Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI HỌC PHẦN PHÂN HÓA VÀ BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.52 KB, 29 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI HỌC PHẦN PHÂN HÓA VÀ BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI TRONG GIÁO
DỤC
Dành cho lớp cao học Quản lý giáo dục, năm 2014
1. Phân hóa xã hội là gì? Phân hóa xã hội trong giáo dục được hiểu như thế nào? Hãy nêu
một số chỉ báo hay đơn vị đo lường, đánh giá sự phân hóa xã hội trong giáo dục.
2. Phân tầng xã hội là gì? Hãy vẽ một vài kiểu/mô hình phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội
trong giáo dục được hiểu như thế nào? Hãy nêu một số chỉ báo hay đơn vị đo lường và
đánh giá sự phân tầng xã hội trong giáo dục.
3. Phân loại xã hội là gì? Hãy vẽ một vài kiểu/mô hình phân loại xã hội. Phân loại xã hội
trong giáo dục được hiểu như thế nào? Hãy nêu một số chỉ báo hay đơn vị đo lường và
đánh giá sự phân loại xã hội trong giáo dục.
4. Công bằng xã hội là gì? Công bằng xã hội trong giáo dục được hiểu như thế nào?
5. Bình đẳng xã hội là gì? Bình đẳng xã hội trong giáo dục được hiểu như thế nào? Nêu
một số chỉ báo hay đơn vị đo lường sự bình đẳng xã hội trong giáo dục.
6. Phân tích mối quan hệ giữa “công bằng xã hội” và “bình đẳng xã hội”. Liên hệ thực tế
giáo dục ở Việt Nam
7. Phân tích thực trạng phân hóa xã hội và bình đẳng xã hội trong giáo dục từ tiểu học đến
đại học ở Việt Nam Việt Nam
8. Kể tên các hình thức bất bình đẳng xã hội trong giáo dục. Phân tích một hình thức biểu
hiện rõ nhất tình trạng bất bình đẳng xã hội trong giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
9. Chức năng sàng lọc của giáo dục có ảnh hưởng như thế nào đến phân hóa và bình đẳng
xã hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
10.Thiết chế kinh tế có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng xã hội
trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam
11.Thiết chế văn hóa có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng xã hội
trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam
12.Thiết chế pháp luật có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng xã
hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
13. Thiết chế pháp luật có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng xã
hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
14. Dân số có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng xã hội trong


giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
15. Hôn nhân và gia đình có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng
xã hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
16.Xã hội hóa cá nhân có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng xã
hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
17.Xã hội hóa (sự nghiệp) giáo dục có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và
bình đẳng xã hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
18. Cần hiểu tình trạng sinh viên thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Điều này
liên quan gì đến phân hóa và bình đẳng xã hội trong giáo dục? Có thể nêu giải pháp quản
lý giáo dục gì?
19.Cần hiểu thế nào về phân hóa và bình đẳng trong đầu ra của giáo dục? Liên hệ thực tế ở
Việt Nam.
1
TÀI LIỆU ÔN TẬP
1. Lê Ngọc Hùng. Xã hội học giáo dục. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 2011. (Bắt buộc)
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê. Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Năm
năm 2009: Giáo dục ở Việt Nam: Phân tích các chỉ số chủ yếu. Hà Nội. 2011. (Bắt
buộc)
3. Các tài liệu khác về tình hình giáo dục ở nơi công tác, địa bàn cư trú (bắt buộc)
4. Các tài liệu khác về tình hình phân hóa và bình đẳng xã hội trong giáo dục (khuyến
khích)
2
LƯU Ý
Đặc biệt Cần sử dụng số liệu ở bảng này (xem nguồn) và các số liệu khác để trả lời các câu hỏi
một cách phù hợp.
Lưu ý là nhóm nghèo nhất so với nhóm giàu nhất chứ KHÔNG phải nhóm nghèo với nhóm
giàu (như đã chuẩn bị trong bài).
Lưu ý lập bảng cho chính xác, ví dụ như 2 bảng dưới đây: có tên bảng, nguồn và tự làm thêm
hai dòng với các ô số liệu cần tính toán để biết phân hóa tương đôi và phân hóa tuyệt đối.
Bảng 1. Tỉ lệ đi học đúng tuổi các cấp bậc giáo dục và phân hóa tương đối, phân hóa tuyệt đối

giữa nhóm giàu nhất với nhóm nghèo nhất về cơ hội đi học đúng tuổi các cấp bậc giáo dục từ
tiểu học đến đại học, năm 2009
Tiểu học Trung học
cơ sở
Trung học
phổ thông
Cao đẳng Đại học
Ngheo
nhất
88,9 59,0 23,2 0,3 0,3
Ngheo 95,3 78,7 44,2 1,8 1,0
Trung 97,0 86,7 56,1 7,8 5,5
Giau 97,5 89,6 64,6 8,6 10,6
Giau nhất 98,3 94,9 82,3 11,6 26,3
Phân hóa
tương đối
(giàu nhất
– nghèo
nhất)
98.3-88.9
=
26.3-0.3 = 26%
Phân hóa
tuyệt đối
(giàu
nhất/nghèo
nhất)
26.3/0.3= 87.7
Nguồn. Tổng cục Thống kê. Giáo dục ở Việt Nam: Phan tich cac chỉ số chủ yếu. Hà Nội.
2011. Tr. 36.

Bảng 2. Tỉ lệ đi học đúng tuổi các cấp bậc giáo dục của các nhóm dân tộc và phân hóa tương
đối, phân hóa tuyệt đối giữa nhóm dân tộc Kinh với dân tộc Mông về cơ hội đi học đúng tuổi
các cấp bậc giáo dục từ tiểu học đến đại học, năm 2009
Tiểu học Trung học
cơ sở
Trung học
phổ thông
Cao đẳng Đại học
Kinh 97,0 86,7 61,8 7,7 11,1
Tày 97,5 87,6 55,5 3,0 3,2
Thái 92,7 73,3 29,9 1,6 1,1
Mường 95,7 83,3 41,4 1,3 1,7
Khmer 86,4 46,3 15,4 0,9 1,1
Mông 72,6 34,1 6,6 0,2 0,2
Phân hóa tương đối (Kinh –
Hmông)
11.1-0.2 =?
3
Phân hóa tuyệt đối (kinh/Hmông) 11.1/0.2=?
Nguồn. Tổng cục Thống kê. Giáo dục ở Việt Nam: Phân tích các chỉ số chủ yếu. Hà Nội.
2011. Tr. 36.
Tương tự copy số liệu từ nguồn để lập bảng tương tự cho các hình thức khác (nam - nữ, thành
thị - nông thôn, di cư - không di cư). Như vậy cần lập thêm 3 bảng số liệu nữa và đây chính là
5 hình thức phân hóa xã hội, bất bình đẳng xã hội trong giáo dục được đo bằng các chỉ báo: tỉ
lệ đi học đúng tuổi, phân hóa tuyệt đối, phân hóa tương đối.
Đồng thời có thể lập thêm các bảng khác từ nguồn tài liệu Tổng cục Thống kê. Giáo dục ở Việt
Nam: Phân tích các chỉ số chủ yếu. Hà Nội. 2011.
4
ĐÁP ÁN
“PHÂN HÓA VÀ BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC”

Dành cho lớp cao học Quản lý giáo dục, năm 2014
Câu 1. Phân hóa xã hội là gì? Phân hóa xã hội trong giáo dục được hiểu như thế nào? Hãy nêu
một số chỉ báo hay đơn vị đo lường, đánh giá sự phân hóa xã hội trong giáo dục.
Phân hóa xã hội
- Phân hóa xã hội là quá trình hình thành các nhóm xã hội khác nhau về một hoặc một số
đặc điểm, tính chất xã hội nhất định
Phân hóa xã hội còn được hiểu là quá trình tạo ra sự khác biệt xã hội mà căn cứ vào đó
có thể phân hóa phân tầng và phân hóa phân loại.
Phân hóa phân tầng là sự phân hóa tạo ra sự khác biệt định lượng để từ đó hình thành
các tầng lớp xã hội khác nhau về kinh tế, trình độ học vấn và các đặc điểm khác. Ví dụ phân
hóa – phân tầng giàu nghèo, giỏi kém, tầng cao tầng thấp.
Phân hóa - phân loại xã hội là sự phân hóa tạo ra sự khác biệt định tính để từ đó hình
thành các loại nhóm xã hội khác nhau ví dụ nhóm giáo viên dạy toán, nhóm giáo viên dạy lý,
nhóm giáo viên dạy văn, hoặc nhóm bác sỹ răng hàm mặt, nhóm bác sỹ phụ sản, nhóm bác sỹ
tai mũi họng.v.v.
- Sự phân hóa xã hội có thể dẫn đến sự hình thành các nhóm xã hội khác nhau, mâu thuẫn
nhau thậm chí đối lập nhau. Khi sự phân hóa xã hội tạo thành hai nhóm xã hội đối lập nhau thì
được gọi là sự phân cực xã hội
Ví dụ:
Về kinh tế: Sự phân hóa xã hội tạo ra 2 nhóm đối lập nhau là nhóm giàu và nhóm nghèo,
tương ứng là nhóm học sinh con nhà giàu và nhóm học sinh con nhà nghèo.
Về giáo dục: sự phân hóa xã hội tạo thành nhóm học sinh giỏi và nhóm học sinh kém.
Phân hoá XH trong GD được hiểu như thế nào
Phân hoá XH trong GD là: quá trình hình thành các nhóm học sinh (sinh viên, học
viên…), các nhóm nghề nghiệp, trình độ khác nhau trong giáo dục.
Ví dụ như: phân hoá XH trong GD tạo thành các nhóm học sinh:
• Nhóm học sinh con nhà giàu và nhóm học sinh con nhà nghèo.
• Nhóm học sinh học giỏi, học khá và nhóm học sinh học yếu.
• Nhóm học sinh có sở trường, năng khiếu về các môn khoa học TN, XH, VH, VN - TD -
TT

• Nhóm học sinh theo độ tuổi.
• Nhóm học sinh học nghề và nhóm học sinh học văn hoá….
Hay phân hoá XH trong GD còn tạo ra các nhóm nghề nghiệp khác nhau như:
• Các nhà thơ, nhà văn.
• Các nhà khoa học (TN hoặc XH)
• Gíáo viên, bác sĩ, kĩ sư, doanh nhân…
Rồi sự phân hoá này còn hình thành các nhóm với trình độ học vân khác nhau như trung cấp,
cao đẳng, đại học…
5
Hãy nêu một số chỉ báo hay đơn vị đo lường, đánh giá sự phân hóa xã hội trong giáo dục.
Để đánh giá sự phân hóa xã hội trong Giáo dục có thể sử dụng các chỉ báo, hay đơn vị đo
lường là:
 Tỉ lệ % đi học đúng tuổi cấp, bậc học nhất định
 Tỉ lệ % đi học chung cấp, bậc học nhất định
 Số năm đi học trung bình
 Số chi phí (chi tiêu) tính bằng tiền cho việc đến trường (chi phí giáo dục). Căn cứ vào
chi phí giáo dục có thể tính hệ số GINI để đánh giá mức độ phân hóa (mức độ bất bình
đẳng, hệ số GINI có giá trị dao động từ 0 đến 1 càng tiến đến 0 càng bình đẳng và càng
tiến đến 1 càng bất bình đẳng, càng phân hóa.
 Chỉ số phân hóa tuyệt đối = Chênh lệch tuyệt đối giữa các chỉ báo/đơn vị nêu trên: ví dụ
tỉ lệ % đi học đúng tuổi của nam – tỉ lệ % đi học đúng tuổi của nữ = phân hóa giáo dục
tuyệt đối giữa nam
 Chỉ số phân hóa tương đối = Chênh lệch tương đối được tính bằng số lần chênh lệch ví
dụ lấy tỉ lệ % đi học của nam chia cho tỉ lệ % đi học của nữ.
Các hình thức phân hóa xã hội trong giáo dục (còn gọi là các hình thức bất bình đẳng xã hội
trong giáo dục) bao gồm:
1. Phân hóa giữa nam và nữ, (phân hóa giới/bất bình đẳng giới)
2. Phân hóa giữa thành thị và nông thôn
3. Phân hóa giữa các vùng miền,
4. Phân hóa giữa các địa phương (các tỉnh, thành phố)

5. Phân hóa giữa các dân tộc
6. Phân hóa giữa nhóm giàu và nhóm nghèo (phân hóa giàu nghèo)
7. Phân hóa giữa nhóm di cư và nhóm không di cư…
Lưu ý không nhầm lẫn hình thức phân hóa nêu trên với chỉ báo, thước đo phân hóa.
Ví dụ phân hóa giáo dục giữa thành thị và nông thôn có thể được xác định thông qua chỉ báo
/đo lường là tỉ lệ % đi học đúng tuổi trung học phổ thông của thành thị và của nông thôn. So
sánh hai tỉ lệ % này nếu bằng nhau thì bình đẳng không phân hóa, nếu càng khác nhau thì càng
phân hóa, càng bất bình đẳng. Tương tự như đối với các hình thức khác.
Sự phân hoá XH trong giáo dục vừa là hệ quả của sự phân hoá giàu nghèo trong XH song đồng
thời nó cũng là tiền đề, là một trong 2 nguyên nhân (cùng với phân công lao động) tác động tới
phân hoá xã hội.
Giáo dục là một trog những phương thức phân hóa XH sâu sắc.Những người học ở
trường ĐH Bách Khoa thường tham gia vào các nhóm khoa học công nghệ, người tham gia
vào trường ĐH xây dựng sẽ tham gia vào các nhóm nghề xây dựng. Trình độ học vấn khác
nhau tạo những vị thế XH khác nhau như: học trường ĐH Y sẽ trở thành bác sĩ… Học sinh
(HS) trong cùng độ tuổi vừa có sự giống nhau lại vừa có sự khác nhau về khả năng tư duy,
nhân cách và hoàn cảnh gia đình, nề nếp gia đình, khả năng kinh tế, nhận thức của cha mẹ về
giáo dục, ).
6
Câu 2 Phân tầng xã hội là gì? Hãy vẽ một vài kiểu/mô hình phân tầng xã hội. Phân tầng
xã hội trong giáo dục được hiểu như thế nào? Hãy nêu một số chỉ báo hay đơn vị đo
lường và đánh giá sự phân tầng xã hội trong giáo dục.
Phân tầng xã hội
Phân tầng xã hội là sự phân hóa xã hội tạo thành các tầng xã hội khác nhau về vị thế xã
hội trong cấu trúc xã hội.
- Sự phân tầng xh là quá trình phân hóa xã hội với đặc trưng là tạo ra các nhóm xã hội có
vị thế trên dưới, cao thấp khác nhau về mổ hoặc một số đặc điểm, tính chất cơ bản, trong đó
quan trọng nhất là về kinh tế, quyền lực và uy tín xã hội ví dụ sự phân tầng xã hội tạo ra tầng
lớp thượng lưu giàu có, nắm giữ quyền lực và tầng lớp hạ lưu nghèo khổ không có quyền lực.
- Sự phân tầng xh tạo nên cấu trúc phân tầng xã hội gồm các nhóm người có vị thế xác

định trong một trật tự xã hội. vi dụ: trong trật tự KT tư bản cn nghĩa cấu trúc phân tầng có tầng
lớp chóp bu là các nhà tư bản và tầng lớp dưới đáy là những người thất nghiệp vô gia cư
- Sự phân tầng xã hội luôn chưa đựng yếu tố bất bình đẳng xã hội bởi ở đó luôn có những
tầng lớp trên và tầng lớp dưới. tầng lớp trên có nhiều của cải và nhiều quyền lực, tầng lớp dưới
không có quyền lực và thấp cổ bé họng.
* Cơ chế và các yếu tố tác động đến phân tầng xã hội
Cơ chế:
- Quy luật tự nhiên: VD: về lứa tuổi, trong xã hội có thế hệ trước và thế hệ sau, tầng lớp
trên (nhóm người cao tuổi) và tầng lớp dưới (nhóm thanh niên, trẻ em)
- Quy luật xã hội: VD. Người càng học lên cao càng có khả năng gia nhập những giai tầng
trên của xã hội
Yếu tố
- Gia đình: gia đình giàu có điều kiện cho con cái ăn học tốt hơn, điều kiện sống sung túc
hơn các gia đình nghèo, con cái theo nghề nghiệp của cha mẹ …
- Phẩm chất, năng lực cá nhân: tùy theo những phẩm chất và năng lực cá nhân mà người
đó có cơ hội thăng tiến nhiều hay ít…
- Giáo dục và đào tạo: giúp cá nhân hình thành và phát triển những phẩm chất, năng lực
cần thiết. Đây là con đường nhanh nhất và hiệu quả nhất để mỗi cá nhân lĩnh hội được các kinh
nghiệm và tri thức nghề nghiệp để thăng tiến
- Cơ may xã hội: VD: Sinh viên tốt nghiệp đúng ngành nghề mà xã hội đang cần thì cơ hội
việc làm rất cao.
Phân tầng xh trong giáo dục được hiểu một phần nào đó phụ thuộc vào 4 yếu tố trên
Tương tự như đối với phân hóa xã hội đã nêu (tỉ lệ% đi học, số năm đi học trung bình, GINI,
chỉ số phân hóa tương đối, tuyệt đối).
Để đánh giá sự phân tầng xã hội trong Giáo dục có thể sử dụng các chỉ báo, hay đơn vị đo
lường là:
 Tỉ lệ % đi học đúng tuổi cấp, bậc học nhất định
 Tỉ lệ % đi học chung cấp, bậc học nhất định
 Số năm đi học trung bình
7

 Số chi phí (chi tiêu) tính bằng tiền cho việc đến trường (chi phí giáo dục). Căn cứ vào
chi phí giáo dục có thể tính hệ số GINI để đánh giá mức độ phân hóa (mức độ bất bình
đẳng, hệ số GINI có giá trị dao động từ 0 đến 1 càng tiến đến 0 càng bình đẳng và càng
tiến đến 1 càng bất bình đẳng, càng phân hóa.
 Chỉ số phân hóa tuyệt đối = Chênh lệch tuyệt đối giữa các chỉ báo/đơn vị nêu trên: ví dụ
tỉ lệ % đi học đúng tuổi của nam – tỉ lệ % đi học đúng tuổi của nữ = phân hóa giáo dục
tuyệt đối giữa nam
 Chỉ số phân hóa tương đối = Chênh lệch tương đối được tính bằng số lần chênh lệch ví
dụ lấy tỉ lệ % đi học của nam chia cho tỉ lệ % đi học của nữ.
Câu 3 Phân loại xã hội là gì? Hãy vẽ một vài kiểu/mô hình phân loại xã hội. Phân loại xã hội
trong giáo dục được hiểu như thế nào? Hãy nêu một số chỉ báo hay đơn vị đo lường và đánh
giá sự phân loại xã hội trong giáo dục.
Phân loại xã hội là sự phân hóa xã hội tạo thành các nhóm xã hội, các loại nhóm xã hội hay các
loại xã hội khác nhau về những đặc điểm, tính chất xã hội nhất định. Ví dụ sự phân loại xã hôi
căn cứ vào sức khác nhau về loại nghề nghiệp, loại sở thích, nguyện vọng v.v. Phân loại xã hội
về mặt nghề nghiệp tạo ra các nhóm nghề nghiệp khác nhau.
Trong giáo dục, phân loại xã hội biểu hiện ở việc hình thành các nhóm học sinh sinh viên với
các nguồn gốc gia đình khác nhau, định hướng nghề nghiệp khác nhau. Chỉ báo đo lường về
phân loại là các khác biệt định tính và chỉ báo về sự phong phú đa dạng của các loại nhóm. Ví
dụ. Một lớp học có thể chỉ có hai nhóm là nhóm gia đình giàu và nhóm gia đình không giàu.
Nhưng một lớp học khác có thể có nhiều loại nhóm: nhóm nhà giàu, nhóm nhà nghèo, nhóm
công nhân, nhóm nông dân, nhóm tri thức mà mỗi nhóm này lại phân hóa thành nhiều loại
nhóm khác.
8
Câu 4:
Công bằng xã hội là gì? Công bằng xã hội trong giáo dục được hiểu như thế nào
Trả lời:
. Công bằng xã hội là sự tiếp cận và xử lí đúng đắn, không thiên vị các mối quan hệ cơ
bản giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Công bằng xã hội theo pháp luật không phải là mục đích tự thân mà là phương thức, là cơ

chế để thực hiện bình đẳng xã hội thực chất.
. Công bằng xã hội trong giáo dục:
Mọi công dân đều có quyền tiếp cận các cơ hội học tập theo quy định của Luật giáo dục.
Công bằng giáo dục mà mục tiêu cuối cùng là thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, phát triển kinh tế xã hội, bảo tồn sự đa dạng của nền văn hóa các dân tộc Việt Nam, góp
phần xây dựng xã hội: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Lấy thêm các ví dụ
Tham khảo để trả lời cho sinh động phần hỏi thêm của Thầy
Hồ Chủ tịch đã nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành…” . Ham muốn vô bờ đó của Người thực sự đã chứng minh cho những
quan tâm hết sức lớn lao của Hồ Chủ tịch đối với vấn đề quốc kế dân sinh.
(Phát triển giáo dục và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo là cơ sở để
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn vốn văn hoá cho đồng
bào các dân tộc để họ có điều kiện vươn lên hoà nhập và thực hiện quyền bình đẳng của mình
là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết nhưng cũng rất khó khăn ở nước ta hiện nay. Chỉ khi
nào đồng bào dân tộc thiểu số có được một trình độ học vấn cao thì khi ấy họ mới có điều kiện
thay đổi tập quán canh tác lạc hậu, tiếp thu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào trong sản xuất và
đời sống vượt qua nghèo nàn, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của đất, tức là mới có
điều kiện để thực hiện nghĩa vụ của mình, và chỉ khi đó các dân tộc thiểu số mới thực sự bình
đẳng trong một quốc gia đa dân tộc.
Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị
xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập.
Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học
hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo được học tập, tạo điều kiện để những
người có năng khiếu phát triển tài năng.
Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, người
tàn tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa
vụ học tập của mình.)( Điều 10 Luật GD2005)

9
Câu 5:
Bình đẳng xã hội là gì? Bình đẳng xã hội trong giáo dục được hiểu như thế nào? Nêu một
số chỉ báo hay đơn vị đo lường sự bình đẳng xã hội trong giáo dục.
1. Khái niệm
- Công bằng xã hội: Là sự tiếp cận và xử lý đúng đắn, không thiên vị các mối quan hệ cơ bản
giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
- Bình đẳng xã hội: Nói tới bình đẳng xã hội là nói tới sự thừa nhận và sự thiết lập các điều
kiện, các cơ hội và các quyền lợi ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân, các
nhóm xã hội.
→ Công bằng, bình đẳng và tự do gắn liền với quyền cơ bản của của con người.
- Bình đẳng giáo dục: Là sự bình đẳng giữa các cá nhân, các nhóm người về điều kiện, cơ hội
và quyền lợi trong giáo dục.
- Bình đẳng xã hội trong giáo dục được hiểu một cách cụ thể, rõ ràng là sự bình đẳng giáo
dục, bình đẳng về cơ hội giáo dục, bình đẳng về cơ hội học tập, bình đẳng về cơ hội đến
trường.
Yêu cầu về bình đẳng xã hội trong giáo dục
- Một là, cơ hội đầu vào giáo dục: bình đẳng về cơ hội đến trường, bình đẳng về cơ hội đầu tư
cho giáo dục. Cần tạo ra sự bình đẳng về cơ hội đến trường cho mọi nhóm xã hội từ miền xuôi
đến miền ngược, từ trẻ em bình thường đến trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
- Hai là, bình đẳng về cơ hội đầu ra của giáo dục: bình đẳng về cơ hội sử dụng bằng cấp, bình
đẳng về cơ hội tìm việc làm phù hợp với trình độ đào tạo.
- Ba là, cần thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội để từng bước tiến tới bình đẳng xã hội trong
giáo dục (phải hành động trên nền tảng công lý, pháp luật).
3. Từ góc độ xã hội học, vấn đề về bình dẳng xã hội trong giáo dục được nhìn nhận:
- Thứ nhất, vấn đề công bằng, bình đẳng và hiệu quả giáo dục không phải là vấn đề nội bộ của
ngành giáo dục mà là của xã hội.
- Thứ hai, sự công bằng và bình đẳng trong giáo dục phụ thuộc vào cách phân bổ ngân sách
của nhà nước và quy mô, cơ cấu phát triển giáo dục tiểu học, trung học và đại học.
- Thứ ba, là trình độ phát triển kinh tế xã hội: cần thực hiện công bằng ngay cả khi kinh tế

chậm phát triển. Bởi vì bình đẳng xã hội trong giáo dục vừa là mục tiêu vừa là con đường phát
triển con người , phát triển xã hội.
Một số chỉ báo hay đơn vị đo lường sự bình đẳng xã hội trong giáo dục: giới tính; thành thị-
nông thôn; di cư- không di cư; dân tộc; tình trạng kinh tế hộ gia đình
Lưu ý đơn vị, chỉ báo đo lường sự bình đẳng cũng chính là đơn vị đo lường sự phân hóa xã hội
nhưng với ý nghĩa khác: ví dụ hệ số GINI càng gần bằng 0 thì càng bình đẳng. Chênh lệch
tuyệt đối và chênh lệch tương đối càng nhỏ thì càng bình đẳng.
Để đánh giá sự phân tầng xã hội trong Giáo dục có thể sử dụng các chỉ báo, hay đơn vị đo
lường là:
 Tỉ lệ % đi học đúng tuổi cấp, bậc học nhất định
10
 Tỉ lệ % đi học chung cấp, bậc học nhất định
 Số năm đi học trung bình
 Số chi phí (chi tiêu) tính bằng tiền cho việc đến trường (chi phí giáo dục). Căn cứ vào
chi phí giáo dục có thể tính hệ số GINI để đánh giá mức độ phân hóa (mức độ bất bình
đẳng, hệ số GINI có giá trị dao động từ 0 đến 1 càng tiến đến 0 càng bình đẳng và càng
tiến đến 1 càng bất bình đẳng, càng phân hóa.
 Chỉ số phân hóa tuyệt đối = Chênh lệch tuyệt đối giữa các chỉ báo/đơn vị nêu trên: ví dụ
tỉ lệ % đi học đúng tuổi của nam – tỉ lệ % đi học đúng tuổi của nữ = phân hóa giáo dục
tuyệt đối giữa nam
 Chỉ số phân hóa tương đối = Chênh lệch tương đối được tính bằng số lần chênh lệch ví
dụ lấy tỉ lệ % đi học của nam chia cho tỉ lệ % đi học của nữ.

Câu 6:
Phân tích mối quan hệ giữa “công bằng xã hội” và “bình đẳng xã hội”. Liên hệ thực tế
giáo dục ở Việt Nam
Trả lời:
Công bằng xã hội
• Là sự tiếp cận và xử lý đúng đắn ,
không thiên vị các mối quan hệ cơ

bản (nhu cầu & hưởng thụ, nghĩa vụ
& quyền lợi, chi phí & lợi ích, đóng
góp & phần thưởng) giữa các cá
nhân, tổ chức trong xã hội.
• Được cụ thể hóa thành các nguyên
tắc ứng xử và được thể chế hóa
thành các quy định pháp luật hoặc
thành quy tắc bất thành văn.
• Công bằng xã hội theo pháp luật là
phương thức, là cơ chế để thực hiện
bình đẳng xã hội thực chất.
Bình đẳng xã hội
• Là sự thừa nhận và thiết lập các điều
kiện, các cơ hội và các quyền lợi ngang
nhau cho sự tồn tại và phát triển của các
cá nhân, các nhóm xã hội.
• Nói tới hành vi ứng xử cụ thể giữa người
với người trên từng phương diện của
cuộc sống.
Công bằng xã hội trong giáo dục
- là tạo ra sự bình đẳng về cơ hội học
tập của mọi công dân không phân biệt
tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính v.v
được nhà nước quy định trong Điều 10,
Luật Giáo dục 2005
Bình đẳng xã hội trong giáo dục
• là sự bình đẳng giữa các cá nhân, các
nhóm người về điều kiện, cơ hội và
quyền lợi trong giáo dục
• được hiểu một cách cụ thể, rõ ràng là sự

bình đẳng giáo dục, bình đẳng về cơ hội
giáo dục, bình đẳng về cơ hội học tập,
binh đẳng về cơ hội đến trường
Công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là một quá trình xã hội:
- Công bằng xã hội là một trong nhựng nguyên tắc phát triển có ý nghĩa trọng đại của mỗi quốc
gia. Trong đó phải nhấn mạnh sự công bằng về quyền được học hành, quyền được hưởng thụ
một nền giáo dục hiện đại, quyền được tham gia phát triển giáo dục. Thực hiện công bằng
11
trong giáo dục trước hết là tạo cơ hội như nhau trong học tập là điều kiện quan trọng để thực
hiện quyền bình đẳng trong giáo dục. Khi nền công nghiệp dần nhường chỗ cho kinh tế tri thức
thì giáo dục không những là quyền của mọi công dân, mà còn mang sứ mạng vĩ đại là tạo mọi
cơ hội để con người được học tập suốt đời, nghĩa là phải làm cho quốc gia thành một xã hội
học tập.
- Khi tạo cơ hội giáo dục tính đến từng con người, không loại trừ một ai thì chính đó là sự công
bằng về giáo dục được giải quyết cơ bản . Sự công bằng về giáo dục là sự công bằng về cơ hội
để con người phát triển bền vững trên cơ sở họ thực hiện được quyền lợi và nghĩa vụ học tập
suốt đời . Thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội để từng bước tiến tới bình đẳng xã hội trong
giáo dục: bình dẳng về đầu vào giáo dục, bình đẳng về đầu ra của giáo dục.
- Giáo dục là phương tiện tạo ra bình đẳng bằng cách mang lại cơ hội công bằng cho mọi
người. Thông qua cơ hội công bằng, giáo dục kích thích nỗ lực vươn lên của mọi cá nhân, thúc
đẩy sự ưu tú, tài năng, sự sáng tạo, nhờ đó tạo ra tiến bộ và phát triển xã hội.
Ví dụ sự bình đẳng về cơ hội đến trường: trẻ em ở miền núi, miền xuôi khi đủ 6 tuổi đều có thể
đi học tiểu học. Công bằng về giáo dục luôn đòi hỏi sự công bằng về điều kiện học tập. Một
phường trong thành phố lớn có ít nhất một trường tiểu học; một xã vùng cao hiện nay cũng có
trường tiểu học. Nếu nhìn vào con số thống kê này, người ta có thể cho rằng, giữa miền núi với
vùng đô thị đã có sự công bằng về giáo dục tiểu học. Thực ra vẫn rất bất công bằng khi trường
tiểu học ở thành phố được xây dựng kiên cố, có đủ điện chiếu sáng trong từng lớp học, có bàn
ghế học sinh đóng đúng quy cách, có máy tính cho học sinh sử dụng ngay khi vào lớp 1, v.v
còn trường ở vùng cao được bao bọc bằng những tấm phên đan bằng tre hoặc nứa, ghế học sinh
ghép bằng những cây tre, mùa đông đến gió rừng làm cho lũ trẻ co ro trong lớp học, trời mưa

hoặc lúc chiều tà, lớp học tối om. Cũng là học tiểu học, nhưng chất lượng trường lớp như thế
làm sao mà bảo đảm việc học tập ở hai nơi là công bằng?
Câu 7
Phân tích thực trạng phân hóa xã hội và bình đẳng xã hội trong giáo dục từ tiểu học đến
đại học ở Việt Nam Việt Nam
Tiểu học phân hóa xã hội ít, tức là rất gần đến bình đẳng vì tỉ lệ đi học đúng tuổi của tiểu học là
gần 100%, chính xác là 95.5% năm 2009.
Nhưng càng lên bậc học cao thì phân hóa càng lớn tức là càng bất bình đẳng (lấy các tỉ lệ đi
học đúng tuổi để làm ví dụ).
Có thể sử dụng tỉ lệ đi học đúng tuổi của nhóm giàu và nhóm nghèo của từng cấp bậc học học
để chứng minh rằng càng lên bậc học cao càng phân hóa, càng bất bình đẳng
Phân hóa xã hội trong giáo dục là quá trình hình thành các nhóm xã hội khác nhau về
một hoặc 1 số đặc điểm, tính chất giáo dục.
Cơ chế và các yếu tố tác động tới sự phân hóa xã hội:
• Sự phân hóa xã hội diễn ra trong những điều kiện xã hội cụ thể:
Ví dụ: Ở thời kỳ những năm 90 của TK 20, chưa xuất hiện mạng internet và máy tính tại
Việt Nam, vì vậy mà ở các lớp học chủ yếu là học chay. Tuy nhiên, khi internet được truyền
vào VN thì tại các lớp học xuất hiện nhiều phương tiện công nghệ hiện đại: như máy chiếu,
máy tính…hỗ trợ cho công việc học tập.
- Sự phân hóa xã hội diễn ra một cách tất yếu theo quy luật. Quy luật tự nhiên và quy
12
luật xã hội.
Ví dụ: Theo quy luật tự nhiên, các cá nhân sinh ra, lớn lên và tham gia vào các nhóm xã
hội khác nhau tương ứng với đặc điểm dân tộc, tuổi, giới tính. Theo quy luật xã hội, trẻ
em 6 tuổi thì vào lớp 1, mỗi năm lên một lớp…
- Sự phân hóa xã hội chịu tác động của sự phân công lao động trong xã hội: Do làm
những công việc khác nhau, chuyên môn hóa khác nhau nên xuất hiện các nhóm nghề khác
nhau. Trình độ học vấn khác nhau cũng tạo ra những nhóm xã hội khác nhau như nhóm những
người lao động chân tay, nhóm những người lao động trí óc…
Bình đẳng giáo dục là sự bình đẳng giữa các cá nhân, các nhóm người về điều kiện, cơ

hội và quyền lợi trong giáo dục.
Thiết chế giáo dục hiện đại đòi học phải thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội để tạo
ra sự bình đẳng về cơ hội giáo dục. Khái niệm này được hiểu theo những nghĩa chính sau đây:
• Bình đẳng về cơ hội đầu vào giáo dục, ví dụ như bình đẳng về cơ hội đến trường,
bình đẳng về cơ hội đầu tư cho giáo dục. Cần tạo ra sự bình đẳng về cơ hội đến
trường cho mọi nhóm xã hội từ miền xuôi đến miền ngược, từ trẻ em bình thường
đến trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
• Bình đẳng về đầu ra của giáo dục, ví dục như bình đẳng về cơ hội sử dụng bằng cấp,
bình đẳng về cơ hội tìm việc làm phù hợp với trình độ đào tạo. Trên thực tế có sự
phân biệt đối xử sinh viên tốt nghiệp giữa trường đại học công lập với trường đại học
dân lập, giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chức. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để
các bằng đại học ngang giá trị như nhau giữa các loại trường công lập, bán công, dân
lập và tư thục.
• Công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là một quá trình xã hội: cần thực hiện nguyên
tắc công bằng xã hội để từng bước tiến tới bình đẳng xã hội trong giáo dục. Không
thể ngay lập tức đạt được bình đẳng xã hội cũng không thể ban phát, xin cho sự bình
đẳng xã hội mà phải thực hiện, phải hành động trên nền tảng công lý, pháp luật.
Luật Giáo dục (có hiệu lực 1/1/2006 và hiện còn đang sửa đổi), Luật Chăm sóc, bảo vệ và
giáo dục trẻ em (có hiệu lực 1/1/2005) mang lại quyền bình đẳng trong giáo dục cho toàn bộ
mọi người dù ở bất kì hoàn cảnh nào, lứa tuổi nào, giới tính nào, địa phương nào.
Tỉ lệ nhập học đúng tuổi (theo Nguồn Tổng cục thống kê. Giáo dục Việt Nam: Phân tích
các chỉ số chủ yếu.2011. Biểu 4.2) cho thấy Luật Giáo dục đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ sự
bình đẳng giới trong giáo dục. Tỉ lệ nữ giới nhập học đúng độ tuổi ở các cấp học luôn cao hơn
so với nam giới (mặc dù xu thế trọng nam khinh nữ trong xã hội hiện nay đang có nguy cơ
quay trở lại, tỉ lệ sinh nữ/nam là 100/105)
Đặc điểm Tiểu học THCS THPT Cao đẳng Đại học
Nam 95.5 81.4 53.1 6.0 9.1
Nữ 95.4 83.9 60.6 7.4 10.1
Khoảng cách bất bình đẳng trong giáo dục giữa thành thị và nông thôn, giữa nhóm giàu
và nhóm nghèo cũng được thu hẹp đặc biết ở những cấp học phổ thông.

Nhóm Tiểu học THCS THPT Cao đẳng Đại học
Giàu 97.5 89.6 64.6 8.6 10.6
13
Nghèo 95.3 78.7 44.2 1.8 1.0
Thành thị 97.22 88.8 68.4 12.9 23.3
Nông thôn 94.9 80.6 52.8 3.7 3.0
Số liệu (nghiêng) có chính xác không?
Luật Phổ cập giáo dục tiểu học ở VN ban hành đáp ứng nhu cầu học tập của đại đa số
các thành viên trong xã hội. Hiện nay khoảng trên 95,5% trẻ em qua tuổi tiểu học đã hoàn
thành CT tiểu học.
Mới đây nhất, Luật Người khuyết tật (được Quốc hội nước CHXHCN VN thông qua
ngày 17/6/2010 - Chương IV Điều 27, 28, 29, 30) cũng đem lại bình đẳng trong giáo dục cho
những con người không được lành lặn (về thể xác, trí tuệ, tinh thần). Họ được học tập với
phương thức giáo dục chuyên biệt, được hướng nghiệp để hòa nhập cộng đồng.
Một số thiết chế giáo dục mang tính pháp luật, một số quy tắc bất thành văn thể hiện
dưới hình thức những hệ giá trị, chuẩn mực truyền thống đề cao việc học tập, coi trọng người
học, tạo cho họ có ý thức hứng thú học tập, thực hiện nghiêm túc việc học, từ đó thúc đẩy sự
phát triển bình đẳng trong giáo dục ở các nhà trường.
Câu 8
Kể tên các hình thức Bất bình đẳng xã hội trong giáo dục. Phân tích một hình thức biểu
hiện rõ nhất tình trạng bất bình đẳng xã hội trong giáo dục Việt Nam hiện nay.
(Cần sử dụng các số liệu năm 2009 (đã nêu trong 2 bảng số liệu ở trên) để chỉ ra rằng phân
hóa xã hội hay bất bình đảng xã hội giữa nhóm giàu và nhóm nghèo ở bậc đại học là rõ nhất,
nghiêm trọng nhất)
Các hình thức bất bình đẳng xã hội trong giáo dục và phân tích
• Bất bình đẳng giới trong giáo dục: Tỉ lệ nhập học ở các nước nghèo đang tăng, nhưng
tỉ lệ nam đi học vẫn cao hơn nữ. Ví dụ theo kết quả điều tra chọn mẫu 1997-1998 tỉ lệ
dân số nữ từ 15 tuổi trở lên chưa đến trường là 13,4% nhiều gấp 2 lần tỉ lệ năm 5.2%
một trong
• Bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn: Tỷ lệ đi học của trẻ em ở thành thị luôn

cao hơn tỷ lệ đi học của trẻ em ở nông thôn

Tỷ lệ đi học đúng tuổi thành thị - nông thôn
2006 2008
Cấp học phổ thông đúng
tuổi
Thàn
h thị
Nông
thôn
Thàn
h thị
Nông
thôn
Tiểu học: 6-10 tuổi 89.7 89.1 89.2 88.1
Trung học cơ sở: 11-14 tuổi 82.9 77.8 82.6 77.1
Trung học phổ thông: 15-17
tuổi 66.5 50.6 66.4 50.6
• Bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo: Tỉ lệ đi học của trẻ em xuất thân từ
14
nhóm gia đình nghèo luôn thấp hơn tỉ lệ đi học của nhóm gia đình giàu.
Ví dụ:
1/ Vào năm 1998-1999 tỉ lệ đi học cao đẳng, đại học của thanh niên (18 đến 24) tuổi xuất thân
từ số 20% gia đình giàu nhất (28.13%) nhiều gấp 60 lần tỉ lệ của nhóm gia đình nghèo nhất
(0.46%) . ( Nguồn: Tổng cục thống kê . Điều tra mức sống cư dân Việt Nam 1997-1998. Hà
Nội. 2000. Tr. 61)
2/ Vào cuối những năm 1980, 92% sinh viên đại học ở Indonesia, 77% ở Venezuala xuất thân
từ nhóm 20% gia đình giàu nhất.(Nguồn: Ngân hàng thế giới .Những ưu tiên và chiến lược cho
giáo dục. Hà nội. 1997. Tr. 49)
• Bất bình đẳng giữa các dân tộc:

Ví dụ:
1/ Đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 13% tổng số dân Việt Nam, nhưng sinh viên người dân tộc
thiểu số chỉ chiếm khoảng 4 % trong tổng số hơn một triệu sinh viên đại hoc.
2/ Báo cáo của các Sở giáo dục của 5 tỉnh miền núi là Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên
và Sơn La cho biết tỉ lệ học sinh người dân tộc chiếm gần 54% trong tổng số học sinh THPT
của 5 tỉnh này, nhưng đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 80% tổng số dân ( Nguồn: Ban khoa
giáo trung ương. Công tác khoa giáo vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hà Nội. 2006. Tr. 38.).
Ngoài tỉ lệ đi học, bất bình đẳng xã hội trong giáo dục nhà trường còn thể hiện:
- Đầu tư, quan niệm của xã hội ( vùng, miền ).
- Chất lượng đội ngũ giáo viên.
- Các hoạt động ngoại khóa, TDTT…
Phân tích một hình thức biểu hiện rõ nhất tình trạng bất bình đẳng xã hội trong giáo dục
Việt Nam hiện nay.
Lưu ý: đó là bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo về cơ hội/tỉ lệ đi học
đúng tuổi bậc đại học ở Việt Nam.
Quan niệm phân biệt “trò giỏi – trò dốt”, “thông minh – tối dạ” đã trở thành một nếp nghĩ hằn
sâu trong tư duy mọi người, từ các nhà giáo, nhà quản lý giáo dục cho đến phụ huynh học sinh.
Từ nếp nghĩ này mới sinh ra những mô hình như trường chuyên, lớp chọn, lớp “chất
lượng cao” …Những học sinh lớp chọn, trường chuyên, lớp chất lượng cao được học chương
trình nâng cao với những nhà giáo giỏi nhất, trong điều kiện cơ sở vật chất tốt hơn nhiều so với
các trường, lớp “đại trà”. Vì vậy, các bậc phụ huynh thường tìm mọi cách (kể cả “chạy chọt”)
để con em mình được vào trường chuyên, lớp chọn.
Ngay trong một lớp “đại trà”, các giáo viên cũng có sự phân biệt, đánh giá học sinh theo
mức độ “giỏi – dốt”. Không ít giáo viên chỉ chú ý đến những học sinh giỏi, chú trọng kèm cặp,
bồi dưỡng những học sinh này để đi thi học sinh giỏi, thi đại học…mà ít quan tâm đến những
học sinh mà họ cho là “dốt”.
Những giáo viên này nghĩ rằng những học sinh học khá trở lên mới học hành, thi cử đỗ
đạt, thành đạt, lập nghiệp được. Còn những học sinh “dốt” thì học cũng chẳng “nên cơm nên
cháo” gì, lo kiếm xong tấm bằng rồi đi học nghề, hoặc đi làm lao động phổ thông. Khâu phụ
đạo, kèm cặp học sinh yếu kém hầu như ít được quan tâm, chỉ nêu ra cho có trong các bản báo

cáo của các trường.
Vì vậy, đối tượng học sinh “dốt” bị bỏ rơi, ngày càng tụt hậu và trở nên dốt thật, không
thể theo kịp bạn bè. Nhiều em chán nản, bỏ học đi làm hoặc đi lấy chồng, lấy vợ. Hầu hết
15
trường hợp học sinh bỏ học đều rơi vào hoàn cảnh khó khăn, học lực quá yếu.
Câu 9. Chức năng sàng lọc của giáo dục có ảnh hưởng như thế nào đến phân hóa và bình
đẳng xã hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
1.Chức năng sàng lọc của giáo dục
Chức năng đánh giá, phân loại trình độ học vấn của học sinh, từ đó tuyển chọn học sinh
vào những trường, những lớp khác nhau về năng lực học tập và trình độ phát triển của cá nhân,
được gọi là chức năng sàng lọc của giáo dục.
2. Chức năng sàng lọc của giáo dục có ảnh hưởng như thế nào đến phân hóa và bình đẳng
xã hội trong giáo dục
a. Quan điểm thứ nhất: Chức năng sàng lọc của giáo dục đảm bảo công bằng và bình đẳng
xã hội.
- Nhờ cơ chế tuyển sinh thông qua việc kiểm tra, thi các trường (phổ thông, cao đẳng,
đại học…) sẽ tuyển chọn và phân loại được trình độ học sinh, từ đó có thể xếp các em vào các
lớp có phương pháp dạy học phù hợp, giúp cho các em có thể phát huy hết năng lực của bản
thân.
- Cũng nhờ có cơ chế thi tuyển sinh mà các em học sinh năng lực cao, đạt điểm cao hơn
có thể đỗ vào các trường đại học danh tiếng, các em học sinh năng lực thấp, đạt điểm thấp chỉ
có thể đỗ và theo học ở các trường đại học bình thường.
Với cơ chế thi cử trên, nếu làm khách quan, chính xác, thì việc sắp xếp các em học sinh
vào các lớp học khác nhau trong một trường hoặc vào các trường khác nhau, không phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế và địa vị xã hội của gia đình các em, từ đó đảm bảo công bằng, bình đẳng
xã hội trong giáo dục.
2.Quan điểm thứ 2: Giáo dục là công cụ sàng lọc của xã hội nên nó góp phần củng cố, duy
trì cấu trúc phân tầng bất bình đẳng trong xã hội.
- Thông qua thi tuyển sinh, các trường phân loại trình độ học sinh và thường xếp các em
có kết quả cao vào các lớp có nội dung và phương pháp dạy học tốt hơn so với các em học sinh

còn lại, việc làm này tạo nên sự bất bình đẳng xã hội ngay trong quá trình các em học tại
trường; sự sàng lọc, phân biệt đối xử này theo đuổi suốt quá trình giáo dục từ tiểu học lên đến
đại học, sau đại học và nó dẫn tới sự phân tầng bất bình đẳng xã hội về nghề nghiệp, thu nhập,
vị thế xã hội của học sinh sau khi ra trường.
- Với chức năng sàng lọc của giáo dục, tạo ra các trường chất lượng cao, các lớp chất
lượng cao trong các nhà trường, học sinh trong các trường này, các lớp này được hết sức quan
tâm và được tạo điều kiện học tập tốt nhất có thể; do đó nhiều gia đình giàu có hoặc có địa vị
xã hội đã tìm mọi cách cho con cái họ được vào học trong các trường này, lớp này, gây nên các
tiêu cực và sự bất bình đẳng xã hội trong giáo dục.
3. Liên hệ thực tế ở Việt Nam ( vấn đề Phân ban, Phân luồng trong giáo dục của nước ta
hiện nay).
16
- Nước ta trong giai đoạn vừa qua đã tiến hành thí điểm và thực hiện mô hình Phân ban
trung học phổ thông:
+ Năm 1992 đến 1998 tiến hành thí điểm Phân ban THPT với 3 ban: Ban Khoa học tự
nhiên (ban A), Ban Khoa học tự nhiên – kỹ thuật (ban B), Ban Khoa học xã hội (ban C) (Năm
1998 Thủ Tướng CP ra chỉ số 30 thị dừng CTTĐPB, quay lại CTCCGD)
+ Năm 2003 – 2004 tiến hành thí điểm Phân ban THPT mới với 2 ban: KHTN(ban A),
KHXH (ban C). Năm 2005 Bộ GD&ĐT đề nghị điều chỉnh mô hình PB, bổ sung thêm ban cơ
bản.
+ Từ năm 2006 đến nay tiếp tục thực hiện mô hình THPT Phân ban với 3 ban: ban cơ
bản, ban khoa học tự nhiên, ban khoa học xã hội và nhân văn (thực tế hiện nay đa số học sinh
chọn học ban cơ bản).
- Sự phân ban, phân luồng trong giáo dục sẽ không tạo ra sự bất bình đẳng xã hội nếu
như nền giáo dục đại học đã được phổ cập, ai có nhu cầu được đi học đại học đều được đáp
ứng và có nhiều hình thức học đại học khác nhau để mọi người lựa chọn phù hợp với điều kiện
từng người, đồng thời việc tuyển chọn nhân lực lao động trong xã hội không chỉ dựa trên bằng
cấp mà còn căn cứ chủ yếu vào kết quả khảo sát năng lực nghề nghiệp thực tế của từng người.
Khi đó sự phân ban, phân luồng trong giáo dục sẽ giúp cho các cá nhân lựa chọn được những
môn học, ngành học phù hợp với năng lực – sở trường của bản thân, từ đó phát huy hết được

năng lực bản thân, đồng thời có nhiều cơ hội thành công hơn trong nghề nghiệp sau này.
- Tuy nhiên với đặc điểm xã hội nước ta hiện nay với hệ thống giáo dục có tính chất tinh
hoa (người giỏi hơn mới được đi học theo cơ chế tuyển sinh đại học) và tuyển chọn nhân lực
chủ yếu dựa vào bằng cấp thì phân ban, phân luồng trong giáo dục còn gây nên sự bất bình
đẳng xã hội. Thực tế ở các trường THPT hiện nay cho thấy học sinh học ban cơ bản có lợi thế
hơn hẳn các ban còn lại vì thứ nhất chương trình học nhẹ hơn, thứ hai học sinh có nhiều cơ hội
hơn khi chọn ngành nghề để học, chọn trường đại học để thi. Học sinh học ban khoa học tự
nhiên phải học chương trình nặng nề hơn, tuy nhiên 6 cơ hội chọn ngành nghề, chọn trường thi
không hơn gì đối với học sinh ban cơ bản. Học sinh ban KHXH&NV có ít cơ hội chọn ngành
nghề hơn, chọn trường đại học để thi hơn hai ban còn lại, nên học sinh học ban này cũng thiệt
thòi hơn. Các trường THPT hiện nay hầu hết học sinh đăng ký học ban cơ bản; nếu các trường
buộc phải có đủ các lớp học cho đủ các ban thì ban KHXH&NV thường chỉ chọn được các học
sinh kém nhất trong tổng số các em học sinh dự tuyển vào trường và luôn là những lớp, những
học sinh yếu nhất trường trong quá trình học tập.
Câu 10.
Thiết chế kinh tế có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng
xã hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam?
Trả lời:
- Khái niệm: Kinh tế là thiết chế xã hội liên quan tới sự quản lý sản xuất và phân phối sản
phẩm.
- Chức năng của thiết chế kinh tế thể hiện trong việc tổ chức sản xuất và kiểm soát, điều hoà
các mối quan hệ sau đây:
+ Quan hệ với tư liệu sản xuất
+ Quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất
+ Quan hệ trong phân phối lợi ích
- Quan hệ:
17
+ Thúc đẩy:
- Xóa đói giảm nghèo tạo cơ hội cho giáo dục
- Chính sách cho tổ chức, cá nhân phát triển, đầu tư vào GD

- Nhà nước đầu tư vốn cho GD
- Doanh nghiệp đầu tư đào tạo nghề cho chính doanh nghiệp
+ Kìm hãm:
- Người nghèo không đủ chi cho các chi phí học tập
- Người thu nhập khá muốn con học trường công để đỡ tốm kém
- Người giàu muốn con đi du học.
- Các trường chỉ đầu tư đào tạo các ngành có lãi cao.
- Vốn đầu tư dàn trải, không đạt được mục tiêu.
* Liên hệ thực tế VN:
- Doanh nghiệp bỏ tiền đầu tư cho những chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn với cán bộ
và nhân viên của mình: Nhiều doanh nghiệp đầu tư tiền, liên kết với các trường đại học đào tạo
nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên của mình, tuy nhiên sự đầu tư này mới chỉ dừng lại ở việc thuê
các giảng viên, chuyên gia ở các trường về doanh nghiệp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
chứ chưa có sự liên kết sâu sắc với các trường.
- Sự phát triển nền kinh tế dẫn đến nhiều ngành mới ra đời, dần trở nên hot, các trường đua
nhau đào tạo những ngành đó, mở ra nhiều cơ hội học tập và việc làm hơn cho mọi người: ví
dụ vài năm trước các trường đua nhau đào tạo ngành công nghệ thông tin rồi kế toán… và xu
hướng hiện nay là các ngành về tài nguyên và môi trường.
Câu 11.
Thiết chế văn hoá có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng
xã hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam?
Trả lời:
Thiết chế văn hóa là gì?
Thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong ngành VH Việt nam từ những năm bẩy mươi TK 20.
TCVH là chỉnh thể Vh hội tụ đầy đủ các yếu tố: cơ sở vc,bộ máy tổ chức, nhân sự, qui chế hoạt
động, nguồn kinh phí
Từ lâu nước ta đã có những thiết chế văn hóa cơ sở để xây dựng đời sống văn hóa mới như:
Nhà văn hóa, thư viện, nhà truyền thống, bảo tàng, công viên văn hóa Những thiết chế đó đã
trở thành nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của nhân dân về hưởng thụ, sáng
tạo và bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam. Thực tiễn đã khẳng định hệ thống thiết

chế văn hóa cơ sở không thể thiếu trong đời sống văn hóa của nhân dân, giữ vai trò nòng cốt
trong tổ chức các hoạt động tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội của đất nước,
khẳng định vai trò chỉ đạo, hướng dẫn các hoạt động văn hóa - văn nghệ ở cơ sở và là bộ mặt
văn hóa của địa phương. Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng và phát triển
hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở.
* ảnh hưởng của thiết chế VH trong thúc đẩy và kìm hãm bình đẳng XH trong GD.
1. Thúc đẩy bình đẳng XH
- Thực chất GD là quá trình lĩnh hội, bảo tồn duy trì và phát triển VH từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Mục tiêu nội dung phương pháp Gd đều là văn hóa và phải có văn hóa. học
sinh được GD để tiếp thu kiến thức và kỹ năng ứng sử VH,phương pháp GD cũng phải
18
có VH vì vậy việc đầu tư nguồn nhân lực ( nhân sự) cần có sự đặc biệt ưu tiên, đồng bộ
nhằm trang bị cho các nhà giáo dục bao gồm CBQL, giáo viên một nền tảng vững chắc
các hệ thống kiến thức và văn hóa mới làm tốt công tác GD.Việc vận dụng sáng tạo các
kiến thức vào thực tiễn ( thực hiện chức năng sàng lọc của GD) nhằm phát huy mặt
mạnh, mặt tích cực của nó hạn chế tối đa tình trạng bất bình đẳng XH trong Gd.
• - Giải phóng phụ nữ là một sự nghiệp lớn lao và lâu dài của toàn xã hội. Vì vậy nó là kết
quả tổng thể của nhiều yếu tố mới có thể thành công được. Trong thời đại ngày nay nhân
loại không thể bỏ qua 50% tiềm lực sáng tạo của mình. Vì vậy cần giúp cho phụ nữ
những phương tiện hành động không chỉ về kinh tế mà ở các lĩnh vực khác của đời sống
trí tuệ và khoa học, nơi mà lâu nay tài năng và tầm nhìn của họ luôn bị che khuất hoặc
không được công nhận. Để đảm bảo thành công cho chiến lược phát triển, trước hết cần
đầu tư vào giáo dục và y tế cho phụ nữ, đồng thời đảm bảo sự tham gia của họ về mọi
mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
• Trước khi có được những nội dung giáo dục thích hợp cho phụ nữ, cũng cần nhắc tới
bốn cột trụ của giáo dục đó là: học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để cùng
chung sống. Chỉ cần vận dụng tốt bốn trụ cột này, cho mọi nội dung giáo dục trong cả
quá trình giáo dục đều có thể đạt chất lượng khả quan, tạo cơ hội cho công tác giáo dục
phụ nữ nhằm nâng cao địa vị và cơ hội phát triển của họ.
• - Cần vận dụng linh hoạt các chính sách hỗ trợ giáo dục cho học sinh, sinh viên đặc biệt

là sinh viên nghèo học giỏi giúp họ phát triển năng lực cá nhân, tạo cơ hội về việc làm
để họ có thể cống hiến cho XH.Thực hiện tốt công tác GD giới và bình đẳng giới trong
XH.
• - Áp dụng qui luật kinh tế thị trường vào việc giải quyết những vấn đề chi phí và lợi ích
giáo dục, tùy theo các bậc giáo dục mà nhà trường cung cấp các loại hình giáo dục: dịch
vụ học tập, dịch vụ nghiên cứu, dịch vụ phát triển trí tuệ phù hợp với các nhóm XH và
đặc điểm kinh tế, VH vùng miền.
• Để triển khai tốt việc xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở cần có sự
quan tâm sâu sắc của lãnh đạo các cấp ở địa phương, có thể coi đó là yếu tố quyết định.
Hiện nay còn một số địa phương chưa nghiêm túc triển khai tổ chức thực hiện Quy
hoạch thiết chế văn hóa cơ sở, chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của văn hóa, mối
quan hệ gắn bó giữa kinh tế, văn hóa và chính trị, chưa coi phát triển văn hóa là trách
nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội. Sự quan tâm ấy phải được thể hiện bằng
chương trình hành động cụ thể như quy hoạch đất đai, đầu tư kinh phí để xây dựng thiết
chế văn hóa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa ra giải pháp về nguồn kinh phí xây
dựng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở trước hết sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư
của Nhà nước thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia. Bên cạnh đó, thực hiện tốt
công tác xã hội hóa văn hóa, thực hiện cơ chế "Nhà nước và nhân dân cùng làm" đối với
thiết chế văn hóa,
• Tất cả những giải pháp nêu trên đều nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của thiết chế văn
hóa. Đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở có trình độ chuyên môn nghiệp vụ lại năng động,
sáng tạo chắc chắn sẽ sử dụng tốt cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động thu hút đông đảo
mọi tầng lớp nhân dân sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đưa đời sống văn hóa ở các địa
phương không ngừng phát triển.
19
2. Kìm hãm bình đẳng Xh trong GD:
Thiết chế văn hóa có thể làm kìm hãm bình đẳng XH trong GD
- Bất bình đẳng giới trong Gd.
- Bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn
- Bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo

- Bất bình đẳng giữa các dân tộc
* Nguyên nhân của bất bình đẳng XH trong GD
- Chủ yếu do thói quen " Trọng nam khinh nữ".
- Do điều kiện kinh tế
- Do nhận thức không đồng đều giữa các nhóm trong Xh.

Câu 12.
Thiết chế pháp luật có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng xã
hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
Trả lời:
*) Thiết chế giáo dục là cách thức tổ chức các hành vi, hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu
học tập của xã hội.
*) Thiết chế giáo dục và thiết chế pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ.
Mối quan hệ này thể hiện trước hết ở nội dung và mục đích giáo dục. Học sinh cần được
giáo dục pháp luật để hành động theo quy luật. Nhà trường dạy học sinh các quy luật của giới
tự nhiên do các nhà khoa học phát hiện được đưa trong các môn học khoa học tự nhiên. Đồng
thời nhà trường cũng dạy học sinh một loại quy luật do xã hội tạo ra. Đó là luật pháp do con
người tạo ra. Giáo dục có mục đích đào tạo ra những con người có kiến thức về pháp luật, có
khả năng sống theo hiến pháp và pháp luật của một xã hội cụ thể. Bên cạnh đó toàn bộ hoạt
động của hệ thống giáo dục phải tuân theo hiến pháp và pháp luật.
*) Thiết chế pháp luật thúc đẩy sự bình đẳng trong giáo dục:
Nhà trường là nơi dạy học sinh biết về pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật và thực hành
pháp luật. Nhờ có thiết chế pháp luật mà các hiện tượng gây bất bình đẳng trong giáo dục ở các
nhà trường được hạn chế. Đó là các hiện tượng tiêu cực, gian lận, dối trá trong thi cử đang bị
xã hội lên án mạnh mẽ đã và đang giảm dần.
Luật Giáo dục (có hiệu lực 1/1/2006 và hiện còn đang sửa đổi), Luật Chăm sóc, bảo vệ và
giáo dục trẻ em (có hiệu lực 1/1/2005) mang lại quyền bình đẳng trong giáo dục cho toàn bộ
mọi người dù ở bất kì hoàn cảnh nào, lứa tuổi nào, giới tính nào, địa phương nào.
Tỉ lệ nhập học đúng tuổi (theo Nguồn Tổng cục thống kê. Giáo dục Việt Nam: Phân tích
các chỉ số chủ yếu.2011. Biểu 4.2) cho thấy Luật Giáo dục đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ sự

bình đẳng giới trong giáo dục. Tỉ lệ nữ giới nhập học đúng độ tuổi ở các cấp học luôn cao hơn
so với nam giới (mặc dù xu thế trọng nam khinh nữ trong xã hội hiện nay đang có nguy cơ
quay trở lại, tỉ lệ sinh nữ/nam là 100/105)
Đặc điểm Tiểu học THCS THPT Cao đẳng Đại học
Nam 95.5 81.4 53.1 6.0 9.1
Nữ 95.4 83.9 60.6 7.4 10.1
Khoảng cách bất bình đẳng trong giáo dục giữa thành thị và nông thôn, giữa nhóm giàu
và nhóm nghèo cũng được thu hẹp đặc biết ở những cấp học phổ thông.
20
Nhóm Tiểu học THCS THPT Cao đẳng Đại học
Giàu 97.5 89.6 64.6 8.6 10.6
Nghèo 95.3 78.7 44.2 1.8 1.0
Thành thị 97.22 88.8 68.4 12.9 23.3
Nông thôn 94.9 80.6 52.8 3.7 3.0
Luật Phổ cập giáo dục tiểu học ở VN ban hành đáp ứng nhu cầu học tập của đại đa số
các thành viên trong xã hội. Hiện nay khoảng trên 95,5% trẻ em qua tuổi tiểu học đã hoàn
thành CT tiểu học.
Mới đây nhất, Luật Người khuyết tật (được Quốc hội nước CHXHCN VN thông qua
ngày 17/6/2010 - Chương IV Điều 27, 28, 29, 30) cũng đem lại bình đẳng trong giáo dục cho
những con người không được lành lặn (về thể xác, trí tuệ, tinh thần). Họ được học tập với
phương thức giáo dục chuyên biệt, được hướng nghiệp để hòa nhập cộng đồng.
Một số thiết chế giáo dục mang tính pháp luật, một số quy tắc bất thành văn thể hiện
dưới hình thức những hệ giá trị, chuẩn mực truyền thống đề cao việc học tập, coi trọng người
học, tạo cho họ có ý thức hứng thú học tập, thực hiện nghiêm túc việc học, từ đó thúc đẩy sự
phát triển bình đẳng trong giáo dục ở các nhà trường.
*) Thiết chế pháp luật kìm hãm sự bình đẳng trong giáo dục:
Các quy định về chương trình, sách giáo khoa là vẫn đề căn bản kìm hãm sự bình đẳng
trong giáo dục. Các gia đình nghèo cho con đi học đã khó, lo được SGK là cả một vấn đề vì
SGK đắt quá, mỗi năm phải mua mới => Chưa bình đẳng về cơ hội học tập
Các nước văn minh, giàu có cũng chỉ cho HS thuê, mượn SGK chứ không bắt buộc phải

mua như nước ta. Như thế không thể khuyến khích HS nghèo đi học. Bên cạnh đó sách liên tục
sửa chữa, thay đổi; trong một gia đình, sách của anh học rồi không chuyển lại cho em dùng
được.
Ngoài ra còn bao nhiêu khoản chi phái tốn kém khác cho người học mà nhóm nghèo
không gánh nổi! Với chính sách cử tuyển thi cử, đánh giá, tuyển sinh như hiện nay chưa thể bù
được thiệt thòi cho người nghèo và dân cư các vùng xa, vùng cao.
Phần lớn những tiêu cực trong GD thật ra đều phát sinh từ những bất cập trong chính
sách đầu tiên quan trọng nhất là chính sách tiền lương và sử dụng, bồi dưỡng. Sở dĩ nạn dạy
thêm, học thêm phát triển tràn lan là do đã có thời lương thầy giáo quá thấp, trong khi đó nhiều
chủ trương sai lầm về thi cử (như thi theo bộ đề thi) thúc đẩy nhu cầu học thêm, luyện thi để đi
thi, nhân đó nhiều thầy giáo cấp III phổ thông, đại học mở lớp dạy thêm, luyện thi, rồi từ cấp
THPT, phong trào lan xuống cấp THCS, cấp tiểu học.
Ở đại học thì luyện thi đại học, rồi dạy liên kết, dạy “sô” cứ thế những nguồn thu nhập
ngoài lương ngày càng tăng, vượt xa lương gốc nhiều lần. Đó là quá trình các thầy giáo, do
tình thế bắt buộc, phải tự tạo ra một phương thức thích nghi để giữ vững và tiếp tục phát triển
GD.
Câu 14.
Dân số có ảnh hưởng như thế nào dến tình trạng phân hóa và bình đẳng xã hội trong giáo
dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
Bình đẳng xã hội trong giáo dục:
Đó là sự phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, nguồn gốc gia đình, địa vị xã
hội, địa vị kinh tế có thể gây ra bất bình đẳng xã hội về giáo dục.
“Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn
21
giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, đại vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng
về cơ hội học tập.
Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học
hành.” (Luật giáo dục 2005)
Bình đẳng giáo dục: là sự bình đẳng giữa các cá nhân, các nhóm người về điều kiện, cơ
hội và quyền lợi trong giáo dục.

Việt nam là một quốc gia có quy mô dân số lớn, tốc độ phát triển dân số ngày càng nhanh.
* Về Cơ cấu dân số ở nước ta không hợp lí cả về giới tính, nhóm tuổi, giữa thành thị và
nông thôn. Nhu cầu học tập của nhóm dân cư cao nên mất cân bằng cung cầu ở bậc giáo dục
cao.
+ Về Cơ cấu giới tính : Cân bằng, ổn định, là điều kiện thuận lợi có các biện pháp nâng
cao bình đẳng giới trong giáo dục. Như nâng cao tỷ lệ nữ tiếp tục học THPT, các trường CĐ,
ĐH, GDCN
* Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi cũng có những khác biệt lớn. Cơ cấu dân số trẻ, viên nhu
cầu giáo dục nước ta là lớn, gây tình trạng lớp có quá nhiều học sinh và thiếu giáo viên.Do
mức sinh cao nên cơ cấu dân số trẻ, tháp tuổi dân số có đáy mở rộng. Do đó quy mô của nền
giáo dục tương ứng với dân số này có số học sinh cấp 1 lớn hơn cấp 2, lớn hơn cấp 3.
Phân bố địa lý dân số : Phân bố không đồng đều giữa thành thị và nông thôn. Thành thị
và các vùng đông dân kinh tế thường phát triển hơn, nên trẻ em có nhiều cơ hội được đến
trường hơn những vùng kém phát triển dân cư thưa thớt. Ngoài ra do điều kiện kinh tế chưa có
nên nước ta chưa quan tâm đúng mức đến sự phát triển giáo dục ở các vùng hẻo lánh và nhiều
giáo viên không muốn làm việc ở vùng này. Mật độ dân số ở các khu vực thành thị quá lớn nên
ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng giáo dục. Mật độ dân số quá lớn, số trẻ em đến tuổi đi
học cao gây quá tải đến hệ thống giáo dục.
* Cơ cấu dân sô nhiều thành phần dân tộc
Có 54 dân tộc khác nhau (Kinh : 87%, còn lai : 13%). Bất bình đẳng về cơ hội giáo dục giữa
các dân tộc : Làm sao thu hút được học sinh người dân tộc thiểu số vào các trường phổ thông
mà vẫ đảm bảo trình độ và chất lượng dạy học ?
* Sinh và Tử : Là 2 quá trình trái ngược nhau nhưng liên quan mật thiết tới giáo dục
Trình độ học vấn của cha mẹ thấp , sinh con nhiều , Trình độ học vấn cao, sinh con ít,
chăm sóc nuôi dạy con tốt hơn
* Di dân : Sự di chuyển của người dân từ chỗ này sang chỗ khác nên dân số ở các vùng
miền luôn biến động phức tạp
* Quá trình biến đổi xã hội đặc trưng bởi sự tích tụ dân cư,phát triển công nghiệp. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là yếu tố chủ yếu.
- Thuận lợi : nhiều người được tham gia học tập hơn tạo điều kiện cho XH phát triển.

- Khó khăn : Gây ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông, dễ tiếp cận với thói hư tật xấu
của XH
* VN có bề dầy lịch sử về truyền thống hiếu học, ai cũng có nhu cầu đi học
- Thuận lợi : Là tiềm năng văn hóa để tiến vào nền kinh tế tri thức, xây dựng xã hội học
tập
- Không thuận lợi : TTHH bị hạn chế bởi chỉ tiêu tuyển sinh ít, có thể gây ra những hiện
tượng tiêu cực .Gây bất bình đẳng trong GD.
Dân số Việt Nam có thể thúc đẩy và kìm hãm sự bình đẳng xã hội trong giáo dục ở Việt
22
Nam
* Thúc đẩy : Dân số vừa là lực lượng sản xuất vừa là lực lượng tiêu dùng. Vì vậy quy mô,
cơ cấu và sự gia tăng của dân số liên quan mật thiết đến nền kinh tế và tới toàn bộ sự phát triển
của mỗi quốc gia. Quy mô dân số lớn , nên lực lượng lao động rồi dào, Việt Nam vừa có khả
năng phát triển toàn diện các ngành kinh tế vừa có thể chuyên môn hoá lao động sâu sắc tạo
điều kiện nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy xã hội phát triển. Lực lượng lao động nước ta
vào loại trẻ nên tạo ra tính năng động cao trong hoạt động kinh tế .
* Kìm hãm sự bình đẳng xã hội trong giáo dục: Sự thay đổi về quy mô và cơ cấu dân số
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển về số lượng và chất lượng đến hệ thống giáo dục. Tốc độ tăng dân số cao sẽ làm cho số
học sinh trong độ tuổi đến trường tăng từ đó ảnh hưởng đến quy mô giáo dục, đầu tư cho giáo
dục, chất lượng giáo dục. Ở nước ta do ngân sách chưa lớn, nên đầu tư cho ngành giáo dục
chưa cao, cơ sở vật chất hạ tầng còn thiếu thốn, nhiều nơi còn chưa xây dựng được trường lớp
khang trang, bàn ghế sách vở đồ dùng còn thiếu……
Câu 15. Hôn nhân và gia đình có ảnh hưởng như thế nào dến tình trạng phân hóa và bình
đẳng xã hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
Để trả lời câu hỏi này trước hết cần làm rõ 2 khái niệm: bình đảng trong giáo dục và giáo
dục gia đình.
Bình đẳng xã hội trong giáo dục:
Sự phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, địa vị
kinh tế có thể gây ra bất bỉnh đảng xã hội về giáo dục.

“Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo,
tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, đại vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ
hội học tập.
Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành.”
(Luật giáo dục 2005)
• Bình đẳng giáo dục: là sự bình đẳng giữa các cá nhân, các nhóm người về điều kiện, cơ hội
và quyền lợi trong giáo dục.
Giáo dục gia đình:
Gia đình là một tế bào của xã hội, là một cấu trúc xã hội dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng hoặc những quan hệ thân thiết khác giữa các cá nhân để cùng chung
sống.
Gia đình có chức năng giáo dục. Gia đình vừa là môi trường xã hội hóa con người, vừa là thiết
chế trực tiếp thỏa mãn nhu cầu học tập của con người. Khi giáo dục ngày càng trở nên chuyên
môn hóa với vai trò chuyên biệt ngày càng cao của nhà trường , giáo dục gia đình vẫn giữ vai
trò quan trọng, là “nơi chứa đựng và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, cái nôi giáo dục
nhân cách con người, tính người, tính người, giáo dục hành vi ứng xử văn hóa”.
Mỗi đứa trẻ được hưởng 3 luồng giáo dục: gia đình – nhà trường – xã hội.
Giáo dục gia đình có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự bình đẳng xã hội trong giáo dục:
* sự thúc đẩy:
23
• Cấu trúc gia đình ảnh hưởng tới giáo dục gia đình và ảnh hưởng tới bình đẳng xã hội trong
giáo dục: Gia đình đơn thân (chỉ có mẹ hoặc bố), gia đình hạt nhân (chỉ có hai thế hệ chung
sống) trong khi cha, mẹ bận rộn với công việc (vì đang ở độ tuổi lao động), họ gửi con đến
trường học, vậy là cơ hội được hưởng thụ giáo dục gia đình của trẻ em ở gia đình hạt nhân ít
hơn gia đình mở rộng ( có từ 3 thế hệ trở lên cùng chung sống)
• Địa vị xã hội và kinh tế gia đình ảnh hưởng đến giáo dục gia đình, qua đó ảnh hưởng đến
bình đẳng xã hội trong giáo dục: Các gia đình giàu có có điều kiện giáo dục con em tốt hơn, có
điều kiện đầu tư cho giáo dục nhiều hơn còn các gia đình nghèo thì việc quan tâm đến giáo dục
con cái ít hơn.
Bằng chứng: Ngôn ngữ, giao tiếp là một phương tiện thực hiện hoạt động truyền đạt kinh

nghiệm, cũng tức là cung cấp sự giáo dục. Nghiên cứu của Herbert J Walberg:
Gia đình khá giả Gia đình trung
lưu
Gia đình nghèo
Cha mẹ nói với con cái 2000 từ/ giờ 500 từ/ giờ
Trẻ được 4 tuổi: gặp 45 triệu từ 26 triệu từ 13 triệu từ
Tiếp cận các câu trả lời tích cực 750.000
lần
Ít hơn 6 lần
* sự kìm hãm:
Nhận thức của gia đình có thể kìm hãm sự bất bình đẳng xã hội trong giáo dục. Có những gia
đình dù là gia đình hạt nhân hoặc dù là gia đình nghèo về kinh tế, thấp về địa vị xã hội nhưng
nếu được thưc tỉnh nhận thức về vai trò của giáo dục đối với tương lai của con cái họ thì họ nỗ
lực bằng mọi cách quan tâm về tinh thần và đầu tư thời gian, vật chất cho con cái được học tập
với điều kiện tốt nhất mà họ có thể có được. Điều này làm tăng đáng kể lượng con em gia đình
nghèo đi học và theo học đến các cấp học cao. Từ đó cho thấy vai trò của truyền thông về giáo
dục là hết sức quan trọng, góp phần làm thay đổi nhận thức của gia đình về giáo dục và cơ hội
thay đổi cuộc sống nhờ giáo dục, từ đó mà làm giảm bất bình đẳng về cơ hội học tập cho trẻ
em nghèo, trẻ em trong các gia đình độc thân.
Câu 16
Xã hội hóa cá nhân có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và bình đẳng xã
hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
Xã hội hóa cá nhân là quá trình biến cá thể người thành cá nhân và thành nhân cách. Với nội
dung giáo dục và xã hội hóa thì xã hội hóa cá nhân bao gồm cả giáo dục và các quá trình học
tập.
Xã hội hóa cá nhân thuộc cấp độ vi mô vi mô là gia đình và vĩ mô là toàn xã hội. Theo định
nghĩa đã nêu xã hội hóa là quá trình biến đổi cá thể người thành một cá nhân và thành một
nhân cách. Xã hội hóa là quá trình chuẩn bị cho mỗi một nguwoif trở thành một thành một
thành viên của xã hội bằng cách trang bị cho họ những tri thức, những năng lực và những
phẩm chất nhất định. Quá trình xã hội hóa diễn ra nhiều giai đoạn trong đó giáo dục chỉ là một

giai đoạn cơ bản và quan trọng trong nhiều giai đoạn. Dựa vào loại hoạt động chính mà cá
nhân đạt được, có thể phân biệt các giai đoạn chính của quá tình xhh như sau:
- Giai đoạn trước khi đến trường: chủ yếu diễn ra từ lúc lọt lòng cho đến lúc trẻ đi nhà trẻ,
24
mẫu giáo. Với sự nuôi dưỡng chăm socs và dạy dỗ chủ yếu từ người mẹ, người cha và
các thành viên khác trong gia đình.
- Giai đoạn đi học: Giai đoạn xã hội hóa này chủ yếu diễn ra trong nhà trường, giáo dục
nhà trường đóng vai trò chủ yếu đối với xã hội hóa các năng lực, phẩm chất của thế hệ
trẻ ở lứa tuổi đi học.
- Cả hai giai đoạn trên là giai đoạn chuẩn bị lao động
- Giai đoạn lao động: kéo dài từ tuổi lao động 15-55 đối với nữ và 15- 60 tuổi đối với
nam. XHH trong giai đoạnnày chủ yếu diễn ra ở nơi làm việc.
- Giai đoạn sau lao động: từ lúc cá nhân nghỉ hưu và kéo dài đến lúc nào tuổi thọ cho
phép. XHH ở giai đoạn này
Gia đình, bố mẹ quan tâm đầu tư cho con đi học đến nơi đến chốn thì sẽ giảm bớt tình trạng bỏ
học và do vậy sẽ giảm phân hóa xã hội và tăng bình đẳng xã hội và ngược lại.
Liên hệ thực tế: phân hóa xã hội trong giáo dục ở thành thị ít hơn so với ở nông thôn. Lấy ví dụ
là các tỉ lệ đi học đúng tuổi tiểu học ở thành thị và nông thôn
Câu 17.
Xã hội hóa (sự nghiệp) giáo dục có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng phân hóa và
bình đăng xã hội trong giáo dục. Liên hệ thực tế ở Việt Nam?
Việc xã hội hóa sự nghiệp giáo dục dưới hình thức thu hút sự đóng góp của người dân có
thể giảm bất bình đẳng xã hội và phân hóa xã hội. Tuy nhiên, nhiều khả năng xẩy ra là xã hội
hóa làm tăng bất bình đẳng vì người nghèo không có điều kiện đóng góp nên họ sẽ không cho
con đến trường!. Hoặc học sinh nhà giàu đóng nhiều tiền thì rất có thể được hưởng ưu thế, lợi
ích giáo dục nhiều hơn so với học sinh nhà nghèo ngay trong một lớp, một trường, do vậy làm
tăng bất bình đẳng xã hội. Ở Việt Nam đang xảy ra tình trạng này do vậy nên hạn chế xã hội
hóa giáo dục phổ thông, mầm non.
Trả lời:
* Khái niệm xã hội hóa giáo dục: là một quá trình tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội,

gia đình và cá nhận vào lĩnh vực giáo dục. Giáo dục không còn là một lĩnh vực độc quyền của
nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội với sự tham gia của các cá nhân, các tổ
chức xã hội.
Ở VN, XHH GD được gọi là XHH sự nghiệp GD, đó là quá trình dân chủ hóa theo phương
châm: “ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
* Khái niệm Phân hóa xã hội: Là quá trình hình thành các nhóm xã hội khác nhau về một
hoặc một số đặc điểm, tính chất xã hội nhất định.
* Khái niệm bình đẳng xã hội: là sự thừa nhận và sự thiết lập các điều kiện, các cơ hội và các
quyền lợi ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân, các nhóm xã hội
* Mối quan hệ giữa XHH GD và PH, BĐXH trong GD ở VN là:
- Khi XHH giáo dục được thực hiện tốt, nhiều tổ chức xã hội và cá nhân tham gia vào lĩnh vực
giáo dục thì sẽ đem đến nhiều cơ hội học tập hơn, sẽ góp phần tiến tới bình đẳng xã hội trong
giáo dục. Tuy nhiên, khi XHH GD được tiến hành rộng rãi, phát triển thì cũng sẽ làm cho
25

×