Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận môn học học phần quản lý tài chính trong giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.84 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
Học phần Quản lý tài chính trong giáo dục
ĐỀ BÀI: Cho tứ giác đều ABCD. Trong đó:
A: Bách niên thụ nhân.
B: Phi sư bất thành.
C: Tôn tài đại thịnh.
D: Quy trí tất hưng.
O: Giáo dục
1) Hãy luận về tứ giác đều ABCD ?
2) Từ đó hãy đưa ra những đề xuất cho giáo dục Việt Nam hiện nay?
A
B
D
O
C
1
BÀI LÀM
1) Luận về tứ giác đều:
Bốn vị tiền nhân (hai Trung Quốc + hai Việt Nam) đã có cácphát biểu mà
ngày nay liên kết lại là minh triết cho chiến lược kinh tế - Giáo dục trong bối
cảnh mới của đất nước.
Trước tiên, chúng ta hãy bàn luận về luận đề: A: “Bách niên thụ nhân” -
Một trong “Tứ Thụ” của Quản Trọng (730 – 645 TCN) được nêu trong sách
“Quản Tử”. Quản Trọng là nhà chính trị xuất sắc thời Tiên Trần. “Quản Tử”
được coi là bộ sách có tính giáo khoa đầu tiên của nhân loại về quản lý với
những ý tưởng đặc sắc trong hai chương : “Quyền Tu” (Bàn về sự tu dưỡng của
nhà cầm quyền) và “Mục dân” (Bàn về cách quản lý nhân dân). “Bách niên” có
nghĩa là trăm năm, “Thụ” là trồng, là nuôi dưỡng; “Nhân” là người. cả câu
“Bách niên thụ nhân” có nghĩa là tính kế trăm năm trồng người, phát triển con
người. Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của Cách mạng, chính vì vậy, cần phải coi trọng, chăm sóc và phát huy


nhân tố con người. Do đó, ngay từ khi hoạt động cách mạng cho tới khi chúng ta
giành được độc lập, Người rất quan tâm, chú trọng tới sự nghiệp giáo dục, đào
tạo, rèn luyện con người. Tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn
miền Bắc ngày 13/9/1958, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng câu nói:
“Vì lợi ích mười năm phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Câu nói ấy lấy ý từ Cổ văn Trung Hoa “Đạo đức kinh”: “Nhất niên chi kế,
mạc như thụ cốc. Thập niên chi kế, mạc như thụ mộc. Bách niên chi kế, mạc như
thụ nhân” mang ý ẩn dụ, từ hình ảnh trồng cây mà đề cao vai trò của con người,
cũng như khẳng định và nhấn mạnh sự cần thiết coi trọng con người và phát huy
những tiềm năng vốn có trong họ.
2
Trong câu nói của Hồ Chí Minh, Người đã nhắc đến việc “trồng cây” đầu
tiên. “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây”. Trong hệ sinh thái, cây trồng (thực
vật) có vai trò rất quan trọng với sự tồn tại của các sinh vật khác. Cây trồng cung
cấp oxi cho hô hấp, lọc không khí, cung cấp gỗ, làm thuốc, là nơi cư trú của
nhiều loại động vật, Chính vì thế, việc trồng cây cũng đồng nghĩa với việc duy
trì sự sống, nó là hết sức cấp bách trong bối cảnh môi trường đang ngày càng ô
nhiễm, thủng tầng ozon, hiệu ứng nhà kính làm Trái đất nóng lên, đe dọa tới
cuộc sống của sinh vật nói chung và con người nói riêng.
Trong xã hội chủ nghĩa, con người luôn là cốt lõi, là động lực, là mục tiêu
cuối cùng và là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế xã hội, là nhân tố quyết định
của sự thành công của cách mạng đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Muốn xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa phải có con người xã
hội chủ nghĩa. Sự nghiệp nước nhà mai sau nằm trong tay những người chủ
tương lai của đất nước. Những người chủ của đất nước trong tương lai là thế hệ
trw ngày hôm nay. Muốn vậy, Người đã nhấn mạnh phải quan tâm chăm lo giáo
dục, đào tạo bồi dưỡng thế hệ trw để họ trở thành những người chủ tương lai của
đất nước, tiếp tục bảo vệ và phát huy những thành quả của cuộc cách mạng nước
ta. Đây là sự nghiệp không phải năm năm, mười năm mà đó sự nghiệp của hàng

trăm năm và lâu hơn thế nữa. Và cũng chính người đã quan tâm thực hiện tốt vấn
đề này.
B: “Phi sư bất thành”. Ý tưởng này nằm trong “Tam phi… bất”, được
nêu ra trong sách “Minh đạo gia huấn” – cuốn dạy về sự tu dưỡng đạo đức do
Trình Di (1033 – 1107) đời Tống biên soạn đã được phổ biến tại nhiều nước chịu
ảnh hưởng của Đạo Khổng. Phân tích nghĩa từng từ ta có thể hiểu “Phi” là
không; “Sư” là thầy, là người dạy dỗ, chỉ bảo; “Bất” là không có, không thể;
“Thành” là đạt được, trọn vẹn, hoàn chỉnh, đạt được. Cả câu có nghĩa là không
3
có thầy làm sao thành đạt được. “Phi sư bất thành” ngày nay không chỉ có ý
nghĩa cho mỗi cá nhân, nó còn có ý nghĩa cho số phận cộng đồng và dân tộc.
Truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta trong lĩnh vực giáo dục là tôn sư trọng đạo,
đề cao vai trò của người thầy, trọng thầy đến độ “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”,
nghĩa là dạy một chữ cũng là thầy, dạy nửa chữ cũng là thầy. Trong xã hội hiện
đại, ai cũng phải đến trường, ai cũng phải học. Trước khi làm thầy, người thầy
phải là người học trò. Bác Hồ kính yêu cũng đã là học trò và cũng đã là thầy
giáo. Vì vậy, quan tâm đến sự nghiệp giáo dục Bác cũng hết sức quan tâm đến
đội ngũ các thầy, cô giáo.
Theo Bác, người thầy giáo có vai trò hết sức quan trọng đối với học sinh
và xã hội: “Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu. Các cô, các
chú phải nhận rõ trách nhiệm của mình…. Giáo viên phải chú ý cả tài cả đức, tài
là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên
phải có đức. Ví như bảo học trò phải dậy sớm mà giáo viên thì trưa mới dậy. Cho
nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu nhất là đối với trw con. Trách nhiệm đó
rất là vw vang, quan trọng”.
Muốn thực hiện được điều Bác dạy, người thầy giáo trước hết phải có lòng
yêu nghề, tha thiết với nghề. Nghề thầy giáo mà thật sự có đức khó có thể làm
giàu. Trong hoàn cảnh xã hội hiện tại, thầy giáo có thể có cuộc sống khá hơn do
điều kiện đất nước và xã hội khá hơn và có thể làm giàu. Giàu có trên nền tảng
của lương tâm và đạo đức đòi hỏi người thầy giáo phải luôn tu dưỡng, luôn rèn

luyện, luôn tự đặt ra câu hỏi cho mình đối với từng hành vi mình đã và sẽ thực
hiện và làm giàu trí tuệ cho mình từ học hỏi để có thêm vốn truyền thụ cho học
sinh. Người thầy giáo còn là người chủ đạo trong thực hiện phương châm giáo
dục gắn nhà trường với gia đình và xã hội, định hướng, hướng dẫn học sinh gắn
chặt lý luận với thực tiễn và liên hệ với thực tế.
4
Trong rèn luyện, Bác luôn luôn chú ý đạo làm gương. Bác dạy các thầy,
cô giáo đạo làm gương. Bởi vì dạy học, người thầy không chỉ dạy chữ mà còn
dạy người, còn truyền đến cho người học những tình cảm đạo đức trong sáng và
ý chí phấn đấu. Những người thầy có đức, có tài, có tâm trong bất cứ chế độ nào
cũng mãi sống trong lòng các thế hệ người học, có trường hợp tấm gương của
người thầy còn sống cùng lịch sử trong quá trình phát triển đúng như câu nói
“Người thầy tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vw vang nhất dù là
tên tuổi không được đăng trên báo, không được hưởng huân chương, những
người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh”.
Cùng với sự khẳng định công lao, dân tộc chúng ta luôn thể hiện thái độ
phải biết ơn, tôn trọng, yêu quý, tin tưởng thầy. Điều này đã trở thành truyền
thống tôn sư trọng đạo tốt đẹp của dân tộc. Từ xa xưa các cụ đã luôn nhắc nhở
con cháu: “Muốn sang thì bắc cầu Kiều/ Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy”.,
“Mùng một tết cha/ Mùng hai tết mẹ/ Mùng ba tết thầy”, lòng yêu kính ấy, được
biểu hiện qua nhiều cung bậc ứng xử, cách thức khác nhau, mỗi người chúng ta,
ngoài sống có hiếu với cha, với mẹ, còn phải sống có nghĩa đối với thầy.
C: “Tôn tài đại thịnh” – một trong “Tứ tôn châm” của Hoàng giáp
Nguyễn Khắc Niêm, ông đang kế sách cho Vua thành Thái khoa thi Đinh Mùi
(1907). “Tôn tài” ắt là “đại thịnh”! Bởi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”,
nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước
yếu mà thấp hèn. Tuy nhiên, “tôn tài” cũng có năm bảy đường, năm bảy kiểu.
Một mặt, “người tài” là những người vừa có tài đức, nghĩa khí hơn người nhưng
mặt khác, họ cũng là những người rất có cá tính, rất nhạy cảm, rất tự trọng.
Người tài thực sự không thể chỉ có lấy lợi mà mời họ được, cũng không lấy

quyền lực mà uy hiếp họ phải theo mình. Họ là những người “Phú quý bất năng
5
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu sang không cám dỗ được,
nghèo hèn không làm thay đổi ý chí, uy quyền không khuất phục được).
Tôn tài không chỉ ngưỡng vọng, đề cao người tài mà cái quan trọng nhất
vẫn là phải biết dùng họ đúng tầm mức, sở trường.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất trọng nhân tài. Sau Cách
mạng tháng Tám 1945, rất nhiều bậc trí thức, các học giả, kể cả giáo sỹ, quan lại,
cho đến những ông vua đã thoái vị như Bảo Đại đã được Bác Hồ cảm hóa và vận
động tham gia chính quyền cách mạng. Cách dùng người của Bác thể hiện thái
độ trọng thị, tầm nhìn minh triết, lòng nhân ái bao la và tư tưởng đại đoàn kết
cao cả. Gần 70 năm đã trôi qua, những bài học của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
trọng dụng người tài vẫn còn nguyên giá trị.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trên cương vị là Chủ tịch
Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một văn
bản với tiêu đề “Tìm người tài đức”. Ngay sau đó, văn bản này đã được Bộ
trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp cho công bố trên báo Cứu quốc, nội dung có
đoạn: “Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có đức. E vì
Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không
thể xuất thân. Khuyết điểm đó, tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó, và
trọng dụng những kw hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có
người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân thì phải báo cáo ngay
cho Chính phủ biết”.
Đi đôi với việc tìm người tài, đức giúp ích cho đất nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải biết trọng dụng nhân tài, biết
chăm lo phát hiện nhân tài, biết đào tạo, bồi dưỡng nhân tài và phải biết sử dụng
nhân tài một cách hợp lý. Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng
6
những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người

có ích cho công việc chung của chúng ta”. Việc dùng nhân tài phải hợp lý, đúng
năng lực và sở trường của họ. Dùng người tài mà không đúng, công việc sẽ
không chạy, không được việc, làm thui chột nhân tài và có hại cho Đảng. Có thể
nói, quan điểm này của Người là bài học lớn trong công tác cán bộ của Đảng.
D: “Quy trí tất hưng” – một trong “Ngũ quy” của bà Nguyễn Thị Ngọc
Diễm (1721 - 1784). Bà là một Vương phi thời chúa Trịnh, cùng thời với Bảng
nhãn Lê Quý Đôn (1726 - 1784). “Quy trí tất hưng” có nghĩa là “Lo toan cho văn
hóa giáo dục,khai hóa tri thức cho dân thì đất nước hưng thịnh”. Đây vừa là sự
đúc kết trí tuệ vừa là lời khuyến cáo mà ông dành cho hậu thế: Xem trọng, đầu tư
phát triển cho giáo dục chắc chắn sẽ đạt được sự hưng thịnh. Đối với sự phát
triển của bất kỳ quốc gia nào, thì con người là yếu tố có giá trị lớn lao và ý nghĩa
quyết định. Tuy nhiên con người bản năng không làm được điều đó, mà con
người phải được giáo dục và đào tạo. Phát triển giáo dục - đào tạo sẽ nâng cao
mặt bằng dân trí, yếu tố thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội của mỗi quốc
gia. Tư tưởng của Lê Quý Đôn đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng khi xác
định chủ trương “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
“Trí” vốn là một từ gốc Hán, có nghĩa là trí tuệ, để chỉ trình độ nhận thức,
suy đoán, ghi nhớ… “Quy trí tất hưng” hiểu theo nghĩa rộng là chăm lo tổng thể
sự nghiệp văn hóa giáo dục. Hiểu theo nghĩa trực diện là chăm lo sự mở mang
hiểu biết của người dân để người dân sống đúng đắn theo trách nhiệm công dân,
có hoài bão làm cho dân giàu, nước mạnh. Nâng cao dân trí là một trong những
chủ trương đường lối chính sách của Đảng đã được đề ra ngay từ những năm đầu
xây dựng đất nước. Là một vấn đề quan trọng được chủ tịch Hồ Chính Minh
quan tâm hàng đầu, theo Người thì “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người
chỉ rõ, dốt nát là nguyên nhân cơ bản của yếu hèn và sai lầm. Dốt thì dại, dại thì
7
hèn. Hồ Chí Minh coi dốt nát là một trong ba loại giặc cần phải tiêu diệt (giặc
đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm). Chính vì vậy, sau khi đất nước vừa giành được
độc lập, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03-9-1945), Hồ
Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới, trong đó có 2 nhiệm

vụ về giáo dục, đó là “cần mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ” và “giáo
dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH”.
Người chỉ rõ: Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng
cao dân trí, bởi không một quốc gia nào có thể tiến hành xây dựng một chế độ xã
hội mới và bảo vệ Tổ quốc thành công trong điều kiện văn hóa, dân trí, đạo đức,
tinh thần xã hội thấp kém. Chưa đầy một tuần sau ngày độc lập, ba sắc lệnh quan
trọng về giáo dục đã được Người ký và ban hành: Sắc lệnh 17-SL, thành lập Nha
Bình dân học vụ, Sắc lệnh 19-SL, quy định mọi làng phải có lớp học bình dân,
và Sắc lệnh 20-SL, cưỡng bách học chữ Quốc ngữ không mất tiền. Một nền giáo
dục mới - nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập được Người nêu rõ trong
Thư gửi các học sinh: “Ngày nay, các em được cái may mắn hơn cha anh là được
hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo
các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo
dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em… Non sông Việt
Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh
quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ
một phần lớn ở công học tập của các em”.
Hồ Chí Minh chủ trương phải xây dựng một nền giáo dục hướng vào các
giá trị dân tộc, hiện đại và nhân văn, một nền giáo dục phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Theo chỉ đạo của Người, Bộ Giáo dục đã đề ra mục đích, phương pháp
và tổ chức của nền giáo dục mới:
8
- Khẳng định mục đích cao cả của nền giáo dục mới là: Tôn trọng nhân phẩm,
rèn luyện chí khí, phát triển tài năng của mọi người để phụng sự đoàn thể và góp
phần vào cuộc tiến hóa chung của nhân loại.
- Phương pháp của nền giáo dục mới là xóa bỏ lối học nhồi sọ, hình thức, chú
trọng phần thực học, phần học về chuyên môn nghề nghiệp chiếm một địa vị
quan trọng, hết sức đề cao tinh thần khoa học, nhằm giúp học sinh có lối nhận
thức khoa học, phát triển óc phê bình, óc phân tích và tổng hợp, tinh thần sáng
tạo và óc thực tế.

- Về tổ chức, nền giáo dục mới là một nền giáo dục duy nhất chung cho toàn thể
nhân dân Việt Nam.
Cũng ngay trong năm 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo mở các khóa huấn luyện
cán bộ bình dân học vụ. Khóa huấn luyện đầu tiên được mang tên Hồ Chí Minh.
Đồng thời, Người ký Sắc lệnh thành lập Ban Đại học văn khoa, Sắc lệnh thành
lập Hội đồng cố vấn học chính,… từng bước định hình nền giáo dục mới, với
một hệ thống quan điểm hiện đại, đó là:
- Dân chủ hóa về mục tiêu phát triển;
- Dân tộc và đại chúng hóa về tổ chức đào tạo;
- Nhân văn hóa về nội dung đào tạo;
- Khoa học hóa về phương pháp đào tạo;
- Xã hội hóa về quản lý đào tạo.
Không chỉ quan tâm hoàn thiện thể chế và bộ máy của nền giáo dục mới,
Hồ Chí Minh còn khởi động cho toàn dân thấm nhuần tư tưởng “dân mạnh thì
nước giàu”, “dân cường thì nước thịnh”, và Người kêu gọi mọi người phải làm
cho dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc thông thái, xứng đáng với nước Việt
Nam độc lập. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, nhiều trường học cho thanh
thiếu niên, cho đồng bào các dân tộc, cho phụ nữ, phụ lão,… đã khai giảng, cả
9
nước sôi nổi với phong trào bình dân học vụ, diệt “giặc dốt”. Từ một nước 95%
dân số mù chữ, nhiều làng xã đã xóa nạn mù chữ, nhiều “chiến sĩ diệt dốt” đã
được vinh danh.
Như vậy, 4 mệnh đề trên là bốn trụ cột cho sự phát triển bền vững quốc
gia. Chúng tạo nên tứ giác đều ABCD. Giáo dục (O) ở tâm tứ giác đều này. Nó
vừa là nhân tố mục tiêu, vừa thụ hưởng thành quả hoạt động của các lĩnh vực đã
nêu.
Bố trí trên một mặt phẳng ta có hình sau:
Tóm lại: trong bối cảnh hiện nay của bất cứ cộng đồng nào khi đưa ra một chiến
lược Kinh tế - Giáo dục cũng phải bao quát những điều sau:
- Đáp ứng tốt mục tiêu trồng người – phát triển con người (A)

- Hình thành được người thầy và đội ngũ người thầy có phẩm chất, năng
lực thực hiện tốt sứ mệnh mà xã hội giao cho (B)
- Bồi dưỡng được nhân tài, nguồn nhân lực có chất lượng cao (C)
- Chăm lo sự mở mang toàn diện văn hóa giáo dục, trước hết là khai hóa
tri thức cho các lực lượng có trách nhiệm của xã hội (D).
Tôn tài đại thịnh
Bách niên thụ nhân
GIÁO DỤC
10
Phi sư bất thànhQuy trí tất hưng
2) Đề xuất cho giáo dục Việt Nam hiện nay
2.1. Bách niên thụ nhân và thực hiện mục tiêu trồng người:
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu lời bàn của Quản Trọng, đặt vào hoàn cảnh
Việt Nam hiện nay có lời dạy:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
Trong chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) trong bối cảnh
hiện tại nêu lên quan điểm phát triển con người theo ba khía cạnh:
- Nâng cao năng lực lựa chọn cho con người
- Mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người
- Không ngừng đáp ứng các nhu cầu chính đáng của con người
Có thể nói hoạt động giáo dục, sự nghiệp giáo dục có tác động tích cực
đến cả ba khía cạnh nêu trên
- Giáo dục phát triển năng lực con người bao gồm: Tâm lực, Thể lực, Trí
lực, thái độ đứng đắn của con người
- Giáo dục tạo ra cơ hội để từ cơ hội này con người nắm bắt được các cơ
hội khác cề kinh tế, văn hóa, chính trị trong cuộc sống
- Giáo dục là nhân tố giúp con người hưởng thụ các nhu cầu chính đáng
của mình. Với người Việt Nam, theo GS Phan Ngọc có 4 nhu cầu sau:
+ Một thân phận không hẩm hiu (Fate)

+ Một thể diện được khẳng định (Face)
+ Một gia đình được hòa thuận (Family)
+ Một tổ quốc được độc lập, tự do (Fatherland)
Nếu thiếu đi một trong các nhân tố trên thì phạm trù nhu cầu với người
Việt Nam là chưa trọn vẹn.
11
Vì vậy, để thực hiện tốt mục tiêu trồng người cần có những chính sách
giáo dục hình thành nhân cách con người:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược con người: Đó là việc phải coi con
người là tung tâm của quá trình phát triển, đó là việc các chính sách kinh tế,
chính trị, xã hội, giáo dục phải lấy chữ Nhân làm gốc, phải coi “trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân”, phải giáo dục cho toàn dân, đặc biệt là cho thế hệ
trw thành những người có các phẩm chất Trung - Hiếu, Tình - Nghĩa, Nhân - Chí
- Dũng, cần - Kiệm - Liêm - Chính và có năng lực sáng tạo trong học tập, lao
động vươn lên đạt những đỉnh cao trong khoa học kĩ thuật.
+ Giáo dục lí tưởng Cách mạng: Bồi dưỡng thanh niên có nhận thức đúng
đắn về Chủ nghĩa xã hội, nâng cao ý chí phấn đấu vì lí tưởng cao cả là độc lập
dân tộc và tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Giáo
dục thanh thiếu niên thấm nhuần sâu sắc lí tưởng giải phóng con người khỏi áp
bức, bóc lột, xây dựng một xã hội tốt đẹp, công bằng hạnh phúc.
+ Giáo dục đạo đức cách mạng: Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái gốc, là
vấn đề có ý nghĩa quyết định của việc xây dựng con người mới. Đạo đức cách
mạng là tuyệt đối trung thành với Tố quốc, với Đảng và hiếu với nhân dân. Đạo
đức cách mạng là ra sức thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và
khiêm tốn giản dị. Đạo đức cách mạng là tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, trí
tuệ của tập thể, của nhân dân và kiên quyết đấu tranh trù’ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Giáo dục kinh tế, văn hóa và nghề nghiệp: Nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự
lập, tự cường, không chịu lùi bước trước mọi khó khăn, gian khó. Xây dựng tinh
thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân vì lợi ích Tổ quốc.
phát huy truyền thống lao động cần cù, tinh thần hiếu học của cha ông.

+ Giáo dục sức khỏe, thể chất: Giáo dục đức, trí, thể, mỹ
12
+ Kết hợp chặt chẽ học đi đôi với hành,lý luận với thực tiễn. Kết hợp giữa
nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục hình thành nhân cách con người
ngay từ khi còn nhỏ. Phát huy ý thức tự giác giáo dục, tự rèn luyện và lấy gương
người tốt, việc tốt để giáo dục.
2.2. Phi sư bất thành và chính sách về người thấy trong thời đại mới
“Phi sư bất thành” ngày nay không chỉ có ý nghĩa cho mỗi cá nhân. Nó
còn có ý nghĩa cho số phận cộng đồng và dân tộc.
Nhà văn hóa Tagore (1861 - 1942) người Ấn Độ có lời bàn như sau:
“Đầu tư vào một người đàn ông được người chồng tốt
Đầu tư vào một người phụ nữ được một gia đình tốt
Đầu tư vào một nhà giáo được một thế hệ công dân tốt của đất nước”
Lê Nin cũng đã chỉ ra vị trí quan trọng của người thầy đó là: “Chỗ dựa
vững chắc của chính quyền Xô viết là hồng quân và đội ngũ giáo viên”
Hồ Chí Minh cũng đã từng nói mỗi người thầy, đội ngũ người thầy phải là
các “Sư hinh”- (Người thầy cao quý) chứ không được sinh hư.
Chính sách người thầy, đội ngũ người thầy trong hoàn cảnh hiện nay của
đất nước ta phải lưu ý tới đặc điểm: đất nước đã hoàn thành được phổ cập giáo
dục, ít nhất là bậc tiểu học. Đội ngũ giáo viên lên tới hàng triệu người, là đội ngũ
đông đảo nhất trong lực lượng lao động chung.
Trong tình hình này không thể áp dụng quan điểm kinh tế học lao động
thông thường cho đội ngũ này như đối với các ngành nghề khác. Song cũng
không thể mang quan điểm sư phạm đơn thuần cho phát triển đội ngũ người thầy
khi năng lực kinh tế còn nhiều hạn chế.
Sự hợp tác của hai giới kinh tế và giáo dục với sự chỉ đạo của các nhà
chính trị là điều rất cần thiết để xác định chính sách phát triển đội ngũ người thầy
thấu tình đạt lý.
13
Giáo viên – Người thầy được tôn vinh về tinh thần song cái cần hơn là một

cuộc sống vật chất để giữ được trách nhiệm nghề nghiệp cao quý của mình.
Vì vậy cần tạo ra các chính sách đặc thù để sự tôn vinh người thầy và đội
ngũ người thầy ở nước ta bao quát toàn diện cả hai mặt tinh thần và vật chất:
- Xây dựng, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo
dục có phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị và năng lực chuyên môn cao.
- Có chính sách thu hút người giỏi vào ngành sư phạm.
- Chú trọng nâng cao vị thế người thầy bằng nhiều biện pháp mà trước hết
là tạo động lực và mọi điều kiện vật chất, tinh thần để đội ngũ thầy cô giáo có
thể phát huy cao nhất năng lực và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp cao cả:
nâng cao tiềm năng trí tuệ của toàn xã hội
- Có chính sách đãi ngộ đối với những người thầy mà trước hết là trả
lương đảm bảo cho họ có thể sống bằng lương.
2.3. “Tôn tài đại thịnh” và chính sách bồi dưỡng nhân tài
Việt Nam ta có truyền thống tốt đẹp tôn trọng bậc hiền tài. Từ thế kỷ 15,
Vua Lê Thánh Tông vị minh quân triều Lê qua Sử thần Thân Nhân Trung đã nêu
ra tuyên ngôn:
“Hiền tài là nguyên khí của Quốc gia
Nguyên khí mạnh thì thế nước cường
Nguyên khí yếu thì thế nước yếu”
Sang thế kỷ 18, vua Quang Trung – Nguyễn Huệ sau khi đập tan quan
xâm lược Mãn thanh đã giao cho Danh thần Ngô Thì Nhậm ban chiếu khuyến
học:
“Xây dựng đất nước lấy việc dạy học làm đầu
Tìm lẽ bình trị lấy tuyển nhân tài làm gốc”
14
Trong thời đại mới, Bác Hồ cũng đã rất quan tâm đến việc tiến cử người
hiền tài cho đất nước:
“Kiến thiết cần có nhân tài khéo léo lựa chon, khéo phân phối, khéo
dùng thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều”
Bác cũng tự nhận khuyết điểm của Chính phủ là để người tài chưa có cơ

hội xuất hiện. Người nói: “E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp đến
nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân, khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”
Ngày nay đất nước đã kiến tạo được nền giáo dục dân chủ, đại chúng trên
toàn cõi. Việc bồi dưỡng nhân tài có thể chủ động được. Cần phải có sự làm việc
căn cơ theo ba giai đoạn:
Giai đoạn sinh học: chăm lo từ lúc con người còn ở trong bào thai, ở nước
ta gọi là thai giáo.
Giai đoạn sinh học – xã hội: giai đoạn này có sự phối hợp của giáo dục
nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Giai đoạn xã hội: sự sử dụng tại các cơ quan, đơn vị sản xuất. Cần tạo lập
được môi trường dân chủ, đồng thuận để nhân tài được phát huy, có những đóng
góp xứng đáng cho đất nước.
Vì vậy cần có những chính sách bồi dưỡng nhân tài:
Một là, tạo cơ chế chính sách công bằng, thuận lợi để mọi tài năng trw đều
nỗ lực phấn đấu trong học tập, lao động và cuộc sống, tích cực tham gia phát
triển đất nước. Coi trọng hơn nữa việc trọng dụng nhân tài trw, tạo bước chuyển
có tính đột phá trong bố trí và sử dụng cán bộ trw có tài năng trên tất cả các lĩnh
vực của hệ thống chính trị, xã hội; nâng cao tỷ lệ cán bộ trw trong các cơ quan
lãnh đạo, nghiên cứu, quản lý các cấp, các ngành.
Hai là, tăng cường quản lý nhà nước về công tác đào tạo bồi dưỡng tài
năng trw. Xây dựng hệ thống chính sách tài năng trw, tạo khung pháp lý để đưa
15
công tác quản lý nhà nước về vấn đề này ngày càng hiệu quả. Nghiên cứu đổi
mới quy trình phát hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh từ mẫu
giáo đến hết trung học phổ thông, trên cơ sở đó quy hoạch phát triển mạng lưới phát
hiện và bồi dưỡng năng khiếu ở độ tuổi trước khi bước vào Trường Đại học, tạo
nguồn tài năng trw dồi dào cho đất nước.
Ba là, phát triển mạng lưới các trường, lớp bồi dưỡng năng khiếu bậc phổ
thông, đặc biệt là các trường trung học phổ thông chuyên ở các địa phương và ở
một số Trường Đại học có uy tín, chất lượng. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương

trình và phương pháp đào tạo cũng như các chế độ, chính sách đối với các loại
trường, lớp này. Có chính sách thu hút, đãi ngộ thích đáng đội ngũ giáo viên
giỏi, tâm huyết tham gia đào tạo, bồi dưỡng các lớp tài năng trw.
Bốn là, tập trung xây dựng một số Trường Đại học trọng điểm quốc gia
ngang tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế. Các trường này phải thực sự là
vườn ươm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đồng thời, sắp xếp lại và phát huy hơn
nữa vai trò của các viện nghiên cứu khoa học của Chính phủ và các Liên hiệp hội
trong đào tạo, thực hiện kết hợp giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Năm là, quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời rút ra những bài học kinh
nghiệm về thực thi chính sách tài năng trw. Tiến hành xây dựng và tổ chức thực
hiện các phương án điều tra chọn mẫu, tiến tới tổng điều tra về tài năng trw của quốc
gia. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học về nhân tài, đào tạo bồi
dưỡng và sử dụng tài năng trw.
Sáu là, tạo cơ chế, chính sách khuyến khích toàn xã hội tham gia vào việc
phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng trw. Xã hội hóa công tác bồi dưỡng và
phát triển tài năng trw. Phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị;
giữa gia đình, nhà trường, xã hội tạo quy trình hợp lý để phát hiện, bồi dưỡng, giúp
đỡ và phát huy tài năng trw.
16
Bảy là, tạo cơ chế, chính sách thu hút nhân tài là người Việt Nam đang
sinh sống, làm việc ở nước ngoài về nước góp sức xây dựng tổ quốc và tham gia
đào tạo nhân tài. Cho phép trí thức giỏi của Việt Nam có điều kiện thường xuyên
giao lưu, học hỏi, làm việc với các tổ chức quốc tế trong và ngoài nước. Có
chính sách ưu đãi đối với các học sinh tài năng Việt Nam được du học nước
ngoài bằng nhiều nguồn vốn. Đồng thời ưu tiên phân công công tác cho những
người tu nghiệp ở nước ngoài đạt kết quả cao, nhất là những ngành trong nước
còn thiếu cán bộ khoa học tài năng.
Tóm lại, nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng tài năng trw ở nước
ta hiện nay đang là một đòi hỏi bức thiết, một trách nhiệm nặng nề và vinh
dự lớn lao đối với các Trường Đại học, trung học nói riêng và toàn ngành

giáo dục và đào tạo nói chung. Tất cả vì sự nghiệp xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh.
2.4. “Quy trí tất hưng” và chính sách khai hóa tri thức cho dân
Cụ Phan Chu Trinh từ những năm đầu thế kỷ 20 đã có lời kêu gọi: “Khai
dân trí – Chấn dân khí – Hậu dân sinh”
Bác hồ ngay trong phiên họp đầu tiên của chính quyền cách mạng đã
khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, Bác kêu gọi: “Phải làm sao
cho dân tộc Việt Nam thành dân tộc thông thái”.
Một “Dân trí” đích thực và mạnh là “Dân trí” biết chuyển sự hiểu biết để
sống “Cần – Kiệm – Liêm – Chính” chống lại được sự phù hoa, xa xỉ, lười biếng,
gian xảo.
17
“Dân trí” gắn liền với “Quan trí” và “Doanh trí”. Dân trí không phát triển
được nếu Quan trí méo mó (tham nhũng, cửa quyền, áp bức dân) và doanh trí
(chụp giật, phi đạo đức).
“Dân trí” phải bao quát cả hai chỉ số IQ (Thông minh trí tuệ) và EQ
(Thông minh cảm xúc) ở mỗi con người và cho cả cộng đồng.
Vì vậy cần phải có những chính sách khai hóa tri thức cho dân ngay từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường:
- Giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức: tuỳ theo từng lứa tuổi và trình
độ cấp học mà giáo dục cho các em lòng yêu nước, lòng trung thành với lý tưởng
cộng sản, ý thức và nhiệm vụ của người công dân, sẵn sàng tham gia tích cực
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giáo dục ý thức và thói quen chấp
hành pháp luật và những quy tắc chung của tập thể; giáo dục tinh thần trách
nhiệm trong học tập, trong công tác, đoàn kết, trung thực, giàu tình thương, trọng
lẽ phải; giáo dục việc xây dựng lối sống theo nguyên tắc đạo đức “mỗi người vì
mọi người, mọi người vì mỗi người”; củng cố và phát triển niềm tin vững chắc
vào tương lai tươi sáng của đất nước, tiền đồ của dân tộc, chống lại những ảnh

hưởng tiêu cực của xã hội. Người giáo viên nhất định phải làm cho học sinh hiểu
rõ tình hình của đất nước và nhiệm vụ của cách mạng. Phải dạy như thế nào để
đến khi ra trường, các em có quyết tâm lao động xây dựng xã hội ở bất cứ lĩnh
vực nào, trong bất cứ địa bàn nào của Tổ quốc và sẵn sàng xả thân bảo vệ Tổ
quốc
- Giáo dục tri thức văn hoá và khoa học: cần trang bị cho các em những
kiến thức cơ bản về tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế, xã hội ở trình độ phổ thông tương
đối hoàn chỉnh, cơ bản, hiện đại, Việt Nam, vừa phù hợp với nhu cầu thực tế
trước mắt, lại vừa tạo khả năng phát triển về lâu dài… Cần nghiên cứu, lựa chọn
kỹ càng để xác định chương trình biên soạn sách giáo khoa cho thật khoa học,
18
thiết thực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng, khối để các em tiếp tục
học hoặc đi vào nghề nghiệp. Nhất thiết phải làm và làm ngay, làm cho tốt
việc tinh giản phần tri thức cơ bản, để các em có thì giờ học thêm về kiến thức
kinh tế, lịch sử, địa lý của địa phương, nghe nói chuyện về các vấn đế thời sự tuỳ
theo lứa tuổi, và nhất là học kỹ thuật, công nghệ và tham gia lao động sản xuất
- Giáo dục thể chất: Việc giáo dục và rèn luyện sức khow trong nhà trường
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nhà trường phải giáo dục những kiến thức khoa
học và những biện pháp cần thiết để rèn luyện thể chất, tăng cường sức khow cho
phù hợp với quy luật phát triển của từng lứa tuổi. Phải làm cho học sinh có ý
thức: khow để học tập, lao động và bảo vệ Tổ quốc.
- Giáo dục thẩm mỹ: Đây không những là vấn đề quan trọng mà còn là vấn
đề cấp bách hiện nay. Chúng ta cần giáo dục cho các em biết yêu chân lý, trọng
lẽ phải, biết đánh giá và cảm thụ đúng đắn cái đẹp của con người, thiên nhiên,
truyền thống dân tộc, đời sống xã hội, biết quý trọng các giá trị văn hoá truyền
thống, các di tích lịch sử, văn hoá của đất nước và thế giới, biết giá trị và mến
yêu nghệ thuật dân tộc, biết sống khiêm tốn, giản dị, phù hợp với hoàn cảnh kinh
tế của đất nước, của gia đình, của bản thân Đổi mới phương pháp dạy và học,
lấy người học là trung tâm, gắn lý luận với thực tiễn
- Chú trọng giáo dục lao động sản xuất và công tác hướng nghiệp: Cần

phải giáo dục ý thức lao động, tình cảm lao động, thói quen lao động vì tập thể,
vì xã hội ngay từ tuổi thơ, từ vườn trw. Phải kiên trì rèn luyện cho học sinh có ý
thức sâu sắc về lao động, lao động để xây dựng đất nước phồn vinh, quê hương
tươi đẹp, lao động có kỹ thuật, có kỷ luật, với năng suất cao, chất lượng và hiệu
quả tổt. Phải làm cho thế hệ trw coi đó là mục tiêu quan trọng để phấn đấu thực
hiện. Cần nhận thức rõ rằng, càng làm tốt công tác hướng nghiệp cho học sinh
phổ thông thì càng có điều kiện để tiến hành có hiệu quả về giáo dục tư tưởng
19
chính trị, đồng thời phát huy mọi tài năng của thế hệ trw. Vì vậy, phải kiên quyết
khắc phục tình trạng coi nhẹ và tự phát đang phổ biến trong việc hướng nghiệp
cho học sinh phổ thông.
KẾT LUẬN:
Như vậy, qua phân tích ở trên có thể chiến lược trồng người có vai trò vô
cùng quan trọng, bởi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển
mỗi quốc gia. Để làm được điều đó thì các quốc gia cần có chiến lược đầu tư
phát triển con người. Muốn “Trồng người” cần chú trọng hình thành được người
thầy và đội ngũ người thầy có phẩm chất, năng lực thực hiện tốt sứ mệnh mà xã
hội giao cho. Bên cạnh đó, cần phát hiện, chăm lo, bồi dưỡng nhân tài, nguồn
nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Chăm lo sự mở mang toàn diện văn
hóa giáo dục, trước hết là khai hóa tri thức cho các lực lượng có trách nhiệm của
xã hội. Để thực hiện tốt những điều này thì bất kể quốc gia nào cũng phải có giáo
dục mới làm được, giáo dục chính là then chốt. Không có giáo dục thì không thể
thực hiện tốt mục tiêu trồng người, phát triển con người tốt được. Không có giáo
dục thì cũng không thể bồi dưỡng được nhân tài, bồi dưỡng được nguồn nhân lực
có chất lượng cao. Và nếu không có giáo dục thì không bao giờ có thể nâng cao
được dân trí, quan trí, doanh trí. Tóm lại là chúng ta đầu tư cho giáo dục chính là
đầu tư cho tương lai, đầu tư cho sự phát triển.
20

×