàng năm. Do đầu tư cho công nghiệp chế biến cao su còn thấp
nên hiện nay chỉ có khoảng 20% cao su tự nhiên được chế biến. Các sản phẩm chế
biến từ cao su tiêu thụ tại thị trường trong nước chủ yếu bao gồm: các loại săm lốp,
găng tay y tế, băng chuyền, đai, phớt dùng trong sản xuất công nghiệp, và cả một
số sản phẩm được dùng trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh như các loại lốp
dùng cho các máy bay. Trong cả nước có 3 doanh nghiệp lớn sản xuất các sản
phẩm từ cao su là Công ty cao su Sao vàng, Công ty cao su miền Nam và Công ty
cao su Đà nẵng. Việc xây dựng các công ty liên doanh sản xuất các sản phẩm từ
cao su đa tăng lên trong những năm gần đây. Điều đó cũng có nghĩa là một phần
sản lượng mủ cao su cũng được sử dụng nhiều hơn tại thị trường trong nước để
làm nguyên liệu cho các nhà máy này.
Năm 2009, Việt Nam đã xuất khẩu cao su thiên nhiên sang 71 nước, không sụt
giảm nhiều so với năm 2008 (năm 2008 là 73 thị trường). Trung Quốc vẫn là thị
trường dẫn đầu với số lượng khoảng 494, 62 ngàn tấn quy khô, chiếm 67,6 % về
lượng và tăng khoảng 6,6 % so với cùng kỳ năm trước, đạt trị giá 789 triệu đô-la.
Ngoài thị trường Trung Quốc, một số thị trường cũng tăng trưởng mạnh trong năm
2009 là Malaysia: 33,94 ngàn tấn (tăng 81,5%), Đài Loan: 23,97 ngàn tấn (tăng 29
%), Hàn Quốc: 23,6 ngàn tấn (tăng 3,2%), Bỉ: 15,1 ngàn tấn (tăng 172,6 %), Ấn
Độ: 5.800 tấn (tăng 137,2 %). Những thị trường lớn sụt giảm là Đức: 19,34 ngàn
tấn (-4,7 %), Hoa Kỳ: 14,22 ngàn tấn (-12,5%), Nga: 11,1 ngàn tấn (-4,9%) và
Nhật: 8,57 ngàn tấn (- 19,1%).
Hiện nay, Việt Nam có gần 10 chủng loại cao su xuất khẩu, nhưng cao su khối
SVR3L vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất, tới 70% tổng sản lượng xuất khẩu. Đây cũng là
chủng loại cao su xuất được giá cao nhất hiện nay so với các chủng loại khác. Mặc
dù lượng xuất khẩu cao su của Việt Nam rất lớn nhưng hơn 90% sản lượng cao su

của Việt Nam phục vụ xuất khẩu dưới hình thức cao su nguyên liệu thô, chỉ có
10% chiếm khoảng 50.000 tấn là được chế biến phục vụ cho thị trường trong nước
và xuất khẩu. Tỉ lệ này quá thấp so với nguồn cao su nguyên liệu có khả năng phục
vụ sản xuất và tiêu dùng. Do đó, lợi nhuận từ cao su thấp hơn rất nhiều so với
Malaysia hay Thái Lan. Mặt khác, hình thức gia công, quy mô sản xuất còn nhỏ và
năng suất của cao su cũng chưa thực sự đạt được như mong muốn. Vì vậy, những
mặt hàng thị trường cần và có giá cao như cao su ly tâm, SVR10, 20… thì Việt
Nam sản xuất ít, trong khi đó các loại SVR3L giá thấp, thị trường trên thế giới cần
ít (ngoài Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu nhiều) nên Việt Nam bị phụ thuộc rất
lớn vào thị trường này. Một điểm yếu nữa của cao su Việt Nam là hầu như không
có thương hiệu trên thị trường nên luôn phải bán với giá thấp hơn so với các nước
khác. Để thúc đẩy phát triển ngành chế biến cao su, cao su Việt Nam cần phải đa
dạng hoá sản phẩm, giảm xuất khẩu nguyên liệu thụ, phỏt triển chế biến sản xuất,
thay đổi cơ cấu ngành hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các thị trường như EU, Bắc
Mỹ và giảm phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Theo số liệu thống kê sơ bộ,
tháng 3/2009 cả nước xuất khẩu đạt trên 40 ngàn tấn cao su các loại với kim ngạch
55,3 triệu USD, tăng 10,32% về lượng và tăng 6,53% về trị giá so với tháng trước.
So với tháng 2/2009, lượng xuất khẩu các chủng loại cao su chính đều tăng. Trong
đó, tăng mạnh nhất là cao su RSS3 tăng 513,95%; SVR 10 tăng 310,89%; CSRL
tăng 139,81%; CSR10 tăng 107,14% Tuy nhiên, lượng xuất khẩu một số chủng
loại cao su khác lại giảm như Latex, cao su hỗn hợp SVRCV 60, SVR5, SVRCV
50.Tổng lượng cao su xuất khẩu quý I/2009 đạt khoảng 116 ngàn tấn với trị giá
157 triệu USD, giảm 6,14% về lượng và giảm 46,21% về trị giá so với cùng kỳ
năm 2009 .Quý I/2009, cao su khối SVR3L vẫn là chủng loại xuất khẩu chiếm tỉ
trọng cao nhất, chiếm 46% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, đạt 53,37
ngàn tấn với trị giá trên 74 triệu USD, giảm 6,52% về lượng và giảm 48,47% về trị
giá so với cùng kỳ năm 2008. Cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ và các nước châu
Âu đã làm chậm tốc độ phát triển kinh tế, lượng mua sắm ôtô và săm lốp ở các
nước phát triển chững lại làm cho sức mua cao su giảm. Bên cạnh đó, hiện nay cao
su Việt Nam đang bước vào thời kỳ tăng sản lượng của cao su nên lượng mủ cao

su bán ra trên thị trường tăng mạnh làm cho giá mua mủ cao su sụt giảm mạnh.
Mặc dù sản lượng cao su của Việt Nam vẫn tăng nhưng nguồn nhập khẩu cao su
của Việt Nam từ các nước láng giềng cũng chiếm một tỷ lệ tương đối. Theo số liệu
thống kê của Hiệp hội cao su Việt Nam, trong 7 tháng đầu năm 2008, nước ta nhập
khẩu cao su từ Thái Lan đạt 24342 tấn; từ Nga 6836 tấn; từ Singapore 123 tấn; từ
Pháp 808 tấn; từ Nhật Bản đạt 8261 tấn. Lượng cao su nhập khẩu của nước ta chủ
yếu để tái xuất khẩu, đặc biệt là sang Trung Quốc. Định hướng của ngành cao su
Việt Nam tới năm 2010 là nâng diện tích trồng cao su lên 700.000 ha (gấp 1,5 lần
hiện tại), sản lượng đạt 520.000 tấn mủ, chuyển đổi sản xuất cao su nguyên liệu và
định hướng phát triển sản xuất cao su công nghiệp, xuất khẩu cao su thành phẩm
kết hợp cùng với cao su nguyên liệu. Ngoài ra, ngành cao su nước ta cần phải thay
đổi cấu trúc sản xuất theo tiến trình phát triển của ngành để khai thác triệt để
những thế mạnh của cây cao su, tăng cường năng lực cạnh tranh cho sản phẩm
cùng với kế hoạch chung cho toàn ngành đến năm 2010 và định hướng tới năm
2020.
Ma trận
SWOT
Điểm mạnh (S)
1.Việt Nam mới chỉ có
63% diện tích cao su được
đưa vào khai thác, do đó
tiềm năng phát triển còn rất
lớn. Bên cạnh việc phát
triển nguồn cao su trong
nước, các doanh nghiệp
cũng đang tích cực đầu tư
trồng mới các đồn điền cao
su lớn tại Lào và
Campuchia
2.Nguồn nhân lực dồi dào

và giá nhân công rẻ. Đây là
một lợi thế đáng kể của
Việt Nam khi ngành khai
thác và sơ chế mủ cao su là
ngành cần rất nhiều lao
động và chi phí lao động
chiếm tỷ trọng lớn nhất
Điểm yếu (W)
1. Cơ cấu sản phẩm chưa
phù hợp với nhu cầu của
thị trường. Cao su xuất
khẩu của Việt Nam chủ
yếu là sản phẩm cao su tự
nhiên chưa được xử lý và
ở dạng nguyên
thủy như SVR 3L. Nhu
cầu loại cao su này của thế
giới rất thấp, trừ Trung
Quốc.
2.Trình độ tay nghề của
công nhân chưa cao nên
năng suất khai thác cao su
thấp hơn so với các nước
trong khu vực.
3.Vườn cây cao su của
nước ta ngày càng già cỗi,
một số vườn cây kém hiệu
(70%) trong chi phí giá
thành sản xuất.
3.Việt Nam được nhóm 3

nước sản xuất cao su hàng
đầu thế giới (Thái Lan,
Indonesia và Malaysia) mời
gia nhập Consortium cao su
quốc tế (IRCO) để cùng
hợp tác giữ bình ổn giá cao
su thiên nhiên trên thị
trường thế giới. Đây là một
thuận lợi lớn cho ngành
xuất khẩu cao su Việt Nam
bởi vì IRCO hiện đang
chiếm 75% tổng sản lượng
cao su tự nhiên thế giới,
với sự tham gia của Việt
Nam, thị phần của IRCO sẽ
tăng lên 80%.
4. Ngành cao su nước ta
đang có tốc độ phát triển
nhanh chóng, vươn lên trở
thành một trong những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực.
Ngành cao su đứng thứ 7
trong 10 ngành có giá trị
xuất khẩu cao nhất Việt
Nam và đang đứng thứ 4
thế giới về số lượng xuất
quả được tổ chức để thanh
lý trồng lại, trong khi đó
đất tốt để trồng cây cao su
không còn nhiều vì thế

diện tích trồng cao su khó
có thể mở rộng.
4.Công nghệ chế biến mủ
cao su của các công ty
hiện đang dừng lại ở mức
sơ chế, mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu là bán thành
phẩm. Trong tương lai,
nếu phải cạnh tranh về
chất lượng hàng hóa thì
các doanh nghiệp cao su
Việt Nam sẽ khó giành
được thị phần.
5.Cao su Việt Nam hầu
như không có thương hiệu
trên thị trường thế giới nên
luôn phải bán qua trung
gian với giá thấp hơn so
với các nước khác. Ngoài
ra, tình trạng tranh mua
tranh bán của các doanh
nghiệp cao su Việt Nam
với nhau cũng gây bất lợi
cho thị trường.
khẩu.
Các cơ hội (O)
1.Việc gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới
(WTO) mang lại những ảnh
hưởng tích cực và tạo ra

điều kiện thuận lợi cho việc
xuất khẩu các sản phẩm cao
su của Việt Nam. Việt Nam
sẽ được hưởng ưu đai về
thuế khi xuất khẩu sang
nhiều nước và có nhiều cơ
hội tốt để thu hút đầu tư,
chuyển giao công nghệ từ
các nước phát triển.
2.Ngành công nghiệp ôtô
thế giới, đặc biệt là của
Trung Quốc và Ấn Độ, đang
có tốc độ phát triển rất
nhanh nên nhu cầu sử dụng
lốp xe là rất lớn, trong khi
cao su là nguyên liệu chính
để sản xuất lốp xe.
3.Bên cạnh đó, cao su còn
được sử dụng để sản xuất
nhiều sản phẩm khác phục
vụ tiêu dùng, như găng tay,
đệm, zoăng v.v.
4.Giá dầu thô, nguyên liệu
chính để sản xuất cao su
tổng hợp, trong vài năm gần
đây liên tục có biến động
-Chiến lược đa dạng hóa
đồng tâm.( S1,S4,O1,O3)
-Chiến lược tăng trưởng
tập trung: phát triển thị

trường.
(S1,S2,S3,O1,O2,O4,)
- Chiến lược đa dạng hóa.
(W1,W5,O1,O3)
-Chiến lược tăng trưởng
theo hướng hội nhập: liên
doanh.
(W4,W5,W1,O1)
tăng khiến cho các nhà sản
xuất đa chuyển sang sử
dụng cao su tự nhiên. Xu
hướng này làm tăng nhu cầu
và giá mủ cao su nguyên
liệu trong tương lai.
Các nguy cơ (T)
1.Thời tiết trong những năm
gần đây có những biến đối
khó lường, ảnh hưởng tiêu
cực tới năng suất và diện
tích trồng cây cao su của
Việt Nam cũng như các
quốc gia xuất khẩu cao su
lớn khác như Indonesia,
Thái Lan…
2.Thị trường xuất khẩu cao
su của Việt Nam còn thiếu
sự đa dạng hóa. Trung Quốc
vẫn là thị trường nhập khẩu
chính (chiếm 60%) nên rủi
ro là rất lớn. Chỉ cần có

những thay đổi nhỏ về
chính sách đối với ngành
cao su cũng như sản xuất
lốp xe, ôtô của chính phủ
Trung Quốc cũng khiến cho
giá cao su của Việt Nam
biến động theo.
3.Lạm phát tăng cao làm giá
cả nhiều loại vật tư phục vụ
cho sản xuất cao su tự nhiên
-Chiến lược tăng trưởng
theo hướng hội nhập: liên
kết ngang, dọc.
(S1,S4,T1,T4)
- Chiến lược ổn định.
(S1,S2,S4,T2,T3,T4)
-Chiến lược ổn định.
(W1,W2,W4,W3,T2,T3,T
4)
-Chiến lược thu hẹp.
(W3,W4,W5,T1,T2,T4)
tăng mạnh như hóa chất,
xăng dầu, phân bón.
4. Diện tích đất thích hợp để
trồng cây cao su đối diện
với nguy cơ bị thu hẹp
chuyển sang sử dụng cho
những mục đích khác. Các
doanh nghiệp cao su đã có
hướng phát triển sang các

nước lân cận nơi còn rất
nhiều tiềm năng phát triển
cây cao su. Tuy nhiên, việc
trồng cao su tại Lào và
Campuchia cũng không
hoàn toàn thuận lợi do cũng
có rất nhiều doanh nghiệp
từ Trung Quốc và Thái Lan
sang đầu tư trồng cao su.
Các kết hợp S1,S2,S3,O1,O2,O4 hình thành lên chiến lược tăng trưởng tập
trung phát triển thị trường. Do:
Chúng ta có diện tích trồng cao su còn nhiều tiềm năng, ngoài ra còn mở rộng
trồng cao su ở Lào, Campuchia vì thế có thể gia tăng sản lượng cao su có thể đủ
đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng tăng cao ( nhu cầu cao su sản xuất săm lốp ở
1 số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, nhu cầu mủ cao su tăng do giá dầu tăng) . Việt
Nam là 1 trong số các nước sản xuất cao su lớn nhất thế giới, lại vừa được mời gia
nhập Consortium cao su quốc tế (IRCO), cái vị thế đó cũng giúp cao su Việt Nam
dễ thâm nhập thị trường thế giới hơn. Việt Nam lại mới ra nhập WTO nên được
hưởng các ưu đãi về thuế khi xuất khẩu sang nhiều nước. Ngoài ra giá nhân công
lại rẻ => giá thành sản phẩm cũng rẻ theo nên chúng ta có thể đưa ra 1 giá bán hợp
lý để cạnh tranh với các nước khác khi phát triển thị trường mà vẫn đem lại lợi
nhuận.

×