Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN môn học quản lý tài chính trong giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.41 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN MÔN HỌC Quản lý tài chính trong giáo dục
ĐỀ BÀI:
Cho tứ giác đều ABCD. Trong đó:
A: Bách niên thụ nhân.
B: Phi sư bất thành.
C: Tôn tài đại thịnh.
D: Quy trí tất hưng.
O: Giáo dục
a) Hãy luận về tứ giác đều ABCD ?
b) Từ đó hãy đưa ra những đề xuất cho giáo dục Việt Nam hiện nay?
A
B
D
O
C
1
BÀI LÀM
1. Luận về tứ giác đều ABCD
A. “Bách niên thụ nhân” (Tính kế mười năm trồng cây)
Quản Trọng (730 - 645 TCN) - chính trị gia nổi tiếng thời Xuân Thu, phụ tá Tề
Hoàn Công thay đổi chế độ thuế khoá, phân khu vực hành chính nước Tề thành 25
hương, làm cho tổ chức quân sự và tổ chức hương dân kết hợp nhất trí, lại thực thi một
số biện pháp làm cho nước giàu binh mạnh, kết quả nước Tề mạnh lên, thành chư hầu
xưng Bá đầu tiên. Về sau, xuất hiện bộ sách Quản Tử, tương truyền do Quản Trọng làm
ra. Trong sách có thiên Quyền tu (Bàn về sự tu dưỡng của nhà cầm quyền), ở
thiên Quyền tu này có đoạn:
Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc; thập niên chi kế, mạc như thụ mộc; chung
thân chi kế, mạc như thụ nhân. Nhất thụ nhất hoạch giả, cốc dã; nhất thụ thập hoạch
giả, mộc dã; nhất thụ bách hoạch giả, nhân dã. Ngã cẩu chủng chi, như thần dụng chi,
cử sự như thần, duy vương chi môn.
(Kế cho một năm thì không gì bằng trồng lúa; kế cho mười năm thì không gì


bằng trồng cây; kế cho suốt đời thì không gì bằng trồng người. Trồng một mà lợi ích
một đó là lúa; trồng một mà lợi ích mười, đó là cây; trồng một mà lợi ích một trăm đó là
con người. Nếu chúng ta chú trọng trồng người, thì hiệu dụng như thần, làm việc mà thu
được hiệu quả thần kì thì chỉ có con đường của bậc vương giả mới có thể làm được).
Sự thực, Quản Trọng thực thi cải cách hành chính, không tách rời khỏi việc đào
tạo bồi dưỡng nhân tài. Như bản thân Quản Trọng mà nói, nhân tài kiệt xuất như ông ta
rất khó có được, chỉ có trường kì rèn luyện mới có những thành tựu.
Từ thiên Quyền tu người đời sau đã khái quát thành thành ngữ
“Thập niên thụ mộc,
Bách niên thụ nhân”.
“Bách niên” có nghĩa là trăm năm, “Thụ” là trồng, là nuôi dưỡng; “Nhân” là
người. Cả câu “Bách niên thụ nhân” có nghĩa là tính kế trăm năm trồng người, phát
2
triển con người. Với mỗi quốc gia, con người, vốn con người chính là nhân tố quan
trọng nhất. Vốn con người tạo ra phần lớn các nguồn lực khác. Trong khi hầu hết các
nguồn lực khác đang cạn kiệt thì nguồn lực con người càng khai thác thì càng có khả
năng tái sinh. Khi nguồn lực con người được phát huy thì nó sẽ biết khai thác, sử dụng
và quản lý một cách hiệu quả nhất các nguồn lực khác. Từ đó đặt ra yêu cầu chúng ta
phải đáp ứng tốt mục tiêu trồng người – phát triển con người. Muốn “Trồng người” thì
phải có giáo dục mới làm được, giáo dục chính là then chốt.
Sau Quản Trọng hơn hai thế kỉ, đất nước Trung Hoa có nhà tư tưởng bình dân
kiệt xuất Mặc Tử (476 - 390 TCN). Ông nêu đường lối cho nhà cầm quyền theo phương
châm: "Lợi vi bản" Ông khẳng định: "Lợi là cái gốc của chính trị".
Gộp bội ý tưởng của hai danh nhân này, Hồ Chí Minh có lời dạy bất hủ:
"Vì lợi ích mười năm phải trồng cây.
Vì lợi ích trăm năm phải trồng người"
Đây là bài nói chuyện của Bác ngày 13/8/1958 cho lớp nghiên cứu chính trị của
giáo viên cấp 2, 3 toàn miền Bắc đặt tại trường Bổ túc công nông, (nay là Học viện
Quản lí giáo dục).
Sau khi nêu ra lời dạy trên, Bác còn có lời dạy thiết tha sau:

"Chúng ta phải đào tạo ra nhữnh công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà mong
mọi người phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ" (Toàn tập, tập 9, tr 222).
Cùng nói tới việc "trồng người", song sự "trồng người" của Quản Trọng là theo lí
tưởng "Bá đạo" (Phục vụ lợi ích cho một tập đoàn thống trị), còn của Hồ Chí Minh theo
lí tưởng "Vương đạo" (Phục vụ cho toàn thể nhân dân).
B. “Phi sư bất thành” (Không có thầy làm sao thành đạt được)
Nho gia phương Đông có lời dạy:
"Nhân hữu tam ân tình, khả sự như nhất.
Phi phụ bất sinh
Phi sư bất thành
3
Phi quân bất vinh".
(Con người ta có 3 ân tình phải coi trọng như nhau: Không có Cha làm sao ta
sinh ra được; Không có Thầy làm sao ta thành đạt được; Không có Minh quân - Vua
sáng, Thủ trưởng tốt làm sao ta hiển vinh được).
Ý tưởng trên nằm trong “Tam phi… bất”, được nêu ra trong sách “Minh đạo gia
huấn” – cuốn dạy về sự tu dưỡng đạo đức do Trình Di (1033-1107) đời Tống biên soạn
đã được phổ biến tại nhiều nước chịu ảnh hưởng của Đạo Khổng. Phân tích nghĩa từng
từ ta có thể hiểu “Phi” là không; “Sư” là thầy, là người dạy dỗ, chỉ bảo; “Bất” là không
có, không thể; “Thành” là đạt được, trọn vẹn, hoàn chỉnh, đạt được. Cả câu có nghĩa là
không có thầy làm sao thành đạt được. “Phi sư bất thành” ngày nay không chỉ có ý
nghĩa cho mỗi cá nhân, nó còn có ý nghĩa cho số phận cộng đồng và dân tộc.
Theo thông điệp thì con người ta phải nhớ đến ân tình của ba ngôi "Quân - Sư -
Phụ " (Vua - Thầy - Cha ). Dựa vào ý tưởng này và đặt trong bối cảnh mới, Hồ Chí
Minh truyền cảm hứng cho ngành giáo dục :
"Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và
ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn" (Toàn tập, tập 8 tr 394).
Hồ Chí Minh còn xây dựng các phạm trù "Gia đình học hiệu", "tiểu giáo viên",
Người dạy: ngày nay xã hội ta mọi gia đình là trường học, mỗi người công dân là một
thầy giáo cho thế hệ trẻ (Toàn tập, tập 5, tr 67).

C. “Tôn tài đại thịnh” (Tôn trọng bậc hiền tài thì hưng thịnh). Câu này trong bài “Tứ
tôn châm” của Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm (1889 – 1954), ông dâng kế
sách cho Vua Thành Thái khoa thi Đinh Mùi (1907).
Câu “Tôn tài đại thịnh” trước hết khẳng định tầm quan trọng của hiền tài đối với
quốc gia, là việc đem lại hưng thịnh cho đất nước vì “Hiền tài là nguyên khí quốc gia.
Nguyên khí mạnh thì thế nước cường. Nguyên khí suy thì thế nước yếu”. Đó là một
chân lý vĩnh hằng.
“Tài” muốn nói đến bậc hiền tài, trước hết đó là người có trí thức, có sự thông
4
minh và niềm khát vọng, đam mê mãnh liệt. Đó là những con người có hiểu biết rất sâu
rộng về một lĩnh vực nào đó. Trí thông minh thể hiện ở khả năng đặc biệt làm một việc
nào đó, mang lại kết quả cao. Trí thông minh đó còn thể hiện ở sự nhạy bén, nhìn nhận
chính xác vấn đề cần giải quyết. Họ cũng rất có khả năng nắm bắt diễn biến của thời
cuộc, dự đoán trước được xu thế phát triển. Người hiền tài thường biểu hiện sự đam mê
đến cháy bỏng trong công việc, không sợ thất bại, biết cách chấp nhận sự rủi ro, tìm mọi
phương cách làm cho công việc mang lại hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, họ còn là
những con người có khát vọng mãnh liệt được vươn lên khẳng định bản thân mình, khát
vọng được cống hiến cho công việc, cho nhân dân, cho tổ quốc. Chính những yếu tố này
giúp họ vượt qua những khó khăn trở ngại để theo đuổi mục đích của mình. Người tài
có khát vọng rất mãnh liệt nhưng đồng thời đó cũng là những người có cái “Tôi” rất
lớn, nếu biết trọng dụng đúng tài năng và tạo điều kiện thuận lợi để họ phát triển thì họ
sẽ cống hiến hết mình.
Lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của ta đã chứng minh, cứ thời
nào có nhiều nhân tài xuất hiện và được trọng dụng thì đất nước phồn vinh, dân tộc phát
triển. Ngược lại, khi nhân tài xa lánh chốn quan trường, quay lưng lại với thời cuộc,
hoặc bị vùi dập, hay những kẻ bất tài lộng hành thì vương triều ấy sớm muộn sẽ suy
vong. Hiền tài là sự kết tụ tinh hoa của đất trời, của khí thiêng sông núi, của truyền
thống dân tộc. Người xưa đã nói: Địa linh sinh nhân kiệt, nên hiền tài là nguyên khí của
quốc gia. Những người được coi là "hiền tài" có vai trò vô cùng quan trọng đối với
sự hưng vong của một triều đại nói riêng và của quốc gia nói chung. Có thể lấy rất

nhiều ví dụ trong lịch sử nước ta để chứng minh cho điều đó như Mạc Đĩnh Chi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giang Văn Minh, Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Lê Quý Đôn,
Nguyễn Huệ ở những thế kỉ trước. Tài năng quân sự lỗi lạc của Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn đã góp phần to lớn vào chiến công lừng lẫy của quân dân nhà Trần ba
lần đánh thắng quân xâm lược Mông - Nguyên. Tài năng quân sự, ngoại giao xuất sắc
của Nguyễn Trãi khiến ông trở thành vị quân sư số một của Lê Lợi, có vai trò quyết
5
định chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quét sạch mười vạn giặc Minh ra khỏi
bờ cõi nước ta. Một gương sáng "hiền tài" đã trở thành thần tượng không chỉ trong
phạm vi đất nước mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tên tuổi của ông gắn liền với hai cuộc kháng chiến đau thương và oanh liệt của dân
tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược. Ông đã làm vẻ vang cho
lịch sử và truyền thống bất khuất, hào hùng của đất nước. Đó là gương sáng của những
bậc "hiền tài" một lòng một dạ vì quyền lợi chung của nhân dân và Tổ quốc.
Ngày nay, trên thế giới tài nguyên ngày càng cạn kiệt, còn tri thức, tài năng và
sức sáng tạo của con người là vô hạn. Tri thức là vốn quý nhất, tri thức là sản phẩm trí
tuệ của con người. Chính vì vậy, hiền tài, nhân tài và lao động tri thức đã trở thành một
lực lượng sản xuất mới, giữ vai trò quyết định hơn cả vốn và tài nguyên. Hiền tài đã
trở thành yếu tố quyết định cho sự thành bại của đất nước ta trong bối cảnh cạnh tranh
gay gắt giữa các quốc gia trong khu vực và thế giới mà thực chất đó là sự đọ sức về trí
tuệ như Long Tử Dân – một học giả Trung Quốc, đã có câu nói hết sức chí lý cho
thời đại hiện nay: “Sự lãng phí lớn nhất là lãng phí nhân tài, sự cạnh tranh căn bản
nhất là cạnh tranh nhân tài, năng lực chủ yếu của người lãnh đạo là phát hiện, bồi
dưỡng nhân tài và sử dụng nhân tài”.
D. “Quy trí tất hưng” (Lo toan cho văn hóa giáo dục khai hóa trí thức cho dân thì đất
nước hưng thịnh)
Từ xa xưa đến nay, mọi thế hệ nhân loại đều khẳng định vai trò vô cùng to lớn
của giáo dục đối với con người và đối với sự tồn vong của một Quốc gia. Vào thời
Chiến quốc ở xã hội Trung hoa lúc bấy giờ, nhìn nhận con người dưới những góc độ
khác nhau, Tuân Tử và Mạnh Tử là những bậc thầy của Nho giáo đã có những cách

nhìn nhận khác nhau về con người, song họ lại đều thống nhất rằng môi trường và sự
giáo dục sẽ làm con người thay đổi, họ đều khẳng định vai trò to lớn của giáo dục trong
sự quyết định đến bản tính của con người trong tương lai.
6
Theo Tuân Tử, dưới góc nhìn sự tiến hoá vạn vật, cho rằng con người là một loài
động vật trong thế giới sinh học nên theo nguồn gốc ban đầu vốn dữ tính, muốn thành
người có lý trí thì phải được giáo dục. “Nhân tri sơ tính bổn ác, lý tính hậu lai tập đắc”,
nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ là ác, nhưng sau này do học tập mà có lý trí,
biết cái đúng sai.
Còn theo Mạnh Tử: “Nhân chi sơ tính bổn thiện, tính tương cận tập tương viễn”,
nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ lương thiện, tính tính khá đồng nhất, nhưng
do môi trường và sự tiếp cận học hỏi khác nhau mà tính tình đâm ra khác biệt nhau.
Ngày nay, trước sự bùng nổ của nền kinh tế tri thức, vai trò của giáo dục ngày
càng trở nên có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế, quyết định đến sự tồn vong
của mỗi Quốc gia. Mỗi chúng ta đều thấy ngày càng thấm thía hơn câu nói của Quản
Trọng – một nhà chính trị Trung Hoa cổ đại cách đây hàng nghìn năm lịch sử: “…Bách
niên thụ nhân…”.
Trong mỗi chúng ta khi bàn về câu nói của Quản Trọng cách đây hàng nghìn năm
lịch sử, chắc hẳn ai cũng sẽ nghĩ ngay đến Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất đã từng nói:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây,
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính Phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề chống nạn dốt là vấn đề cấp bách số hai sau chống
nạn đói của Nhà nước lúc bấy giờ. Bác đã sửa khẩu hiệu “nạn mù chữ” thành “thi đua
giết giặc dốt”. Bác kêu gọi mọi người thi đua học tập để đưa dân tộc ta trở thành một
dân tộc “thông thái”. Khi giành được chính quyền trong cả nước, Người quan tâm nhiều
đến công tác đào tạo cán bộ, đào tạo nhân tài cho đất nước. Trong bài viết “Nhân tài
kiến quốc” (tháng 11/1945) Bác nhận định rằng bây giờ đất nước đang “kiến thiết ngoại
giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo dục”, những “kiến thiết” ấy

đòi hỏi phải có nguồn nhân lực dồi dào và có những nhân tài. Muốn vậy, phải nhận thức
7
đúng tầm quan trọng của giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm
vụ của toàn Đảng, toàn dân.
Muốn có cán bộ tốt, công dân tốt, phải “trồng” và dĩ nhiên là rất công phu. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ cho chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục với cách
mạng, giữa giáo dục với sự nghiệp giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước: “muốn giữ
vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu mọi người Việt Nam đều phải
hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham
gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Vì thế, giáo dục có tầm quan trọng hàng đầu
trong chiến lược con người, bởi giáo dục đào tạo nên chất người, nên nhân tài. Trong
Nhật ký trong tù, Bác viết: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà
nên”.
Chiến lược giáo dục là hạt nhân trong chiến lược con người, cung cấp tri thức
mới, đào tạo nên nhân tài cho đất nước. Gửi thư cho học sinh nhân ngày khai trường
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tháng 9/1945, Bác viết: “Ngày nay, các
cháu được cái may mắn hơn cha anh là được hưởng một nền giáo dục của một nước độc
lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các cháu nên những người công dân có ích cho
nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của các
cháu… Đó là một nền giáo dục “vì lợi ích trăm năm” của đất nước”.
Theo Bác, muốn cho dân mạnh, nước giàu thì dân trí phải cao, phải đa dạng hoá
các loại hình đào tạo, mở trường vừa học vừa làm để tạo điều kiện cho người lao động,
cán bộ chiến sĩ được đi học. Mục tiêu của nền giáo dục mới, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
là đào tạo “những người công dân có ích cho nước Việt Nam”, “những công dân tốt và
cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà”. Người yêu cầu phải quan tâm
đến giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài cho đồng bào các dân tộc ít người, tẩy
rửa những thành kiến giữa các dân tộc, đoàn kết thương yêu nhau như anh em một nhà,
thi đua học tập để sau này góp phần mở mang quê hương đất nước mình. Khi dân trí
cao, sẽ xuất hiện nhiều nhân tài tham gia xây dựng đất nước. Người nhấn mạnh “muốn
8

xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Vì thế,
nền giáo dục mới phải đào tạo nên những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng” vừa “chuyên”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch
của thực dân còn sót lại. Cần xây dựng tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, giáo
dục phải toàn diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con người lao động mới, phải coi trọng
cả tài và đức. Không những phải giàu về tri thức mà còn phải có đạo đức cách mạng.
Theo Người “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”. Phải “trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư
tưởng tốt” mà phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực và
giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra, trong một thời gian không xa, đạt
những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật.
Về phương pháp đào tạo nên những người đức – tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền
với xã hội”. Chúng ta có thể tìm thấy hàng loạt lời chỉ dẫn của Người về vấn đề này
trong các bài nói, bài viết, các bức thư của Người về giáo dục. Muốn trở nên người thực
sự có tài năng và có ích cho xã hội, Bác nhắc nhở: “các cháu học sinh không nên học
gạo, không nên học vẹt… Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí
nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau. Bác dạy phải coi “giáo dục
thiếu nhi là một khoa học”. Mặc dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn giành thì giờ
để chỉ đạo cụ thể, sát sao các phong trào thi đua, như phong trào “dạy tốt – học tốt”, đề
xuất công tác Trần Quốc Toản, phong trào “kế hoạch nhỏ” cho các thiếu niên nhi đồng
nhằm tạo nên môi trường xã hội rộng lớn và thuận lợi cho phát triển giáo dục.
Bác căn dặn, cần làm cho con em chúng ta thành những trò giỏi, con ngoan, bạn
tốt và mai sau là những công dân có lòng yêu nước nồng nàn, “trung với nước, hiếu với
dân”, có đạo đức trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, không sợ hy sinh gian khổ,
9
có tinh thần gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, trong sạch, giản dị,
có tri thức và sức khoẻ để trở thành những cán bộ tốt, công dân tốt. Theo Người, mục

đích tối cao của giáo dục là bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, “đào tạo các em
nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam”.
Bác luôn đánh giá cao vai trò của các cô giáo, thầy giáo đối với xã hội. Người
nhấn mạnh “những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất, là những người
anh hùng vô danh”. Muốn được như vậy các cô giáo, thầy giáo, trước hết phải trau dồi
đạo đức cách mạng, không ngừng rèn luyện chuyên môn, phải là tấm gương trong sáng
để học sinh noi theo, phải gương mẫu từ ăn nói đến việc làm, phải thương yêu chăm sóc
học sinh như con em ruột thịt của mình, phải thật sự yêu nghề, yêu trường”.
Trong công tác quản lý giáo dục, Người khuyên phải đi sâu vào việc điều tra
nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm. Chủ trương phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn, kết hợp
chặt chẽ chủ trương chính sách của Trung ương với tình hình thực tế ở địa phương và
kinh nghiệm quý báu và phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa phương.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục còn thể hiện trong ham muốn tột bậc của
Người là: “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây là những bài học vô
cùng quý giá để chúng ta học tập, noi theo và làm tốt hơn nữa sự nghiệp phát triển giáo
dục, đào tạo góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước giàu đẹp, phồn vinh.
Nhìn lại lịch sử phát triển ở một số nước trên thế giới, chúng ta có thể thấy điều
này rất rõ ở Nhật Bản. Sự thần kỳ của Nhật Bản trong những năm 60 của thế kỷ trước
đã làm cho cả thế giới phải kinh ngạc. Tiếp đó là sự xuất hiện của các con rồng Đông Á
trong những năm 70 và sự ra đời của những nước mới công nghiệp hoá Đông – Nam Á
trong những năm 80. Tất cả đều gửi đi một thông điệp chung về vai trò tiên quyết của
giáo dục trong việc tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế và rút ngắn thời gian công nghiệp
hoá, đặc biệt ở những nước hạn hẹp về nguồn tài chính và tài nguyên thiên nhiên nhưng
có nguồn nhân lực dồi dào.
10
Trong nỗ lực tìm ra cơ chế giải thích sự tác động của giáo dục lên tăng trưởng
kinh tế, các nhà khoa học đã đưa ra khái niệm “vốn con người”. Đó là một loại vốn, như
vốn tài nguyên và vốn tài chính, do tri thức và kỹ năng của con người lao động đem lại
để đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Cách tiếp cận này nhìn nhận con người chủ yếu

như là một phương tiện để tăng trưởng kinh tế, nó đã chi phối tư duy phát triển của
đông đảo các quốc gia trong vài thập kỷ cuối của thế kỷ XX. Góp phần đem lại bước
nhảy vọt cho kinh tế thế giới, nhưng kèm theo đó là sự gia tăng khoảng cách bất bình
đẳng giữa các quốc gia, giữa các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Vì vậy, những năm
đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã đánh dấu một bước chuyển trong tư duy phát
triển. Mô hình phát triển thuần tuý về kinh tế được thay đổi bằng mô hình phát triển con
người. Đó là sự phát triển trong đó con người không chỉ là phương tiện mà chủ yếu và
trước hết là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế. Từ đó mà giáo dục có thêm một vai trò
mới: là thành phần của phát triển con người và là chìa khoá để giải quyết các vấn đề xã
hội. Giáo dục phải đem đến cho con người không chỉ các kỹ năng nghề nghiệp mà
chính là phương tiện để mỗi người làm chủ cuộc sống của chính mình, đóng góp thành
công cho cộng đồng và xã hội. Giáo dục không chỉ tạo ra vốn con người mà còn tạo ra
vốn xã hội. Đó là vốn được tạo bởi sự gắn kết giữa các thành viên trong một tổ chức
hoặc một cộng đồng trên cơ sở chia sẻ giá trị, lòng tin, chuẩn mực đạo đức và thái độ
công dân mà kết quả là đem lại lợi ích cho tổ chức, cộng đồng xã hội. Vốn xã hội bảo
đảm sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, đồng thời góp phần để nhân loại đương
đầu thành công với những bài toán toàn cầu như xoá đói, giảm nghèo, sinh đẻ có kế
hoạch, gìn giữ hoà bình, bảo vệ môi trường, ngăn chặn đại dịch HIV/AIDS,…
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, tư duy phát triển của các quốc gia lại có bước
tiến quan trọng. Đó là sự vận động của các nền kinh tế hướng tới một giai đoạn phát
triển mới, giai đoạn kinh tế tri thức. Với tư cách là công cụ truyền bá, sản sinh và áp
dụng tri thức, giáo dục có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết trong tư duy phát triển các
11
quốc gia. Nó vừa là động lực cho việc thực hiện kinh tế tri thức, vừa là hạ tầng xã hội
cho việc hình thành xã hội tri thức.
Vì những lý do trên mà vai trò của giáo dục trong chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội không ngừng được củng cố, tăng cường. Cuối những năm 80, đầu những năm 90
của thế kỷ trước, mới chỉ có một số ít quốc gia quy định giáo dục là lĩnh vực ưu tiên
quốc gia, phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhưng bước sang thế kỷ XXI, ở
hầu hết mọi quốc gia, giáo dục đều được đặt ở vị trí trung tâm trong các chiến lược phát

triển đất nước. Coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển bền vững.
Từ những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu ấy, kết hợp với sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Đại hội Đảng X đã nhấn mạnh: “phải đổi mới tư duy giáo dục một cách
nhất quán…; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch
đồng bộ”. Trong xu thế vận động hiện nay từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí
tuệ, không chỉ khoa học và công nghệ, mà cả giáo dục và đào tạo cũng đang trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp như một tất yếu của quá trình phát triển xã hội. Việc đổi
mới tư duy giáo dục trong giai đoạn phát triển mới của đất nước cần lấy đó làm điểm
xuất phát để lường trước các tương lai khả dĩ của giáo dục, xây dựng tầm nhìn và chiến
lược phát triển sao cho giáo dục và đào tạo thực sự là một khâu đột phá trong việc làm
cho đất nước có bước phát triển nhảy vọt, rút ngắn thời gian trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức.
Như vậy, 4 mệnh đề trên là bốn trụ cột cho sự phát triển bền vững quốc gia.
Chúng tạo nên tứ giác đều ABCD. Giáo dục nằm ở tâm tứ giác đều ABCD, nó vừa là
nhân tố mục tiêu để thực hiện các mệnh đề A, B, C, D; nó vừa thụ hưởng thành quả
hoạt động của các lĩnh vực trên.
Bố trí trên một mặt phẳng ta có hình sau:
12
2. Một số đề xuất cho giáo dục Việt Nam
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đánh giá sâu sắc thực trạng giáo dục
nước ta: “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào
tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo
nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với
nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp
dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực,
ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo
còn bất cập. Xu hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn
chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội”… Với thực trạng giáo dục

Việt Nam như hiện nay tôi xin đưa ra một số đề xuất để góp phần đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục như sau:
Một là, xác định nguyên tắc cơ bản của giáo dục nước ta: nhân bản, dân tộc, khoa
học. Trong đó, nhân bản là vì con người, vì sự phát triển của mỗi con người và cộng
đồng, coi con người là nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố quyết định sự phát
triển của xã hội. Bởi vì, một xã hội phát triển đến đỉnh cao thì sẽ phải vì các cá nhân,
C. Tôn tài đại thịnh
A. Bách niên thụ nhân
GIÁO DỤC
13
D. Quy trí tất hưng B. Phi sư bất thành
còn cá nhân phát triển đến đỉnh cao cũng sẽ vì xã hội. Năm 1946, trong bối cảnh phải
tập trung đối phó với mưu mô gây chiến với các thế lực thực dân, nhưng Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành hai sắc lệnh số 146-SL và 147-SL, trong đó
khẳng định ba nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Thế
giới ngày nay đã thay đổi, nhiều giá trị của con người đã được xác lập như bình đẳng,
dân chủ, tự do, quyền con người.v.v. Nhân bản và khoa học là triết lý giáo dục định
hướng của nhân loại trong thế kỷ XXI.
Hai là, Giáo dục phổ thông cơ sở 9 năm từ lớp 1 đến lớp 9 phải là giáo dục bắt
buộc, điều này khẳng định: mọi công dân sinh ra bình thường phải có nghĩa vụ đi học,
phụ huynh phải có nghĩa vụ cho con đi học và Nhà nước phải đảm bảo cho mọi người
được học và ít nhất là học hết lớp 9. Trong trường hợp gia đình không có điều kiện để
học, Nhà nước phải nuôi cho trẻ ăn học. Cũng phải nói thêm rằng, từ năm 1950, tiểu
học được nhà nước ta xác định là bậc học cưỡng bách, đi học không đóng học phí.
Ba là, Nhà nước cần phải coi trọng công tác Nghiên cứu khoa học giáo dục, để
nghiên cứu những vấn đề cơ bản của Giáo dục ở tầm vĩ mô, cũng như vi mô, chú trọng
đến nghiên cứu thực nghiệm trong giáo dục. Những vấn đề như Triết lí giáo dục, dạy
học phân hóa, xác định giá trị của con người Việt Nam cần đạt ở thế kỷ XXI, nội dung,
chương trình, phương pháp, phương thức giáo dục và đào tạo.v.v. cần được nghiên cứu
sâu sắc để định hướng cho sự phát triển dài hạn của giáo dục. Đặc biệt, cần phải có

những tổ chức nghiên cứu độc lập, để thực hiện việc đánh giá, phản biện kịp thời đối
với các giải pháp mà Bộ GD&ĐT triển khai, tránh sai lầm, phải làm đi, làm lại nhiều
lần như trong thời gian qua. Ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam cần phải có những cơ quan
Nghiên cứu Giáo dục đủ mạnh để nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn giáo
dục ở các vùng, làm cơ sở cho hoạch định chính sách giáo dục của Nhà nước và các giải
pháp của Bộ GD&ĐT.
Bốn là, xóa bỏ phân ban như hiện nay, tập trung cho dạy học phân hoá, mọi HS
đều được học một chương trình chuẩn tối thiểu và có nhiều chương trình nâng cao mà
14
HS được lựa chọn theo năng lực và sở thích, thiết kế chương trình phổ thông 11 năm
theo hướng ghép môn, để giảm số lượng môn học. Năm thứ 12 là năm dự bị đại học,
dành cho những học sinh có đủ khả năng để học cao lên bậc đại học. Thực hiện được
điều này sẽ nâng cao chất lượng đầu vào đại học, đồng thời một HS từ lớp 1 đến lớp 12
sẽ có 3 ngã rẽ: Sau THCS, sau THPT (lớp 11) và sau lớp 12 để đi vào các trường nghề,
trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.
Năm là, tập trung đầu tư cho đội ngũ giáo viên cả về nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và đời sống của họ, có chính sách thu hút người giỏi vào ngành giáo
dục. Báo cáo của các kỳ khảo sát quốc tế PISA do Tổ chức các nước phát triển (OECD)
tiến hành, cho thấy: trong khi kinh phí đầu tư tính theo đầu HS của một số quốc gia
thấp, nhưng tỷ lệ đầu tư cho giáo viên cao hơn thì chất lượng học sinh của quốc gia đó
cao hơn.
Việc đào tạo giáo viên phải đi trước một bước, dựa trên đổi mới giáo dục sau 5
năm, 10 năm, 20 năm, hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu của người giáo viên
mới có thể dạy học để học sinh tự học, tự nghiên cứu và sáng tạo.
KẾT LUẬN
Qua phân tích ở trên có thể thấy bất kỳ một quốc gia nào cũng luôn hướng tới sự
15
hưng thịnh và phát triển bền vững. Để làm được điều đó thì các quốc gia cần có chiến
lược đầu tư phát triển con người. Muốn “Trồng người” cần chú trọng hình thành được
người thầy và đội ngũ người thầy có phẩm chất, năng lực thực hiện tốt sứ mệnh mà xã

hội giao cho. Trong sứ mệnh “Trồng người” đó, cần quan tâm chăm lo mở mang toàn
diện văn hóa giáo dục cho các lực lượng có trách nhiệm của xã hội, quan tâm việc tìm
kiếm, phát hiện và bồi dưỡng được nhân tài cho đất nước. Để thực hiện tốt những điều
này thì bất kể quốc gia nào cũng phải có giáo dục mới làm được, giáo dục chính là then
chốt. Không có giáo dục thì không thể thực hiện tốt mục tiêu trồng người, phát triển con
người tốt được. Không có giáo dục thì cũng không thể bồi dưỡng được nhân tài, bồi
dưỡng được nguồn nhân lực có chất lượng cao. Và nếu không có giáo dục thì không bao
giờ có thể nâng cao được dân trí, quan trí, doanh trí. Tóm lại là chúng ta đầu tư cho giáo
dục chính là đầu tư cho tương lai, đầu tư cho sự phát triển.
16

×