Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

bài tập môn học học phần quản lý tài chính trong giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.85 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
BÀI TẬP MÔN HỌC
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG GIÁO DỤC
Giảng viên phụ trách: PGS.TS. Đặng Quốc Bảo
Học viên:
HÀ NỘI – 2014
Hạn nộp bài theo qui định: ngày 12 tháng 9 năm 2014
Thời gian nộp bài: ngày 12 tháng 9 năm 2014
Nhận xét của giảng viên chấm bài:













Điểm: Giảng viên (kí tên):
BÀI TẬP MÔN HỌC
Học phần Quản lý tài chính trong giáo dục
2
ĐỀ BÀI
Câu 1: Căn cứ vào 6 luận điểm về giáo dục đã nêu, chọn 1 luận điểm mà
mình có ấn tượng nhất. Viết bài bình luận (2 trang) về quan điểm đó.
Câu 2: “Toán học là Ông Hoàng của các môn khoa học; Kinh tế học là


Nữ Hoàng của các Khoa học. Còn Kinh tế học giáo dục là…”. Hãy viết
tiếp 10 dòng vào chỗ trống.
Câu 3: Thu nhập quốc dân Việt Nam tính theo sức mua (USD) dự kiến
2014 là 3000 USD. Giả dụ tốc độ tăng GDP của đất nước là 5% năm.
Hỏi bao nhiêu năm nữa đất nước sẽ đạt mức 6000 USD theo đầu người ?
Câu 4: Anh (chị) hãy chọn một mệnh đề mình ấn tượng nhất trong 16
mệnh đề đã học (Tứ thụ – Tam phi… bất – Tứ tôn – Ngũ quy) viết bình
luận cho mệnh đề đó (từ 1-2 trang) ?
BÀI LÀM
Câu 1:
3
Giáo dục, hiểu theo nghĩa rộng nhất là sự truyền thụ kinh nghiệm
xã hội từ thế hệ trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho thế hệ sau bước
vào cuộc sống. Với ý nghĩa đó, giáo dục đã ra đời từ khi xã hội loài
người mới hình thành, do nhu cầu của xã hội và trở thành một yếu tố cơ
bản để làm phát triển loài người, phát triển xã hội. Giáo dục là một hoạt
động có ý thức của con người nhằm vào mục đích phát triển chính con
người và phát triển xã hội. Vì thế giáo dục là một hiện tượng xã hội và là
một trong những nhu cầu tất yếu của xã hội.
Giáo dục ban đầu được thực hiện một cách đơn giản, trực tiếp ngay
trong lao động và trong cuộc sống, và ở mọi lúc, mọi nơi. Khi xã hội
ngày càng phát triển lên, kinh nghiệm xã hội được đúc kết nhiều hơn,
yêu cầu của xã hội đối với con người ngày càng cao hơn, các loại hình
hoạt động xã hội ngày càng mở rộng hơn thì giáo dục theo phương thức
trực tiếp không còn phù hợp mà đòi hỏi phải có một phương thức giáo
dục khác có hiệu quả hơn. Giáo dục gián tiếp theo phương thức nhà
trường, được thực hiện một cách chuyên biệt ra đời và ngày càng phát
triển đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Do đó, xã hội càng
phát triển, giáo dục ngày càng trở nên phức tạp hơn và mang tính chuyên
biệt hơn. Sự phát triển đó là do yêu cầu tất yếu của xã hội và do những

sức mạnh to lớn của giáo dục tạo ra sự phát triển của xã hội. Vai trò của
giáo dục đối với sự phát triển về mọi mặt của xã hội thì không ai có thể
phủ nhận về nó.
Từ khi ra đời, giáo dục đã trở thành một yếu tố cơ bản thúc đẩy sự
phát triển thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của nó. Đó
chính là những tác động tích cực của giáo dục đến các mặt hay các quá
trình xã hội và tạo ra sự phát triển cho xã hội.
4
Giáo dục là mục tiêu và sức mạnh của kinh tế. Sự phát triển xã
hội được đặc trưng bởi sự phát triển kinh tế. Mọi xã hội được xây dựng
trên nền tảng của các nền kinh tế và được tạo ra bởi các yếu tố kinh tế.
Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới muốn phát triển về kinh tế
cũng cần có rất nhiều nguồn lực như nguồn lực nhân lực, nguồn lực
nguồn vốn, nguồn lực tài nguyên ; trong đó nguồn lực nhân lực (người
lao động) là quan trọng nhất. Bởi vì, nếu muốn đưa xã hội càng phát
triển, đòi hỏi phải có những người có trình độ cao, có kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn lao động sản xuất, có những phẩm chất cần thiết
của người lao động mới. Muốn có nguồn nhân lực như vậy thì xã hội
cần phải có giáo dục. Bởi vì giáo dục thông qua hệ thống giáo dục và
dạy học, bằng bằng nhiều hình thức khác nhau, giáo dục trực tiếp đào
tạo ra đội ngũ người lao động đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và có
trình độ cao, một mặt, để thay thế cho những lao động đã mất; mặt khác,
để bổ sung, nâng cao và đáp ứng nguồn nhân lực cho yêu cầu mở rộng
và phát triển sản xuất (mở rộng các khu vực sản xuất, chuyển dịch cơ
cấu, hiện đại hóa, công nghiệp hóa…). Chất lượng nguồn nhân lực được
đặc trưng bởi trình độ được đào tạo (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kỹ thuật,
năng lực công nghiệp,…). Tất cả đều do giáo dục quyết định. Vì vậy,
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng tốt là mục tiêu tạo động lực cho
sự phát triển kinh tế.
Giáo dục đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến các nguồn lực

cần thiết cho xã hội, làm cho xã hội ngày càng phát triển. Thông qua các
quá trình giáo dục và dạy học, bằng nhiều hình thức khác nhau; giáo dục
đã:
5
- Đào tạo ra những con người mới, là những người có trình độ văn
hóa, am hiểu về khoa học kỹ thuật – khoa học công nghệ; có khả năng
vận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật – công nghệ vào quá trình
sản xuất lao động. Nhờ vậy làm tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, tạo động lực cho xã hội phát triển.
- Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra nguồn nhân lực
mới để thay thế những sức lao động cũ bị mất đi do ốm đau, bệnh tật,
tuổi già, tai nạn…
- Hiện nay hầu như các nước trên thế giới đều ý thức được tầm
quan trọng, vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế. Vì thế các
nước trên thế giới đều coi trọng giáo dục, ưu tiên cho giáo dục. Như:
tăng ngân sách cho giáo dục, trang bị thiết bị giáo dục cho các trường,
Hầu như nước nào quan tâm đến giáo dục thì nước đó đều có sự phát
triển mạnh về kinh tế, điển hình như Nhật Bản, Singapore.
Đầu tư giáo dục là đầu tư cho tương lai, vì thế không những là các
nước trên thế giới mà Việt Nam chúng ta cũng đang đầu tư rất lớn cho
giáo dục. Đã chú trọng đến những chính sách phù hợp để nâng cao tay
nghề, nghiệp vụ cho người lao động như: Đưa người sang các nước bạn
để học hỏi những kiến thức, kinh nghiệm của các nước khác; mở các lớp
chuyên tu, tại chức, cao học,…
Giáo dục đã trở thành một yếu tố quan trọng trong việc tạo ra sự
phát triển cho các nền kinh tế. Vì thế muốn phát triển kinh tế thì trước
hết phải tập trung mọi nổ lực để phát triển giáo dục, dựa vào giáo dục và
lấy giáo dục làm động lực.
Câu 2:
6

Theo tôi có thể viết tiếp luận điểm trên như sau: “Toán học là Ông
Hoàng của các môn khoa học; Kinh tế học là Nữ Hoàng của các Khoa
học. Còn Kinh tế học giáo dục là một khoa học liên ngành được hình
thành chủ yếu trên cơ sở của kinh tế học và giáo dục học”. Nếu như
kinh tế học nghiên cứu cá nhân và xã hội đưa ra những lựa chọn tối ưu
như thế nào đối với các tài nguyên khan hiếm như: đất đai, lao động,
vốn, và khả năng tạo nghiệp Thì kinh tế học giáo dục chủ yếu xem xét
mối quan hệ phức tạp giữa giáo dục hay đầu tư vốn con người và sự đi
lên của kinh tế - xã hội. Khi tiếp cận các vấn đề kinh tế học giáo dục
cần dựa trên nền tảng của nhiều khoa học nhưng lấy kinh tế học làm nền
tảng chủ đạo
.
Câu 3:
Sau mỗi năm GDP tăng 1,05 lần, như vậy GDP bình quân theo sức
mua đầu người qua các năm là một cấp số nhân có công bội q = 1,05.
Theo công thức của cấp số nhân, sau t năm thì Ut = U1.1,05
t
6000 = 3000 x 1,05
t
1,05
t
= 2 t = log 2 = 14,2
Vậy để có sức mua là $6000 so với $3000 tại thời điểm hiện tại với
tốc độ tăng trưởng GDP là 5% thì nước ta phải mất khoảng 14 năm nữa.
Câu 4:
a. Mười sáu mệnh đề Tứ thụ – Tam phi… bất – Tứ tôn – Ngũ quy như
sau:
Quản Trọng (730 - 645 TCN) và "Tứ
Thụ"
Lê Qúy Đôn (1726 - 1784) và "Tứ

tôn”
Nhất niên thụ cốc Tôn tộc đại quí
7
1,05
Thập niên thụ mộc
Bách niên thụ nhân
Thiên niên thụ đức
Tôn lộc đại suy
Tôn tài đại thịnh
Tôn nịnh đại nguy
Khổng Tử (551 - 479 TCN) và "Tam phi
bất"
Lê Qúy Đôn (1726 - 1784) và
“Ngũ qui"
Phi phụ bất sinh
Phi sư bất thành
Phi quân bất vinh
Qui nông tất ổn
Qui công tất phú
Qui thương tất hoạt
Qui trí tất hưng
Qui pháp tất bình
b. Mệnh đề tâm đắc và ấn tượng nhất
“Ngũ qui"
(Lê Quý Đôn)
Qui trí tất hưng
Trong 16 mệnh đề tinh hoa của các tiền nhân ở trên em ấn tượng
nhất mệnh đề “Quy trí tất hưng”.
Có thể nói, hiện nay nguồn lực con người chính là yếu tố quan
trọng nhất cần được quan tâm đầu tư phát triển của mọi quốc gia. Bên

cạnh việc tìm kiếm, phát hiện, đào tạo và trọng dụng người tài thì chúng
ta cũng cần chăm lo sự mở mang toàn diện văn hóa giáo dục trước hết là
khai hóa tri thức cho các lực lượng có trách nhiệm của xã hội, chẳng thế
mà trong “Ngũ quy”, bà Nguyễn Thị Ngọc Diễm đã nêu “Quy trí tất
hưng”.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Diễm (1721 – 1784) là một Vương phi thời
8
Chúa Trịnh, cùng thời với Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726 – 1784). Bà
Ngọc Diễm học rộng biết nhiều, thường hay đàm đạo với các danh nho
trong triều. Bà dâng lên Nhà Chúa các kiến giải của mình. Theo Bà chú
trọng, lo toan cho nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp thì tạo ra
nhiều của cải vật chất, đảm bảo cuộc sống no ấm cho nhân dân, đất nước
ổn định, giàu có, năng động – điều đó tạo nên sự tăng trưởng. Nhưng
muốn đất nước phát triển, hưng thịnh thì phải chăm lo cho văn hóa giáo
dục:
“Quy trí tất hưng”
(Tạm dịch: Chăm lo cho giáo dục, văn hoá thì đất nước hưng thịnh)
“Trí” vốn là một từ gốc Hán, có nghĩa là trí tuệ, để chỉ trình độ
nhận thức, suy đoán, ghi nhớ… “Quy trí tất hưng” hiểu theo nghĩa rộng
là chăm lo tổng thể sự nghiệp văn hóa giáo dục. Hiểu theo nghĩa trực
diện là chăm lo sự mở mang hiểu biết của người dân để người dân sống
đúng đắn theo trách nhiệm công dân, có hoài bão làm cho dân giàu,
nước mạnh.
Nâng cao dân trí là một trong những chủ trương đường lối chính
sách của Đảng ta đã được đề ra ngay từ những năm đầu xây dựng đất
nước. Là một vấn đề quan trọng được chủ tịch Hồ Chính Minh quan tâm
hàng đầu, theo Người thì “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người
chỉ rõ, dốt nát là nguyên nhân cơ bản của yếu hèn và sai lầm. Dốt thì dại,
dại thì hèn. Hồ Chí Minh coi dốt nát là một trong ba loại giặc cần phải
tiêu diệt (giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm). Chính vì vậy, sau khi đất

nước vừa giành được độc lập, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính
phủ lâm thời (03-9-1945), Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách của
chính quyền mới, trong đó có 2 nhiệm vụ về giáo dục, đó là “Cần mở
9
một chiến dịch để chống nạn mù chữ” và “Giáo dục lại tinh thần nhân
dân bằng cách thực hiện: “CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH”. Người chỉ rõ:
Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao
dân trí, bởi không một quốc gia nào có thể tiến hành xây dựng một chế
độ xã hội mới và bảo vệ Tổ quốc thành công trong điều kiện văn hóa,
dân trí, đạo đức, tinh thần xã hội thấp kém. Chưa đầy một tuần sau ngày
độc lập, ba sắc lệnh quan trọng về giáo dục đã được Người ký và ban
hành Sắc lệnh 17-SL, thành lập Nha Bình dân học vụ, Sắc lệnh 19-SL,
quy định mọi làng phải có lớp học bình dân, và Sắc lệnh 20-SL, cưỡng
bách học chữ Quốc ngữ không mất tiền. Một nền giáo dục mới - nền
giáo dục của nước Việt Nam độc lập được Người nêu rõ trong Thư gửi
các học sinh: “Ngày nay, các em được cái may mắn hơn cha anh là được
hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ
đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam,
một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của
các em… Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc
Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập
của các em”.
Trình độ dân trí cao, trước hết giúp người dân sống đúng đắn theo
trách nhiệm công dân. Họ biết việc gì nên làm, việc gì không. Họ sống
có hoài bão, có khát vọng và biết cách cống hiến cho đất nước, cho dân
tộc. Có sự hiểu biết, người dân sẽ biết cách lao động hiệu quả, nâng cao
giá trị sản phẩm, tạo ra nhiều của cải vật chất; điều này góp phần rất lớn
vào việc tạo ra và duy trì sự phát triển cho đất nước. Họ luôn đồng thuận
và hưởng ứng mọi chủ trương, chính sách, pháp luật đúng đắn của Đảng

10
và Nhà nước. Sự đồng thuận và đoàn kết là nhân tố vô cùng quan trọng
để duy trì an ninh trật tự và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Ngày nay,
nhân loại đang bước vào một nền văn minh trí tuệ, một nền kinh tế tri
thức, một xã hội thông tin. Thế giới đang trong cuộc chạy đua về tốc độ
trong hệ thống kinh tế - xã hội.
Vì vậy, người ta nói, muốn biết tương lai một dân tộc ra sao hãy
nhìn vào hiện tại xem dân tộc đó đang làm giáo dục như thế nào? Trong
nền kinh tế tri thức, ưu thế không hoàn toàn lệ thuộc vào các nhân tố
truyền thống như tài nguyên, đất đai, nhân công,… mà nhân tố có ý
nghĩa quyết định là trí tuệ con người, là đội ngũ lao động chất lượng cao,
là chất xám của các chuyên gia. Việt Nam muốn “Sánh vai với các
cường quốc năm châu”, trước tiên phải làm tốt chiến lược “trồng người”
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi bằng con đường phát triển giáo
dục, phát triển năng lực sẵn có trong mỗi con người, chúng ta mới có thể
đi tắt, đón đầu, phát huy thế mạnh của con người Việt Nam (yêu nước,
ham học, thông minh, sáng tạo,…) để xây dựng và phát triển đất nước.
Chúng ta cần phải chú trọng việc nâng cao dân trí của nhân dân,
hạn chế đến mức tối đa sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các
vùng miền trong cả nước, có như vậy mới có thể đồng sức, đồng lòng
xây dựng và đưa đất nước phát triển.
Và cũng chính là cơ sở “Đại đoàn kết dân tộc” để đấu tranh chống
phá các thế lực lợi dụng trình độ nhận thức thấp trong nhân dân nhằm
chia rẽ nội bộ dân tộc ta làm mất an ninh quốc gia cũng như chủ quyền
của đất nước. Tình hình thực tế hiện nay cho ta thấy một điều rằng sự
chênh lệch về trình độ dân trí còn cao ở nước ta.
“Dân trí” gắn liền với “Quan trí” và “Doanh trí”. Dân trí không
11
phát triển được nếu Quan trí méo mó (Tham nhũng, cửa quyền áp bức
nhân dân), và Doanh trí (Chụp giật, phi đạo đức). Với quan trí cao tức là

có trí thức sâu rộng, có “Tài”, có “Tầm”, bên cạnh đó họ còn phải có
“Tâm”. Quan trí cao, họ không màng đến lợi ích cá nhân mà luôn nghĩ
cho dân tộc, cho đất nước. Họ luôn mong muốn cống hiến hết mình cho
tổ quốc. Chính vì vậy, họ sẽ gây dựng được niềm tin và uy tín trong dân.
Quan trí cao sẽ có tầm nhìn và định hướng đúng đắn giúp đất nước ngày
càng phát triển. Bên cạnh đó, người làm quan có tri thức sâu rộng, có
đạo đức, hết lòng vì dân vì nước, họ luôn biết cách mang lại cuộc sống
hạnh phúc cho nhân dân. Họ luôn biết tận dụng và phát huy tối đa các
nguồn lực, mang lại lợi ích cho đất nước. Với tầm nhìn sâu rộng và cái
“Tâm” với nghề, họ luôn biết cách tìm kiếm, phát hiện, thu hút và trọng
dụng người tài, biết cách làm cho người tài gắn bó và cống hiến cho
nhân dân, cho tổ quốc.
Bên cạnh việc nâng cao dân trí, quan trí thì chúng ta cũng cần phải
nâng cao doanh trí bởi đó là lực lượng có vai trò hết sức quan trọng,
đóng góp đáng kể cho sự hưng thịnh của đất nước. Xưa kia ông cha ta đã
từng có câu “Phi thương bất phú”. Đội ngũ doanh nhân được ví như
“nguồn của cải vật chất khổng lồ” đóng góp vào tiềm lực kinh tế, tạo
công ăn việc làm cho xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao vị
thế của dân tộc trên trường quốc tế, có thể khẳng định, doanh nhân ngày
càng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Doanh nhân cần phải có trí thức, kiến thức, kinh nghiệm Bên cạnh đó
họ còn phải có văn hóa, đạo đức trong kinh doanh. Để nâng cao doanh
trí cho cá nhân và cho cộng đồng doanh nhân, nhiều lãnh đạo doanh
nghiệp có những chiến lược, chính sách đầu tư cho việc đào tạo nguồn
12
nhân lực rất bài bản. Từ cán bộ lãnh đạo cấp cao, cấp trung đến nhân
viên kỹ thuật đều được qui hoạch, cử tham gia các lớp học chính qui
hoặc ngoài giờ; các lớp học chuyên ngành dài hạn hoặc ngắn hạn; tham
dự các hội thảo chuyên đề , xem đó như là một cách nạp năng lượng để
điều hành, quản trị nhà máy, vận hành sản xuất một cách khoa học,

chuyên nghiệp.Với doanh nghiệp vừa và nhỏ, quản trị theo kiểu gia đình
là một quán tính gây cản trở không nhỏ cho quá trình phát triển. Muốn
thay đổi, không gì khác là doanh nhân cần học tập và chia sẻ kinh
nghiệm vận hành quản trị khoa học từ các trường lớp, từ chuyên gia, và
từ đồng nghiệp.
13

×