Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận môn Đầu tư Nguyên nhân chậm tiến độ tại các dự án và giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.54 KB, 19 trang )

1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Cụm từ viết tắt Cụm từ đầy đủ
FDI Foreign Direct Investment
ODA Official Development Assistant
GDP Gross Domestic Product
KTNN Kinh tế nhà nước
WB World Bank
NSNN Ngân sách nhà nước
NOXH Nhà ở xã hội
DANH MỤC BẢNG BIỂU
2
STT Tên bảng biểu Nguồn số liệu
1
Bảng 1: Vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2005-2012
Nguồn: Niên giám thống kê
2
Bảng 2: Cơ cấu đầu tư từ NSNN trong tổng vốn
đầu tư của nhà nước
Nguồn:Tổng cục thống kê
3
Bảng 3: ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời
kỳ 1993-2012
Nguồn: Tổng cục thống kê
4 Hình 1: Tỷ trọng đầu tư từ các ngân hàng
Nguồn: Cổng thông tin kế
hoạch và đầu tư
5
Hình 2: Dự án Bệnh viện Quốc tế Hoa Kỳ sau
nhiều năm triển khai vẫn chưa đi vào hoạt động.
Nguồn: Dân trí


MỤC LỤC
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, hoạt động đầu tư của nước ta trong giai
đoạn vừa qua đã có bước phát triển vượt bậc về cả quy mô và chất lượng. Tuy nhiên,
những vấn đề bất cập, thiếu sót dẫn đến những hạn chế trong quản lý hoạt động đầu tư
vẫn còn tồn tại khá nhiều, làm cho hiệu quả đầu tư chưa được cao như mong đợi. Một
trong những nguyên nhân cơ bản của vấn đề này là tiến độ của dự án đầu tư chưa được
quan tâm một cách đúng mực. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề quản lý tiến độ dự án đầu
tư rất quan trọng trong việc phục vụ nghiên cứu môn học kinh tế đầu tư và trong thực
tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu tiến độ các dự án đầu tư tại Việt Nam, từ đó xem xét tìm ra nguyên
nhân dẫn đến việc các dự án bị chậm tiến độ. Từ thực trạng, nguyên nhân tìm ra
phương pháp khắc phục.
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
Các dự án đầu tư tại Việt Nam đang trong giai đoạn thực hiện
4. Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu và nội dung nghiên cứu như trên nhóm chúng tôi sử dụng phương
pháp Phân tích – tổng hợp. Tức là dựa trên các thông tin thực tế để phân tích mức độ
ảnh hưởng và đưa ra hướng giải quyết
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận thì đề tài gồm ba phần
Phần I: Lý luận chung và tiến độ các dự án đầu tư ở Việt Nam
Phần II: Nguyên nhân chậm tiến độ tại các dự án
Phần III: Giải pháp
6. Hạn chế của đề tài
4
Do trình độ kiến thức còn hạn chế nên trong bài viết này không tránh khỏi những

sai sót nhất định. Nhóm chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy
cô giáo để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
PHẦN I- LÝ LUẬN CHUNG VÀ TIÊN ĐỘ CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
1. Lý luận chung
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó
nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bổ ra để đạt
được kết quả đó.
Phân loại đầu tư có nhiều các nhưng trong bài nghiên cứu này nhóm chúng tôi áp
dụng phương pháp “ Phân loại theo chủ đầu tư”. Như vậy các dự ấn đầu tư sẽ chia
thành:
Chủ đầu tư là nhà nước
Chủ đầu tư là các doanh nghiệp
Chủ đầu tư là các tư nhân
Việc phân loại này thích hợp với việc quản lý tiến độ các dự án với từng nguồn
vốn huy động
2. Tiến độ các dự án đầu tư ở Việt Nam
2.1. Dự án chủ đầu tư là nhà nước
Với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong thời gian từ 2009-2012, tỷ
trọng vốn đầu tư trong GDP theo 3 khu vực sở hữu đều giảm (KTNN - 11%; khu vực
kinh tế ngoài nhà nước -3,96% và khu vực kinh tế có vốn FDI -18,54%). Sự sụt giảm tỷ
trọng vốn đầu tư/GDP của khu vực KTNN là do chủ trương cắt giảm đầu tư công trong
5
thời gian qua.
Bảng 1: Vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2005-2012
Trong tổng vốn, giá trị vốn đầu tư nhà nước từ 2005 - 2012, vốn đầu tư từ NSNN
luôn tăng và đứng đầu qua các năm. Điều này phản ánh thực tế gia tăng chi tiêu công
của Nhà nước cho phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua.
Trong thời gian 2005 - 2012, tỷ lệ giữa vốn đầu tư từ NSNN/tổng vốn đầu tư
của Nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao nhất tuy tăng giảm không đều (năm 2005 - 2010
chiếm bình quân tới 55,6%, thậm chí năm 2008, 2009 là trên 60%, năm 2010 là 44,8%)

Tuy nhiên, theo báo cáo tổng hợp công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư
năm 2014 tại công văn số 3114/BKHĐT-GSTĐĐT, ngày 22/5/2015 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, hiện cả nước có 39.173 dự án (sử dụng 30% vốn nhà nước trở lên) đang thực
hiện đầu tư, trong đó có 17.638 dự án khởi công mới, chiếm 45,03% (năm 2013 tỷ lệ
này là 36,63%, năm 2012 là 33,34%, năm 2011 là 36,82%). Các dự án khởi công mới
chủ yếu là dự án nhóm C (16.750 dự án, chiếm 95%) và 14.419 dự án kết thúc đầu tư
đưa vào sử dụng trong kỳ chiếm 36,81% (năm 2013 tỷ lệ này là 37,3%, năm 2012 là
42,01%, năm 2011 là 39,24%).
6
Mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết liệt, song
nhiều dự án vẫn còn chậm tiến độ. Cụ thể, năm 2014 ghi nhận thấy có 2.869 dự án
chậm tiến độ, chiếm 7,32% số dự án thực hiện trong kỳ (tỷ lệ này của năm 2013 là
9,59%, năm 2012 là 11,77%).
Với dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA tình hình tiến độ cũng
không khả quan hơn. Với tỷ lệ sử dụng vốn ODA của Việt Nam rất lớn nhưng hiệu quả
đem lại chưa cao, nhiều dự án chậm tiến độ.
Bảng 3: ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 1993-2012
Theo bảng trên WB đứng đầu trong nhóm 6 ngân hàng phát triển với khoảng
20,1 tỷ USD. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đứng thứ hai với 14,23 tỷ USD vốn
ODA cam kết.
Tuy nhiên trong thực tế thì Tám dự án ODA do WB tài trợ cho Việt Nam bị liệt
vào "danh sách đen", tức các dự án chậm trễ về tiến độ thực hiện và giải ngân.trong số
các dự án này, điển hình nhất là dự án Giao thông đô thị TP Hà Nội với với thời gian lọt
vào danh sách đen là 60 tháng, số năm thực hiện là 7 năm và tỷ lệ giải ngân là 30%.
Tiếp theo là dự án Hiện đại hóa quản lý thuế với các chỉ tiêu lần lượt là 34 tháng,
6,8 năm và 2%.Dự án Phát triển năng lượng tái tạo có các chỉ tiêu là 27 tháng, 5,2 năm,
và 29%. Các dự án còn lại được kể tên là Hệ thống hiện đại hóa khu vực tài chính và
7
quản lý thông tin, Đại học Việt Đức; Hỗ trợ quản lý rác thải, Quản lý rác thải công
nghiệp, và Hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị dự án.

“Số lượng các dự án trong danh sách đen tăng lên, và các dự án này càng ngày
càng chậm có chuyển biến”, Giám đốc quản lý danh mục đầu tư và thực hiện dự án của
WB, ông Keiko Sato, nhận xét tại một buổi họp nội bộ của Ngân hàng này tổ chức ngày
9/2 tại Hà Nội.
2.2. Chủ đầu tư Dự án là các doanh nghiệp và tư nhân
Hiện nay có nhiều dự án chủ đầu tư là các doanh nghiệp và tư nhân. Các chủ dự
án là doanh nghiệp vatu nhân trong nước chủ yếu là tập trung vào các công trình dân
sinh. Mặc dù các dự án này tỷ lệ chậm tiến độ không cao nhưng cung đã phát sinh
nhiều sự cố. Hiện tại nếu không có kế hoạch đẩy nhanh tiến độ thi công thi không thể
về đích đúng tiến độ
Hình 1: Tỷ trọng đầu tư từ các ngân hàng
Tại dự án nhà ở xã hội (NOXH) Tây Nam Linh đàm (Hoàng Mai, Hà Nội) do 2
chủ đầu tư là Công ty CP Phát triển nhà xã hội HUD.VN (đơn vị thành viên của Tổng
công ty HUD) và Công ty CP BIC Việt Nam (Cty BIC) làm chủ đầu tư. Dự án thuộc
quỹ đất 20% của TP. Hà Nội có diện tích 2,2ha trong tổng số 49ha của Dự án Khu đô
thị Tây Nam Linh Đàm hiện đang chậm tiến độ gây ảnh hưởng đến đời sống người dân.
8
Các dự án có chủ đầu tư là các doanh nghiệp, tư nhân nước ngoài hay vốn FDI
cũng trong tình trạng chậm tiến độ hàng loạt
Ví dụ như trên địa bàn TP. Đà Nẵng có tổng cộng 50 dự án du lịch ven biển và
hệ thống khách sạn ven biển tại đà nẵng với tổng diện tích hơn 160,5ha và tổng vốn đầu
tư khoảng 60 ngàn tỷ đồng, trong đó 14 dự án đầu tư nước ngoài, 36 dự án đầu tư trong
nước. Trong số 50 dự án (DA) nói trên, đến thời điểm này, chỉ có 17 DA (đầu tư nước
ngoài 5 DA, trong nước 12 DA) đã hoàn thành đi vào hoạt động và DA hoàn thành một
phần đã góp phần vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của thành phố; 13 DA có vốn
đầu tư gần 23.000 tỷ đồng đang triển khai nhưng chậm tiến độ; 8 DA với tổng vốn đầu
tư khoảng 4.500 tỷ đồng đã bàn giao đất nhưng chưa triển khai DA và 12 DA với tổng
vốn đầu tư khoảng 16.500 tỷ đồng chưa bàn giao đất hoặc vướng mắc các thủ tục về đất
đai. Bên cạnh đó vẫn còn 7 DA chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với
thành phố, với khoản nợ tiền sử dụng đất 173,3 tỷ đồng

Ngoài ra, còn nhiều DA khác “đắp mền” cỏ mọc um tùm năm này qua năm khác
ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển du lịch của thành phố, môi trường đầu tư, mỹ quan
đô thị và gây bức xúc trong dân
9
Hình 2:Dự án Bệnh viện Quốc tế Hoa Kỳ sau nhiều năm triển khai vẫn chưa đi vào
hoạt động.
Trên địa bàn Hà Nội hiện có 37 dự án FDI triển khai chậm, ảnh hưởng đến hiệu
quả đầu tư.
Hà Nội đứng thứ ba cả nước về thu hút vốn FDI, sau TP Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu. Khối doanh nghiệp FDI hiện đóng góp khoảng 15% tổng vốn đầu tư xã hội
của thành phố và chiếm khoảng 16,5% cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn. Tuy nhiên,
hiện có 37 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 6,6 tỷ USD, của các doanh nghiệp
khối này triển khai chậm trễ, làm giảm sút hiệu quả đầu tư và gây ảnh hưởng tới phát
triển đô thị. Đây chủ yếu là các dự án sử dụng đất trên địa bàn thành phố (khoảng 1.600
ha), gồm các dự án: Thành phố Công nghệ xanh, Khu công nghiệp Bắc Thường Tín, Tổ
hợp Metropolis, Khu đô thị Nolbe, Khu đô thị Bắc An Khánh, Trung tâm Tài chính
thương mại và Công trình phụ trợ, Tòa tháp thiên niên kỷ… Việc triển khai chậm các
dự án gây ra những thất thoát, lãng phí không nhỏ, đồng thời làm cho công tác quản lý
đất đai gặp nhiều khó khăn.
10
PHẦN II: NGUYÊN NHÂN CHẬM TIẾN ĐỘ CỦA CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ
Các Báo cáo thường niên cho biết, với các dự án đầu tư sử dụng 30% vốn nhà
nước trở lên, trong năm 2014 có 39.173 dự án đang thực hiện đầu tư, trong đó có
17.638 dự án mới khởi công, chiếm 45,03%; và có 14.419 dự án kết thúc đầu tư đưa
vào sử dụng trong kỳ, chiếm 36,81%. Tổng hợp số liệu của 120/123 cơ quan có báo
cáo, trong năm 2014, tổng giá trị thực hiện khoảng 579.501 tỉ đồng, đạt 95,29% so với
kế hoạch.
Theo một báo cáo mới đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỉ lệ các dự án chậm tiến độ
trong năm 2012 là 11,77%; năm 2013 9,59% và năm 2014 có 2.869 dự án chậm tiến độ
(chiếm 7,32% số dự án thực hiện trong kỳ).

Do công tác giải phóng mặt bằng (1.063 dự án); do bố trí vốn không kịp thời (659 dự
án); do năng lực của chủ đầu tư, ban quản lý dự án và các nhà thầu (248 dự án); do thủ
tục đầu tư (304 dự án) và do các nguyên nhân khác (557 dự án).
1. Về nguyên nhân từ phía chủ đầu tư:
- Công tác giải phóng mặt bằng chậm, nhiều trường hợp khi bàn giao mặt bằng để triển
khai công tác xây dựng thì đã hết thời gian thực hiện dự án theo quyết định đã được phê
duyệt. Những yếu tố dẫn tới việc giải phóng mặt bằng chậm phần lớn nằm ở chính sách
đền bù, di dời các hộ dân sống trong khu vực dự án, tái định cư các hộ dân phải di dời.
Nguyên nhân dẫn đến chậm trễ chủ yếu do cơ chế, chính sách về đền bù giải phóng mặt
bằng (GPMB) còn bất cập liên quan đến quyền lợi trực tiếp của người dân “bị giải
phóng mặt bằng”. Cụ thể, giá đền bù thiếu nhất quán và không phù hợp; khu tái định cư
không bằng nơi ở cũ; các tổ chức tư vấn, lập phương án GPMB, các ban GPMB không
chuyên nghiệp, lúng túng; các chế tài còn chưa đồng bộ và chưa đủ mạnh.
- Các Bộ, ngành, địa phương phê duyệt quá nhiều dự án mà không tính tới khả
năng cân đối nguồn lực. Có rất nhiều công trình đấu thầu kéo dài xảy ra chủ yếu ở
công trình vốn Nhà nước. Hiện tượng cục bộ, địa phương, nể nang trong tổ chức lựa
chọn nhà thầu (kể cả đấu thầu và chỉ định thầu), hiện tượng tiêu cực “quân xanh, quân
11
đỏ” cho các công ty “sân sau” của chủ đầu tư cũng gây ảnh hưởng nhiều đến chất lượng
thầu. Trong khi đó, những công trình vốn tư nhân công tác đấu thầu cực kỳ đơn giản và
gọn nhẹ. Đặc biệt Luật Đấu thầu thiên về chọn nhà thầu giá rẻ mà không tính đến đầy
đủ năng lực đảm bảo tiến độ và chất lượng nhà thầu dẫn đến đấu thầu kéo dài.
- Năng lực quản lý dự án của nhiều chủ đầu tư còn hạn chế và lúng túng trong
việc chỉ đạo và điều hành cũng dẫn đến nhiều dự án chậm tiến độ. Đặc biệt đối với các
dự án ODA, những vướng mắc khi áp dụng các tiêu chuẩn, quy định của Nhà tài trợ dẫn
đến phối hợp xử lý mất nhiều thời gian.
2. Về nguyên nhân từ phía nhà thầu:
- Năng lực của nhiều nhà thầu còn hạn chế dẫn tới khả năng thực hiện dự án
đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng công trình bị ảnh hưởng. Đặc biệt là do tình trạng các
chủ đầu tư có xu hướng lựa chọn nhà thầu giá rẻ mà không tính đến chất lượng nhà

thầu, khả năng, năng lực đảm bảo tiến độ thi công của nhà thầu.
- Tình trạng bỏ thầu dẫn đến việc phải tổ chức đấu thầu lại cũng làm kéo dài thời
gian thực hiện dự án. Do tác động của việc tăng giá, nhiều nhà thầu khi ký hợp đồng
với chủ đầu tư đã không tính toán đến khả năng rủi ro trượt giá; đồng thời tiến độ cấp
vốn không được đảm bảo đã xuất hiện tình trạng nhiều nhà thầu chấp nhận thua lỗ, phá
hợp đồng, bỏ dự án. Để tiếp tục thực hiện thì chủ đầu tư phải phê duyệt lại dự án và đấu
thầu lại.
Bên cạnh những nguyên nhân trên, một nguyên nhân khác dẫn đến hầu hết các
công trình chậm tiến độ là do vốn không được đảm bảo. Hiện tượng phân bổ vốn dàn
trải vẫn phổ biến, trình tự, thủ tục cấp vốn, thanh toán chậm trễ dẫn đến tiến độ thi công
kéo dài. Thực tế, chỉ trừ một số dự án trọng điểm còn tuyệt đại đa số dự án triển khai
chậm do nguồn vốn thực hiện không đủ, chậm quyết toán. Bên cạnh đó, trình độ, năng
lực của các chủ thể tham gia dự án từ người quyết định đầu tư, chủ đầu tư các nhà thầu
tư vấn, xây lắp còn hạn chế, bất cập so với tốc độ phát triển nhanh, quá nóng.
12
Có hai điều quan trọng trong lĩnh vực đấu thầu khi nhà thầu đã nhận thầu và ký
hợp đồng với chủ đầu tư. Nhà thầu phải tính toán đến mức độ trượt giá cũng như rủi ro
ngay trong hợp đồng đã ký. Chúng ta thừa biết rằng, ở Việt Nam chỉ số lạm phát luôn
rất cao nên nhà thầu bắt buộc phải tính toán đến yếu tố đó. Ở nhiều nước vấn đề này
được xử lý rất nhanh nhưng ở nước ta vấn đề khúc mắc chính là vốn Nhà nước còn hạn
chế. Nhà nước phải tìm cách xử lý.
Ví dụ: Theo quy hoạch, trên địa bàn Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có 16 tuyến
ĐSĐT. Tại Hà Nội đang triển khai thực hiện 4 dự án với tổng chiều dài 58,5km, bao
gồm: Dự án ĐSĐT thí điểm đoạn Nhổn - ga Hà Nội; Dự án ĐSĐT số 2 đoạn Nam
Thăng Long - Trần Hưng Đạo (do UBND TP Hà Nội quyết định đầu tư); Dự án xây
dựng tuyến đường sắt số 1 Yên Viên -Ngọc Hồi (giai đoạn 1) và ĐSĐT Cát Linh - Hà
Đông (do Bộ GTVT quyết định đầu tư). Tại TP Hồ Chí Minh có 2 dự án đang thực hiện
với tổng chiều dài 31km, gồm: ĐSĐT số 1 tuyến Bến Thành - Suối Tiên và ĐSĐT số 2
tuyến Bến Thành - Tham Lương (đều do UBND TP Hồ Chí Minh quyết định đầu tư).
Theo đánh giá của Bộ GTVT, tất cả các dự án này đều chậm tiến độ từ 2 đến 3 năm so

với dự kiến và phải điều chỉnh tổng mức đầu tư tăng từ 60 đến 172% so với phê duyệt
ban đầu. Trong số này, tuyến ĐSĐT số 2 đoạn Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo ban
đầu phê duyệt có tổng mức đầu tư là 19.555 tỷ đồng, thời gian thực hiện từ năm 2009
đến năm 2015. Đến nay theo tính toán, dự kiến tổng mức đầu tư của dự án này sẽ tăng
lên mức 51.750 tỷ đồng (chậm 3 năm). Dự án ĐSĐT tuyến Nhổn - ga Hà Nội theo phê
duyệt ban đầu chỉ có 783 triệu Euro nhưng phải điều chỉnh lên 1,176 tỷ Euro. Tuyến
này bị chậm tiến độ 3 năm. Dự án ĐSĐT Cát Linh - Hà Đông dù đã được điều chỉnh
vốn một lần với mức tăng 339 triệu USD nhưng đến nay kinh phí mua phương tiện lại
tăng thêm 30% so với phê duyệt, trong đó tăng 15% do trượt giá, còn lại do chênh lệch
tỷ giá giữa đồng nhân dân tệ và USD.
3. Về nguyên nhân do tư vấn thiết kế:
Năng lực của nhiều đơn vị tư vấn còn hạn chế nên nhiều dự án khi triển khai
thực hiện phải thực hiện phê duyệt điều chỉnh, bổ sung nhiều lần.
13
Việc quản lý đầu tư xây dựng cơ bản cũng như việc xây dựng và ban hành hoặc
đề xuất ban hành các quy định liên quan đến quản lý đầu tư xây dựng cơ bản như: Công
tác quy hoạch, kế hoạch; lập, thẩm định, phê duyệt dự án; giải phóng mặt bằng; điều
kiện năng lực của tư vấn, ban quản lý dự án; đấu thầu; triển khai thi công xây dựng,
nghiệm thu hoàn thành; thanh quyết toán công trình; liên quan đến nhiều ngành, nhiều
cấp. Do đó, việc giải quyết tình trạng đầu tư không hiệu quả cũng như khắc phục tình
trạng chậm tiến độ của các dự án đầu tư thuộc trách nhiệm của nhiều Bộ, ngành và các
địa phương có dự án chậm tiến độ.
PHẦN III: GIẢI PHÁP
3.1- Hoàn thiện môi trường pháp lý và quá trình quản lý thực hiện các dự
án đầu tư.
3.3.1- Về môi trường pháp lý: Về phía nhà nước cần thực hiện việc rà soát và hệ
thống hoá văn bản pháp luật một cách thường xuyên để làm cơ sở xây dựng và ban
hành các văn bản hợp nhất hoặc sửa đổi, bổ sung huỷ bỏ các văn bản không còn phù
hợp, đảm bảo việc hiểu và thực hiện các điều khoản được thống nhất trong mọi vùng,
giữa các chủ thể, hạn chế những điểm chưa nhất quán, tạo ra sơ hở trong thực tế khi

thực hiện ảnh hưởng đến chất lượng quản lý.
3.3.2- Về việc quản lý: Vấn đề bất cập hiện nay là trình độ, năng lực và cơ cấu tổ
chức của CĐT chưa được đảm bảo, hình thức sử dụng các cơ quan tư vấn chuyên ngành
giúp việc trực tiếp cho CĐT chưa phổ biến và chưa phải bắt buộc. Do đó, trong các văn
bản pháp quy cần quy định cụ thể yêu cầu về năng lực, tổ chức, nhiệm vụ, các quy định
chế tài và cả những quy định quyền hạn của CĐT và tiến tới mô hình sử dụng các Ban
quản lý dự án có tính chất chuyên nghiệp hoặc bắt buộc sử dụng tư vấn trong quản lý
đầu tư và xây dựng. Thực hiện nghiêm chế độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của
14
CĐT với cấp có thẩm quyền, đảm bảo chỉ CĐT có đầy đủ năng lực pháp lý và năng lực
thực hiện mới được quản lý theo hình thức CĐT trực tiếp quản lý thực hiện dự án. Còn
lại, các CĐT không đủ năng lực quản lý thì thuê tư vấn nhưng phải có sự tham gia của
cán bộ chuyên môn về xây dựng của cơ quan quản lý ngành (cán bộ của Cục Hậu Cần)
trong ban quản lý dự án để hướng dẫn CĐT trong quá trình triển khai thực hiện dự án,
tránh tình trạng khoán trắng toàn bộ các khâu của quá trình đầu tư cho tư vấn.
3.2- Đổi mới cơ chế kế hoạch hoá vốn đầu tư xây dựng.
Đổi mới cơ chế kế hoạch hoá vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo hướng phải thực
hiện bằng được việc xây dựng kế hoạch 5 năm với chất lượng cao nhất và công khai kế
hoạch đầu tư đó để các bên được biết. Điều này sẽ tạo ra môi trường lành mạnh, bình
đẳng và là cơ sở pháp lý quan trọng để các ngành, các cấp và đặc biệt là CĐT chủ động
trong lập, trình duyệt kế hoạch đầu tư.
Để đảm bảo tính đúng đắn, khoa học của kế hoạch đầu tư, việc xây dựng kế
hoạch sẽ được thực hiện dưới hình thức đề tài, dự án hay hợp đồng và CĐT giám sát,
kiểm tra quá trình lập kế hoạch đảm bảo kế hoạch được xây dựng một cách khoa học,
tiên tiến và hiện thực. Để nâng cao năng lực xây dựng kế hoạch thì trước hết phải dựa
vào tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu chính trị, chiến lược và kế hoạch đầu tư.
Nhanh chóng xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch phát triển xây dựng đến năm 2020.
3.3- Nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, thẩm định và phê duyệt các Dự
án đầu tư.
Để nâng cao chất lượng thẩm tra, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, Nhà

nước cần giao trách nhiệm cụ thể cho các Bộ quản lý ngành xây dựng và ban hành đầy
đủ các tiêu chuẩn, định mức một cách khoa học sát với thực tế. Nên tận dụng và tham
khảo các tiêu chẩn và định mức của các nước tiên tiến trên thế giới, áp dụng phù hợp
với điều kiện Việt nam.
Hệ thống tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật hiện nay của chúng ta vẫn còn
thiếu và nhiều định mức lạc hậu, bất hợp lý và không phù hợp với thực tế do vậy cần
thiết đầu tư kinh phí, phân giao nhiệm vụ rõ ràng, cần đặt ra kế hoạch và tiến độ thực
15
hiện… để nghiên cứu, ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn định mức phù hợp với thực tế
hiện nay. Trong thời gian qua, Nhà nước và Bộ xây dựng đã ban hành một số tiêu
chuẩn định mức mới làm cơ sở cho các chủ thể tham gia áp dụng, tuy nhiên việc thống
nhất áp dụng vẫn chưa cao, nhiều định mức chưa phù hợp với việc áp dụng trong thực
tế và hiệu quả mang lại chưa đạt được mục tiêu mong muốn.
3.4- Nâng cao chất lượng công tác đấu thầu.
Luật đấu thầu cần có quy định cụ thể, rõ ràng việc phân chia dự án thành các gói
thầu và các biện pháp đảm bảo thực hiện. Việc phân chia dự án thành các gói thầu phải
được xác định khi thiết kế được phê duyệt để vừa đảm bảo phân chia phù hợp yêu cầu,
quy trình thi công phù hợp khả năng cấp vốn đồng thời đảm bảo việc thực hiện gói thầu
có tính khả thi. Tránh tình trạng phân chia nhỏ gói thầu theo kế hoạch phân bổ vốn để
được chỉ định thầu gây rất nhiều tiêu cực và ảnh hưởng xấu đến hiệu quả quản lý.
Công tác chấm thầu cần phải thuê các tổ chức có tư cánh pháp nhân, có năng
lực, có kinh nghiệm tham gia thực hiện công việc, tổ chức tư vấn làm việc độc lập và
chịu trách nhiệm đến cùng đối với sản phẩm tư vấn của mình. Muốn vậy, trước hết cần
phải thực hiện nghiêm cơ chế lựa chọn nhà thầu tư vấn, đồng thời có các chế tài
thưởng, phạt rõ ràng và phải thật nặng đối với các tổ chức tư vấn để vừa nâng cao trách
nhiệm vừa có tác dụng răn đe, buộc các tổ chức tư vấn thực hiện chức trách nhiệm vụ
của mình một cách nghiêm minh, đúng trình tự và đảm bảo chất lượng.
3.5- Đổi mới khâu thanh toán, quyết toán vốn đầu tư.
Đối với công tác thanh quyết toán vốn đầu tư hiện nay đang còn nhiều vấn đề mà
hiệu quả của nó là chưa cao, thời gian quyết toán công trình kéo dài, một trong những

nguyên nhân của tình trạng trên là sự phối hợp của các cơ quan chức năng là rất hạn
chế. Hiện nay, với việc phân công Cục Hậu cần phụ trách về mặt khối lượng còn Phòng
Tài chính phụ trách về mặt đơn giá, như vậy là bất hợp lý và tạo ra sự không thống nhất
vì đây là 2 vấn đề không thể tách rời, nên chăng là sự giám sát lẫn nhau của hai cơ quan
chức năng này nhằm nâng cao tính chính xác và chặt chẽ của công việc, còn việc thực
16
hiện thì chỉ nên để một cơ quan để tránh tình trạng chồng chéo trong nhiệm vụ, trách
nhiệm và quyền hạn của mỗi cơ quan, gây lãng phí không cần thiết.
Cơ quan thanh toán phải chịu trách nhiệm đảm bảo đủ vốn thanh toán kịp thời
theo hợp đồng mà CĐT đã ký với nhà thầu khi có khối lượng nghiệm thu, có trách
nhiệm hướng dẫn CĐT các thủ tục cần thiết trong hồ sơ thanh quyết toán vốn. Cần phải
có cơ chế cho việc tạo nguồn để chi trả cho khối lượng XD hoàn thành (CĐT vay vốn
để trả).
Hiện nay chưa có chế tài để buộc các nhà thầu, CĐT phải quyết toán đúng giá
trị, khối lượng; quy định rõ trách nhiệm của người thanh toán, người đề nghị thanh toán
nên trách nhiệm các chủ thể này còn rất hạn chế, phải gắn quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm để làm tăng tính hiệu quả.
3.6- Hoàn thiện bộ máy quản lý đồng bộ thống nhất trong việc lập, tổ chức
thực hiện và điều hành dự án.
Vấn đề hoàn thiện bộ máy quản lý là một yêu cầu khách quan, phù hợp với quy
luật phát triển. Để quản lý có hiệu quả thì vấn đề chuyên môn hoá bộ máy quản lý là
cần thiết, tránh những chồng chéo về nhiệm vụ và trách nhiệm trong quản lý. Phải xây
dựng chế độ đào tạo, cấp chứng chỉ hành nghề quản lý. Phải đào tạo được một đội ngũ
cán bộ quản lý có trình độ năng lực chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp tốt, am hiểu pháp luật để tham gia vào các Ban quản lý dự án.
Phân công rõ trách nhiệm của từng cơ quan làm công tác XDCB trong BTTM
đối với quy trình hoạt động XDCB, phải thống nhất trong hướng dẫn, chỉ đạo đơn vị,
không để xảy ra tình trạng chồng chéo gây khó khăn cho đơn vị. Kiện toàn bộ máy và
đội ngũ cán bộ làm công tác XDCB ở các đơn vị đầu mối. Tăng cường trách nhiệm của
CĐT trong hoạt động đầu tư XDCB.

Từng bước thiết lập bộ máy quản lý chuyên nghiệp và hiệu quả, nhanh chóng
tách rời nhiệm vụ chính trị, an ninh quốc phòng với nhiệm vụ kinh tế, hạn chế tính
mệnh lệnh trong quân đội áp dụng để điều chỉnh các hành vi trong kinh tế với quan
17
điểm là: các hoạt động mang tính chất kinh tế thì để các quy luật kinh tế điều chỉnh trên
cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn điều chỉnh hành vi.
Đây là giải pháp mang tính tổng hợp, nó đòi hỏi sự phối hợp một cách nhịp
nhàng của các bộ phận.
KẾT LUẬN
Ðiểm qua các công trình xây dựng trọng điểm quốc gia cho thấy vẫn còn một số
vấn đề cần phải đặc biệt quan tâm như quản lý chất lượng công trình và tiến độ. Ðể đẩy
nhanh tiến độ đầu tư các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội đất nước, Bộ Xây dựng đã tiến hành kiểm tra, rà soát đánh giá những
thuận lợi, khó khăn để đưa ra biện pháp tháo gỡ những khó khăn trên công trường; điều
chỉnh và phối hợp điều chỉnh cơ chế chính sách theo thẩm quyền. Ðặc biệt, phối
hợp các bộ, ngành để đề xuất Chính phủ điều chỉnh cơ chế chính sách cho các nhà đầu
tư, các nhà thầu, các doanh nghiệp liên quan hoạt động xây dựng.
Qua thực tế khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu của các đơn vị tham gia các dự án
công trình xây dựng trọng điểm quốc gia, có thể đúc rút một số kinh nghiệm sau:
Nghiêm túc thực hiện các nhóm giải pháp điều tiết vĩ mô của Chính phủ, từng cấp, từng
đơn vị phải có những giải pháp để phối hợp và thực hiện một cách có hiệu quả nhất.
Việc tập trung vốn, nguồn nhân lực cho những dự án xây dựng trọng điểm quốc gia hết
sức quan trọng, cùng với việc tiết kiệm chi phí quản lý, đồng thời từng bước nâng cao
đời sống và điều kiện làm việc cho cán bộ, công nhân viên trong các doanh nghiệp.
Nền kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải phát triển. Nhà nước ban hành nhiều cơ chế
chính sách tạo tiền đề cho việc tăng cường công tác quản lý tổ chức lại bộ máy, giải
phóng năng lực sản xuất và mở rộng các hình thức huy động vốn. Chính phủ tiếp tục ưu
tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông vận tải nhằm làm tăng năng lực và chất
18

lượng dịch vụ vận tải… Nhờ đó hệ thống Cơ sở hạ tầng đầu tư xây dựng đã đạt được
một số thành tựu đáng kể: nhiều công trình mang tính quốc gia được đầu tư xây dựng
mới hoặc hoàn thiện. Đã tạo được một hệ thống Cơ sở hạ tầng căn bản để tạo điều kiện
cho việc phát triển kinh tế xã hội quốc gia và đặc biệt là một nhân tố không thể thiếu
khi thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên bên cạnh đó còn nổi lên nhiều bất cập như
tình trạng thất thoát lãng phí, rút ruột công trình dẫn đến tình trạng chất lượng công
trình không được đảm bảo, thời gian thi công kéo dài… Nguyên nhân chính là công tác
quản lý hoạt động đầu tư còn bị buông lỏng, chuyên môn của nhiều cán bộ còn kém.
Mặt khác quản lý tiến độ thực hiên dự án đầu tư xây dựng nằm trong quản lý dự án,
và đóng vai trò rất quan trọng là một nghiệp vụ trong Quản lý dự án, một vấn đề rất
rộng và phức tạp gồm nhiều nội dung khác nhau
Trong giới hạn cho phép trên đây nhóm em đã trình bày được lý thuyết của dự án,
quản lý dự án và lý thuyết quản lý tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, bên cạnh đó
nhóm cũng đã nêu được những thành tựu đạt được, cùng với những vấn đề còn đang tồn
tại trong việc thực hiện tiến độ thi công các công trình xây dựng.
19

×