Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Trình bày các nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư và sự tuân thủ các nguyên tắc này khi quản lý đầu tư ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.8 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư là một hoạt động kinh tế và là một bộ phận hoạt động sản xuất kinh
doanh của các đơn vị, doanh nghiệp. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tiềm
lực của nền kinh tế nói chung, tiềm lực sản xuất kinh của các đơn vị nói riêng.
Mỗi hoạt động đầu tư được tiến hành với rất nhiều công việc có những đặc
điểm kinh tế - kỹ thuật đa dạng. Nguồn lực huy động cho hoạt động đó thường rất
lớn. Thời gian thực hiện và kết thúc đầu tư, nhất là việc thu hồi đầu tư vốn đã bỏ ra,
hoặc đem lại những lợi ích cho xã hội, là một quá trình có thời gian dài. Do đó, để sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực đã chi cho công cuộc đầu tư, đem lại lợi ích kinh tế
xã hội lớn nhất cho đất nước, ngành và các đơn vị, một trong những vấn đề quan
trọng có tính chất quyết định của mọi công cuộc đầu tư là những nhừng trực tiếp
quản lý điều hành quá trình đầu tư và thực hiện đầu tư phải được trang bị đầy đủ các
kiến thức về hoạt động đầu tư và dự án đầu tư.
Để có cái nhìn khái quát về các nguyên tắc trong quản lý hoạt động đầu tư ở
Việt Nam nói chung và ở các nước khác nói riêng, chúng em đã lựa chọn đề tài:
“Trình bày các nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư và sự tuân thủ các nguyên tắc
này khi quản lý đầu tư ở Việt Nam”. Nội dung đề tài gồm 03 chương:
Chương 1: Khái niệm chung về quản lý hoạt động đầu tư
Chương 2: Các nguyên tắc trong quản lý hoạt động đầu tư
Chương 3: Sự tuân thủ các nguyên tắc trong quản lý đầu tư ở Việt Nam
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc trình bày, nhưng chắc chắn bài làm
của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự
góp ý của cô giáo để bài làm của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!.
1 1
CHƯƠNG 1
Khái niệm chung về quản lý hoạt động đầu tư
1.1. Khái niệm quản lý đầu tư
Quản lý nói chung là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào các đối
tượng quản lý để điều khiển đối tượng nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Quản lý đầu tư là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng mục tiêu vào


quá trình đầu tư (bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết
quả đầu tư) và các yếu tố đầu tư bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã
hội, tổ chức kỹ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được kết quả, hiệu quả kinh tế
xã hội cao nhất trong những điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng
tạo những quy luật khách quan và quy luật đặc thù của đầu tư.
1.2. Mục tiêu của quản lý nhà nước hoạt động đầu tư
 Trên góc độ vĩ mô
Trên góc độ vĩ mô, quản lý nhà nước hoạt động đầu tư là nhằm đáp ứng
những mục tiêu sau:
- Thực hiện thành công các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ của từng quốc gia, từng ngành, từng địa phương. Đối với nước ta,
đầu tư nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của người lao động.
- Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả cao các nguồn vốn đầu tư, các nguồn
lực vật lực của ngành, địa phương và toàn xã hội nhằm sử dụng hợp lý, tiết kiệm và
khai thác có hiệu quả các loại nguồn vốn, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và
2 2
các tiềm năng khác, đồng thời phải gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái, chống
tham ô, lãng phí trong quá trình sử dụng và khai thác vốn.
- Thực hiện đúng những quy định pháp luật và yêu cầu kinh tế - kỹ thuật
trong lĩnh vực đầu tư nhằm đảm bảo cho quá trình thực hiện đầu tư, xây dựng công
trình theo đúng quy hoạch và thiết kế được duyệt, đảm bảo sự bền vững và mỹ quan,
áp dụng công nghệ xây dựng tiên tiến, đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với
chi phí hợp lý.
 Mục tiêu quản lý đầu tư của từng cơ sở
Nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu hoạt động, chiến lược phát triển của đơn
vị, mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế tài
chính, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, nâng cao năng suất lao động, đổi mới công nghệ

và tiết kiệm chi phí…
 Mục tiêu quản lý đầu tư đối với từng dự án
Nhằm thực hiện đúng mục tiêu của dự án, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội
của đầu tư trên cơ sở thực hiện đúng thời gian đã định trong phạm vi chi phí được
duyệt và với tiêu chuẩn hoàn thiện cao nhất.
1.3. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đầu tư
Đầu tư là một trong những vấn đề quan trọng của đất nước, huy động các
nguồn lực tài chính trong và ngoài nước, vì thế các cơ quan chức năng của Nhà nước
đều có liên quan đến đầu tư, chịu trách nhiệm quản lý đầu tư và có các chức năng
khác nhau, được quy định cụ thể trong Luật đầu tư và các văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước.
Sơ đồ hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đầu tư
3 3
Quốc hội
Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ
Các Bộ, ban, ngành, địa phương
Quốc hội là cơ quan cao nhất có quyền phê chuẩn và ban hành các luật pháp
có liên quan đến đầu tư, quyết định các chủ trương đầu tư lớn có tầm quan trọng đến
sự phát triển của đất nước.
Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư trong phạm vi cả
nước; chỉ đạo xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát
triển theo ngành, lĩnh vực và vùng kinh tế; ban hành chính sách, văn bản quy phạm
pháp luật về đầu tư; phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư cho các Bộ, ngành và địa
phương.
4
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- Bộ Tài chính;
- Bộ Xây dựng;
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;

- Bộ Tài nguyên và Môi trường;
- Bộ Khoa học - Công nghệ;
- Bộ Công thương;
- Các Bộ quản lý ngành;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
- Ban quản lý khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghiệp cao, khu
kinh tế.
4
Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương thực hiện luật
pháp, chính sách về đầu tư, phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt quy hoạch; quyết
định chủ trương đầu tư đối với những dự án đầu tư thuộc thẩm quyền; quyết định
hoặc cho phép thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và
khu kinh tế; chỉ đạo giải quyết những vấn đề vướng mắc trong quá trình điều hành,
quản lý hoạt động đầu tư vượt quá thẩm quyền của các Bộ, ngành và địa phương.
Các Bộ, ngành và địa phương thực hiện theo các quy định của Nhà nước và
pháp luật về đầu tư; Chủ trì, tổ chức, phối hợp và các đơn vị liên quan trong việc xây
dựng, rà soát các văn bản pháp luật, chính sách về đầu tư; Hướng dẫn, phổ biến, theo
dõi, kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư; Ban hành các
mẫu văn bản liên quan đến thủ tục đầu tư để áp dụng trong phạm vi cả nước hoặc
trong địa phương mình; Tổ chức, phối hợp các đơn vị liên quan xây dựng, tổng hợp
trình cơ quan cấp trên về quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển; lập danh mục dự án
quốc gia….
5 5
CHƯƠNG 2
CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ ĐẦU TƯ VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ VỚI
VIỆT NAM
1. Nguyên tắc thống nhất giữa chính trị và kinh tế, kết hợp hài hòa
hai mặt kinh tế xã hội
Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế, nhằm đảm bảo quan hệ đúng đắn

giữa kinh tế và chính trị,và tạo động lực đồng chiều cho mọi người dân trong xã hội,
là một trong những nguyên tắc cơ bản của việc quản lý kinh tế có căn cứ khoa học
trong phạm vi quốc gia. Phát triển luận điểm của Mác và Ănghen về sự tương quan
giữa chính trị và kinh tế, Lênin đã xác định sự thống nhất biện chứng và sự tác động
qua lại giữa hai hoạt động của con người: chính trị và kinh tế.
Chính trị là lĩnh vực của những quan hệ nhất định trong xã hội diễn ra như là
hoạt động có ý thức của con người. Đó là một hình thức nhận thức phản ánh mức độ
lớn nhất các quan hệ kinh tế của con người. Ngoài những yếu tố khách quan, chính
trị bao gồm cả yếu tố chủ quan.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa có hai đối sách đối lập nhau: Đối sách của Nhà
nước tư bản chủ nghĩa và đối sách của giai cấp công nhân do đảng cộng sản lãnh
đạo. Mối liên hệ và tác động qua lại giữa chính trị và kinh tế trong xã hội tư bản chủ
nghĩa được thực hiện qua sự đấu tranh thường xuyên giữa hai lực lượng đó.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa không có sự phân chia đó, vì nhân dân là người
chủ thực sự của tư liệu sản xuất, nắm quyền lực chính trị trong tay. Nhưng cũng
không dễ có chính sách thích nghi ngay với yêu cầu, khi chưa có cơ sở kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Theo quan điểm của Lênin, sự thích nghi của chính trị với kinh tế không
thể tránh khỏi, nhưng không phải ngay tức khắc đã trơn tru, không phải giản đơn và
trực tiếp. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước này hay nước khác,vẫn
6 6
chưa giải quyết được vấn đề thích nghi đầy đủ giữa chính trị với nhu cầu phát triển
kinh tế trong khuôn khổ được chấp nhận của con người.
∗ Sự thống nhất và sự tác động khách quan khác nhau giữa chính trị và kinh
tế được thể hiện ở các đặc điểm sau:
Một là, sự thống nhất và mối liên hệ lẫn nhau giữa chính trị và kinh tế không
có nghĩa là sự đồng nhất giữa chúng, vì đó là hai phạm vi khác nhau của hoạt động
con người, tuy chúng được phát triển trong sự thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau.
Không thể nhìn thấy ngay lợi ích kinh tế trực tiếp và đầy đủ trong mọi hành động
chính trị. Đôi khi muốn đạt được lợi ích kinh tế nào đó, cần có hàng loạt biện pháp
chính trị quá độ. Có thể có lợi ích chính trị trong những trường hợp mà lợi ích kinh

tế trực tiếp không đáng kể và được con người chấp nhận.
Hai là, trong sự thống nhất giữa chính trị và kinh tế, suy đến cùng vai trò
quyết định thuộc về kinh tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa giữ vai trò người cải tạo
kinh tế, trên cơ sở vận dụng tự giác các quy luật khách quan. Thực tế đó là lý do để
đánh giá cao vai trò của chính trị, để giải thích chính trị như là nhân tố quyết định so
với kinh tế. Nhưng cho dù phạm vi chính trị có phức tạp đến đâu chăng nữa, thì suy
cho cùng cũng do các điều kiện kinh tế quy định.
Ba là, chính trị không phản ánh một cách thụ động thực tế kinh tế. Nó là
phương tiện mạnh mẽ tác động đến các quá trình kinh tế khách quan. Sự tác động
ngược lại của chính quyền Nhà nước đến sự phát triển kinh tế có 3 loại: tác động
cùng hướng thì sự phát triển kinh tế sẽ nhanh; tác động ngược hướng thì kìm hãm sự
phát triển kinh tế, hoặc nó cản trở sự phát triển trong những hướng nhất định; và thúc
đẩy sự phát triển kinh tế theo hướng khác. Rõ ràng trong trường hợp thứ hai và thứ
ba, chính quyền có thể gây thiệt hại to lớn cho sự phát triển kinh tế, dường lối chính
trị sai sẽ dẫn đến sự bế tác về kinh tế.
Dưới chủ nghĩa xã hội, chính trị và kinh tế không thể tách rời nhau vì chính
sách của đảng là cơ sở của mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hướng dẫn sự phát triển
không ngừng của nền kinh tế.
7 7
∗ Nội dung của nguyên tắc thống nhất giữa lãnh đạo chính trị và kinh tế là:
− Phải đảm bảo sự lãnh đạo của đảng trên mặt trận kinh tế và quản lý kinh tế.
Cụ thể là:
1. Đảng phải vạch ra đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội.
2. Đảng phải chỉ rõ con đường, biện pháp, thủ thuật, phương tiện để thực hiện
đường lối chủ trương đã vạch ra.
3. Đảng phải động viên được đông đảo đảng viên, quần chúng, đoàn kết nhất
trí thực hiện đường lối, chủ trương; đảng phải nắm chắc công tác nhân sự.
− Phải phát huy vai trò điều hành, quản lý của Nhà nước cụ thể là:
1.Nhà nước phải dùng quyền lực của mình để thống nhất ban hành luật pháp,
thể chế.

2. Nhà nước phải biến đổi các đường lối của đảng thành các kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3. Nhà nước phải chăm lo giải quyết vấn đề cán bộ, vấn đề lao động, vấn đề
xã hội.
4. Nhà nước phải triển khai thực hiện kế hoạch đã vạch ra.
5. Nhà nước phải kiểm tra, tổng kết việc thực hiện kế hoạch, tìm tòi mọi giải
pháp có thể phát triển đất nước.
Vừa phát triển kinh tế, vừa phải quan tâm đến vấn đề an ninh, quốc phòng của
đất nước.
Trong phạm vi nhỏ hơn (các doanh nghiệp), nguyên tắc kết hợp lãnh đạo
chính trị và kinh tế là sự ràng buộc mà các doanh nghiệp phải tuân thủ về luật pháp,
thông lệ kinh doanh trong quá trình hoạt động. Còn trong quan hệ làm ăn kinh tế
trước mắt mà mất cảnh giác thì dễ bị thôn tính về mặt chính trị, bị hòa tan vào chủ
nghĩa tư bản.
8 8
2. Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo địa phương và
vùng lănh thổ
Nhà nước phải có một thể chế thống nhất. Bộ máy Nhà nước được tổ chức
hoạt động theo các cấp hành chính nhàn nước và theo quy định là cấp dưới phải phục
tùng cấp trên. Địa phương phải phục tùng Trung ương. Đó là quản lý lãnh thổ của
chính quyền địa phương.
Các đơn vị thuộc các ngành kinh tế - kỹ thuật đều nằm trên một địa bàn lãnh
thổ nhất định. Các đơn vị đó phải chịu sự quản lý lãnh thổ của Ngành (Bộ), đồng
thời nó cũng phải chịu quản lý lãnh thổ của chính quyền địa phương trong một số
mặt theo chế quy định. Hai mặt đó tạo nên sự thống nhất giữa cơ cấu kinh tế ngành
với cơ cấu kinh tế lãnh thổ trong một cơ cấu kinh tế chung.
Nguyên tắc này đòi hỏi quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ phải phối
hợp, gắn bó với nhau trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, có trách nhiệm chung trong
việc hoàn thành kế hoạch Nhà nước của ngành cũng như lãnh thổ, có trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền lợi của từng bên và của cả hai bên theo luật định.

Nhà nước ta có phương hướng phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
phía Nam và miền Trung đến 2010 tầm nhìn đến 2020. Trong đó nhấn mạnh mục
tiêu nâng tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ xuất khẩu bình quân đầu người,
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ bao gồm 8 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh. Theo
quyết định của Thủ tướng, vùng sẽ phải tăng tỷ trọng đóng góp trong GDP của cả
nước từ 21% năm 2005 lên khảng 23-24% vào năm 2010 và 28-29% vào năm 2020.
Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người mỗi năm từ 447 USD lên 1.200 USD năm
2010 và 9.200 USD năm 2020.
Vùng kinh tế này sẽ được ưu tiên phát triển các ngành kỹ thuật cao như công
nghiệp phần mềm, thiết bị tin học, tự động hóa, thép chất lượng cao Nhằm cải
thiện cơ sở hạ tầng, một loạt dự án xây dựng sẽ được phê duyệt gồm các tuyến
9 9
đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Ninh Bình, đường xe điện ngầm,
đường sắt nội đô, Hà Nội có nhiệm vụ đưa công nghiệp, đặc biệt các sản xuất có
nguy cơ gây ô nhiễm ra xa nội thành, còn Hải Phòng có thể tăng quy mô dân số nội
thị vào năm 2010 lên đến 750.000 - 900.000 người.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai,
Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước, Long An cần đạt tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân hằng năm giai đoạn 2006 - 2010 ở mức 1,2 lần, tăng tỷ
lệ đóng góp của vùng trong GDP cả nước từ 36% hiện nay lên 40 - 41% vào năm
2010, tăng giá trị xuất khẩu bình quân đầu người mỗi năm từ 1.493 USD năm 2005
lên 3.620 USD năm 2010 và 22.310 USD năm 2020. Khu đô thị tổng hợp ở Tây Bắc
TP HCM, trung tâm đào tạo chất lượng cao ở Bình Dương, Vũng Tàu, sẽ được đầu
tư xây dựng.
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nội dung của nguyên tắc là phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa
tập trung và dân chủ trong quản lý kinh tế. Tập trung phải dựa trên cơ sở dân chủ,
dân chủ phải thực hiện trong khuôn khổ tập trung.
∗ Biểu hiện của tập trung là:

− Thông qua công tác kế hoạch hóa để vạch ra mục tiêu phát triển đất nước.
− Thông qua và thực thi hệ thống pháp luật quản lý kinh tế.
− Thực hiện chế độ một thủ trưởng ở tất cả các đơn vị, các cấp.
∗ Biểu hiện của dân chủ là:
− Xác định rõ vị trí, trách nhiệm, quyền hạn của các cấp.
− Hạch toán kinh tế.
− Chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận mở cửa.
− Giáo dục, bồi dưỡng trình độ kiến thức cho quần chúng.
− Kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo địa phương, vùng lãnh thổ.
Hiện nay ở Việt Nam, việc đầu tư công không được kiểm soát chặt chẽ trong
10 10
thời gian dài là một trong những nguyên nhân chính khiến lạm phát tăng cao. Trong
báo cáo kiểm toán năm 2007, Kiểm toán Nhà nước kết luận, đã có nhiều sai phạm,
thiếu sót trong đầu tư xây dựng cơ bản, diễn ra ở mọi khâu: từ khâu lập và giao dự
toán cho tới khâu giám sát, thực hiện; tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún diễn ra
trong những năm vừa qua vẫn chậm được khắc phục, dẫn đến việc bố trí vốn cho các
dự án vượt quá khả năng. Công tác quản lý nguồn vốn đầu tư lỏng lẻo đã tạo các kẻ
hở gây thất thoát vốn đầu tư ngân sách và vốn tín dụng đầu từ Nhà nước.
Đầu tư còn dàn trải, số lượng dự án duyệt chờ ngân sách cấp vốn có xu hướng
tăng thực tế đang là áp lực lớn đối với ngân sách Nhà nước trong điều kiện ngân
sách còn hạn hẹp như hiện nay. Do đó vấn đề đặt ra là cần xác định rõ mục tiêu ưu
tiên đầu tư, lĩnh vực, công trình cần đầu tư để tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực
thiết yếu đó phát triển; đồng thời mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế tư
nhân. Việc làm này không những giúp cơ quan chức năng quản lý tốt hơn nguồn vốn
đầu tư mà còn tận dụng được mọi nguồn lực để phát triển.
Bên cạnh đó, việc phân cấp quản lý trong đầu tư và xây dựng cần cụ thể, rõ
ràng hơn, từ khâu thẩm định, đấu thầu, bố trí nguồn vốn cho đến quản lý, thực hiện
các dự án đầu tư. Phân cấp quyết định đầu tư cần được gắn liền với trách nhiệm huy
động vốn thực hiện, trách nhiệm khi để xảy ra thất thoát, lãng phí và không hiệu quả
của mỗi cá nhân, cơ quan cụ thể khi đã được phân cấp.

Nâng cao chất lượng quản lý nguồn vốn ngân sách không những có vai trò
quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn góp phần kiềm chế lạm phát. Việc
Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành, địa phương cắt giảm chi tiêu công, đình hoãn, giãn
tiến độ các công trình chưa thật cần thiết không chỉ góp phần kiềm chế lạm phát mà
cho thấy sự quyết tâm của Chính phủ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
vốn này.
11 11
4. Nguyên tắc gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội
Đây là một nguyên tắc hết sức quan trọng nhằm duy trì và phát triển các đặc
trưng phải có của chủ nghĩa xã hội.
Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã khẳng định: Nắm
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần:
− Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân.
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh
đa dạng, đan xen, hỗn hợp.
Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật
chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Doanh nghiệp Nhà nước giữ vị trí then chốt; đi đàu trong ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ, nêu gương vè năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và
chấp hành pháp luật.
Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp
tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập
thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Phát triển hợp tác xã

kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Nhà nước giúp hợp tác xã đào
tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường,
xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến khích
12 12
việc tích lũy, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Tổng kết việc
chuyển đổi và phát triển hợp tác xã theo Luật hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu
dài. Nhà nước tạo diều kiện giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ
chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề
sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu
tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh
nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với
kinh tế tạp thể và kinh tế Nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và
người lao động.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản Nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên
kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước,
mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng
vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ
hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút
mạnh vốn đàu tư nước ngoài.
Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp
nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong và ngoài
nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng
rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông
nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Phát triển các loại hình
trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn.
13 13

5. Nguyên tắc kết hợp hài hòa các loại lợi ích trong đầu tư
Đây là nguyên tắc đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải xử lý thỏa đáng mối quan hệ
biện chứng giữa các loại lợi ích có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp, bao gồm:
− Lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải đảm
bảo đủ động lực cho người lao động sống và làm việc, nhờ đó gắn bó người lao
động một cách văn minh và chặt chẽ trong doanh nghiêp.
− Lợi ích của khách hàng, dó là lợi ích của những người mua sản phẩm của
doanh nghiệp với các yêu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp và cách phục vụ của
doanh nghiệp.
− Lợi ích của Nhà nước và xã hội. Đó là nghĩa vụ đối với Nhà nước và các
ràng buộc pháp luật khác mà doanh nghiệp phải thực hiện, là các thông lệ xã hội
(môi sinh, môi trường, nghĩa vụ cộng đồng…) mà doanh nghiệp phải tuân thủ.
− Lợi ích của các bạn hàng, đó là lợi ích của các cá nhân và đơn vị tham gia
cung ứng một phần hoặc toàn bộ các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Họ phải thỏa
mãn các lợi ích của mình khi thực hiện mối quan hệ với doanh nghiệp.
Hiện nay, trong các doanh nghiệp khi xảy ra mâu thuẫn giữa doanh nghiệp và
công nhân thường xảy ra đình công. Trong khi công nhân luôn muốn được hưởng
quyền lợi đúng và đủ với năng lực và lao động của mình thì doanh nghiệp lại muốn
có lợi nhuận tối đa. Một số doanh nghiệp đã liên tục yêu cầu công nhân phải sản xuất
tăng ca nhưng lại không tăng lương tương xứng, hay trốn đóng BHXH cho người lao
động.
Lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai- một địa phương có khá nhiều khu công
nghiệp, khu chế xuất. Trong vòng 6 tháng (tính đến hết ngày 10/6/2008) tỉnh này đã
xảy ra 70 vụ đình công, (trong đó 57 vụ xảy ra ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, nhiều hơn so với cùng kỳ năm 2007 là 12 vụ). Có quá nửa số vụ đình
công xảy ra do tranh chấp về lợi ích, như yêu cầu điều chỉnh mức tiền lương, trả tiền
thâm niên, tiền thưởng cuối năm, hỗ trợ tiền nhà ở, tiền tàu xe, tiền chuyên cần,…
14 14
Một số vụ khác thì công nhân yêu cầu đưa tiền độc hại vào lương cơ bản, giao kết

hợp đồng lao động, huy động làm thêm giờ, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động và chế
độ đối với lao động nữ. Đối với người lao động, thiệt thòi sau mỗi vụ đình công nhẹ
thì phải làm cật lực để bù lại tiền lương, năng suất công việc của những ngày nghỉ
làm; nặng thì mất thời gian đi tìm việc làm mới. Đối với các công ty, thiệt hại còn
lớn hơn nhiều. Ông Yoo Jae Sung, TGĐ Công ty Taekwang Vina cho biết: "Vụ đình
công trong 5 ngày cuối năm 2007 đã gây thiệt hại cho công ty tới 4 triệu USD”.
Tương tự, ông Kitahashi Akihiko, TGĐ Công ty Mabuchi Motor cũng than thở: "Chỉ
trong gần 5 ngày đình công đầu năm 2008, công ty bị ngừng trệ sản xuất đã thiệt hại
tới 3,5 triệu USD”.
6. Nguyên tắc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý
hoạt động đầu tư
Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước phải dựa trên
cơ sở pháp luật của Nhà nước. Nguyên tắc này không cho phép các cơ quan Nhà
nước thực hiện việc quản lý Nhà nước một cách chủ quan, tùy tiện mà phải dựa vào
pháp luật, làm đúng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước. Để
thực hiện nguyên tắc này phải có ba điều kiện: xây dựng và hoàn chỉnh pháp luật,
giáo dục pháp luật cho toàn dân, phải xử lý một cách nghiêm minh mọi hành vi
phạm pháp luật (kể cả nhân dân và viên chức Nhà nước).
7. Nguyên tắc mở rộng đầu tư với các nước
Nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là: mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế theo nguyên tắc các bên cùng có lợi, không xâm phạm độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa
nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
15 15
tộc, bảo vệ môi trường. Chính phủ cùng các Bộ, Ngành và các doanh nghiệp khẩn
trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý
và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và
doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh

tế xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp và nền kinh tế.
Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa và các nước láng giêng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước
ASEAN. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước đang
phát triển. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước đang phát triển và các tổ chức
quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa phương.
Hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức
mạnh tổng hợp thực hiện có kết quả nhiệm vụ công tác đối ngoại, làm cho cả thế giới
hiểu rõ hơn đất nước, con người, công cuộc đổi mới của việt nam, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và hợp tác ngày càng
rộng rãi của thế giới.
Thực hiện chính sách đối ngoại và thu hút đầu tư mở rộng, hiện nay Việt Nam
đã giao lưu thương mại với hơn 180 nước và vùng lãnh thổ, đầu tư trên 5.300 dự án
với tổng vốn đầu tư khoảng 50 tỉ đôla vào Việt Nam. Lợi thế lớn của Việt Nam là
nằm ở vị trí trung tâm trong vùng kinh tế của Trung Quốc và các nước Châu Á, nên
rất thuận lợi cho giao thương quốc tế. Việt Nam có một nền chính trị ổn định và một
xã hội an toàn, thân thiện, đồng thời với số dân 80 triệu người, nguồn lao động có
văn hóa, cần cù và cầu tiến, Việt Nam thực sự là một thị trường tiềm năng lớn trong
khu vực. Mặt khác Việt Nam là thành viên các nước Asean và Khu vực mậu dịch tự
do AFTA với tổng dân số là 500 triệu người, và đang tích cực đàm phán để gia nhập
tổ chức thương mại thế giới WTO Do vậy hàng hóa sản xuất tại Việt Nam dễ dàng
16 16
thâm nhập vào các nước Asean, Trung Quốc, Mỹ và các nước Châu Âu với nhiều ưu
đãi về thuế quan dành cho quốc gia đang phát triển.
Nhằm cải thiện môi trường đầu tư ngày càng tốt hơn, Chính phủ Việt Nam
đang có một số chủ trương chính sách mới, đó là:
Thứ nhất: Chính phủ Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư chung cho các loại
hình doanh nghiệp, đối xử bình đẳng quốc gia, không phân biệt giữa đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài, hoàn toàn xóa bỏ phân biệt về giá và lệ phí đối với nhà

đầu tư nứơc ngoài.
Thứ hai: Ngoài các chương trình hợp tác đa phương, Chính phủ Việt Nam đã
ký hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 50 nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới, tích cực đàm phán gia nhập WTO. Các cam kết quốc tế của
Việt Nam đều hướng tới mục tiêu chung là nhằm mở cửa thị trường, tự do hóa hoạt
động đầu tư nước ngoài.
Thứ ba: Tiếp tục thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà
nước, đồng thời đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước với phạm vi
rộng lớn hơn, bao gồm cả một số tổng công ty, doanh nghiệp lớn làm ăn có hiệu quả,
kể cả các ngành trước nay Nhà nước giữ độc quyền như: Điện lực, Bưu chính Viễn
thông, Ngân hàng, Các nhà đầu tư nước ngoài đều được mua cổ phiếu của các
doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư: Chính phủ đã cho phép chuyển đổi một số Doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, và đang có chủ trương mở
rộng tỉ lệ mua cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp.
8. Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả
Tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt của cùng một vấn đề, đó là làm sao để với
một cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn tài nguyên, lực lượng lao động xã hội hiện có và
17 17
sẽ có trong một giai đoạn phát triển kinh tế nào đó, có thể sản xuất ra được một khối
lượng của cải vật chất và tinh thần nhiều nhất, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
vật chất và tinh thần của xã hội, chứng minh tính hơn hẳn của hệ thống quản lý kinh
tế xã hội chủ nghĩa so với hệ thống quản lý kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tính toán doanh nghiệp đều phải đạt được các
mục tiêu đề ra một cách thiết thực và an toàn, thể hiện ở các chỉ tiêu có hiệu quả kinh
tế cao:
e =
E = -
Trong đó:
e: Hiệu quả so sánh (tương đối)

E: Hiệu quả tuyệt đối
K: Tổng kết quả thu được
C: Tổng chi phí bỏ ra
C
i
: Chi phí bổ sung năm i
C
0
: Chi phí ban đầu
K
i
: Kết quả thu được năm i
n: Số năm khai thác, sử dụng doanh nghiệp (trong một chu kỳ tồn tại và hoạt
động).
Các đơn vị tiền tệ được tính quy đổi về cùng một đơn vị (thứ nguyên) theo kỹ
thuật “hiện đại hóa vốn”.
Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải hạn chế tới mức thấp nhất
các rủi ro có thể xảy ra cho doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế sản xuất nhỏ, tiết kiệm thường đóng khung trong tiết kiệm
tiêu dùng cá nhân, hoặc người ta chỉ lo tiết kiệm trong việc sản xuất từng đơn vị sản
18 18
phẩm, không tính đến và cũng không thể đáp ứng nhu cầu to lớn của toàn xã hội về
tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng, không thể đảm bảo hiệu quả kinh tế cho nền
sản xuất xã hội.
Yêu cầu của nguyên tắc này chính là các hoạt động kinh tế phải đạt được kết
quả cao nhất trong phạm vi có thể.
∗ Khả năng tiết kiệm có nhiều, trong đó có thể bao gồm các việc sau:
− Có đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với đòi hỏi
của các quy luật khách quan.
− Giảm chi phí vật tư. Đây là một việc làm có ý nghĩa kinh tế to lớn. Tiết

kiệm nguồn vật tư tương đương với việc mở rộng cơ sở nguyên vật liệu trong công
nghiệp khai thác mà không cần đầu tư thêm cho xây dựng cơ bản. Nó còn đảm bảo
cho việc tiết kiệm lao động sống vì nó giảm bớt nhu cầu về sức lao động cần cho
việc bốc dỡ, vận chuyển và bảo quản các vật tư đang sử dụng, giảm bớt thời gian
công chúng, do đó làm giảm giá thành.
∗ Việc tiết kiệm vật tư được thực hiện bằng cách:
− Áp dụng kỹ thuật mới và quy trình công nghệ tiên tiến
− Cải tiến kết cấu sản phẩm, giảm trọng lượng
− Nâng cao chất lượng sản phẩm
− Sử dụng vật liệu thay thế và phế phẩm
∗ Tiết kiệm lao động sống. Tuy nguồn dự trữ về sức lao động ở nước ta rất
lớn nhưng không vì thế mà không có biện pháp quan trọng để sử dụng hợp lý và tiết
kiệm chúng, đặc biệt là vấn đề nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, kể
cả lao động quản lý một cách khoa học.
Để tiết kiệm lao động có hiệu quả phải cải tiến bộ máy quản lý, giảm bớt chi
phí hành chính theo hướng gọn nhẹ, thạo việc và linh hoạt
Phải đầu tư có trọng điểm, tránh phân tán tản mạn, coi trọng tính đồng bộ,
tính hệ thống của đầu tư xây dựng cơ bản.
19 19
∗ Tiết kiệm trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Cần có biện pháp bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn tài nguyên. Tránh
tình trạng rừng bị chặt đốn bùa bãi, các hầm mỏ bị khai thác ẩu, đất đai sử dụng
không hợp lý trở thành đất bạc màu, hoặc bị lãng phí trong xây dựng làm mất nhiều
đất, động vật quý hiếm bị đánh bắt vô tổ chức, các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị
mai một dần đi và sức khỏe con người cũng bị tổn hại nghiêm trọng.
20 20
KẾT LUẬN
Thực hiện tốt các nguyên tắc trong quản lý hoạt động đầu tư sẽ đáp ứng tốt nhất
việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ
của quốc gia. Huy động tối đa sử dụng với hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư

trong va ngoài nước, tận dụng và khai thác tốt các tiềm năng và tài nguyên thiên nhiên,
đất đai, lao động và các tiềm năng khác, bảo vệ môi trường sinh thái, chống mọi hành vi
tham ô, lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư và khai thác các kết quả của đầu tư. Đảm bảo
quá trình thực hiện đầu tư, xây dựng công trình theo quy hoạch kiến trúc và thiết kế kỹ
thuật được duyệt, đảm bảo sự bền vững và mỹ quan, áp dụng công nghệ xây dựng tiên
tiến, đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý.
Nhà nước thống nhất quản lý hoạt động đầu tư thông qua xây dựng, hoàn chỉnh
hệ thống luật pháp liên quan đến đầu tư bao gồm: ban hành, sửa đổi, bổ sung luật đầu tư
và các văn bản dưới luật nhằm một mặt khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đầu tư, mặt khác đảm bảo cho các công cuộc đầu tư thực hiện đáp ứng đòi hỏi của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất
nước, sự phát triển ổn định và tăng trưởng bền vững nền kinh tế xã hội.
21

×