Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Nghiên cứu một số đặc tính sinh học của vi khuẩn Salmonella phân lập được từ lợn sau cai sữa bị tiêu chảy và chế tạo thử nghiệm vacxin phòng bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.74 KB, 96 trang )

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã và đang có những
bước phát triển vượt bậc về mọi mặt, đời sống kinh tế xã hội ngày càng được
cải thiện. Đóng góp một phần không nhỏ cho sự thành công đó phải kể đến
các thành tựu của ngành nông nghiệp, trong đó có ngành chăn nuôi thú y mà
đặc biệt là ngành chăn nuôi lợn. Ngành chăn nuôi lợn đã góp phần đáp ứng
nhu cầu thực phẩm trong nước và một phần dành cho xuất khẩu thu ngoại tệ.
Theo CIRAD (2006)[43], thịt lợn chiếm 77% tổng lượng các loại thịt tiêu
dùng hàng ngày trên thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, một thách thức không nhỏ đối với việc phát triển chăn nuôi
lợn là dịch bệnh vẫn thường xuyên xảy ra trên các đàn lợn ở mọi lứa tuổi, làm
giảm năng suất, giảm chất lượng con giống hoặc nhiễm vào sản phẩm thịt lợn
gây nguy cơ mất an toàn vệ sinh thực phẩm. Một trong những bệnh thường
gặp phải kể đến là bệnh tiêu chảy do vi khuẩn Salmonella gây ra ở lợn sau cai
sữa, còn gọi là bệnh Phó thương hàn tuy không nổ ra thành dịch lớn, nhưng
với đặc điểm dịch tễ hết sức phức tạp, đã và đang gây nên những thiệt hại
đáng kể cho người chăn nuôi. Có thể nói rằng ở bất kỳ một cơ sở chăn nuôi
nào dù quy mô lớn hay nhỏ đều xuất hiện bệnh này.
Khi đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, vấn đề an toàn
thực phẩm trong đó có lợn và thịt lợn sạch bệnh, không bị nhiễm Salmonella
là một yêu cầu cấp thiết. Có rất nhiều tác giả đã công bố rằng sự nhiễm
Salmonella vào thân thịt lợn trong quá trình giết mổ chủ yếu liên quan đến sự
nhiễm trùng Salmonella ở ruột (Borch và cs, 1996[38]; Berends và cs,
1997[35]). Do đó, việc giảm tỷ lệ các trại bị nhiễm mầm bệnh Salmonella sẽ
làm sự an toàn thịt lợn tăng lên. Mục tiêu của các nhà khoa học, nhà sản xuất
là xây dựng các đàn gia súc sạch Salmonella.
1
Nhìn chung vi khuẩn Salmonella và bệnh do chúng gây ra ở lợn đã được
rất nhiều các nhà vi sinh vật trên toàn thế giới quan tâm. Ở Việt Nam đã có một
số công trình nghiên cứu về Salmonella và bệnh do chúng gây ra ở lợn như:


Nguyễn Thị Nội và cs (1989)[20]; Lê Văn Tạo và cs (1993)[26]; Trần Xuân
Hạnh (1995)[11]; Cù Hữu Phú và cs (2000)[21]; Đỗ Trung Cứ (2004)[6]...
Theo Bryan (1988)[40]; Nielsen và Wegener (1997)[62]; Berends và cs
1998[36]; Schwartz (1999)[71]: Các đàn lợn bị nhiễm Salmonella không những gây
thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi mà còn là nguồn tàng trữ mầm bệnh gây hại đối
với con người. Bởi vậy mà mỗi biện pháp ngăn chặn có hiệu quả ở gia súc đều cần
thiết và là điều kiện tiên quyết góp phần giảm thiểu dịch bệnh, tăng thu nhập cho
người chăn nuôi, chống ô nhiễm môi trường và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
Vì vậy mà việc phân lập vi khuẩn Salmonella, xác định serotyp và các đặc
tính gây bệnh của chúng ở lợn, nhằm mục đích phát hiện sớm và tìm ra hướng
phòng và trị bệnh có hiệu quả luôn là những việc làm cấp thiết. Xuất phát từ thực
tiễn nghiên cứu và yêu cầu của sản xuất, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu một số đặc tính sinh học của vi khuẩn Salmonella phân lập được
từ lợn sau cai sữa bị tiêu chảy và chế tạo thử nghiệm vacxin phòng bệnh".
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Phân lập, xác định hình thái, tính chất nuôi cấy, đặc tính sinh vật hóa
học, serotyp và các yếu tố gây bệnh của vi khuẩn Salmonella phân lập được
từ lợn sau cai sữa ở một số tỉnh phía Bắc.
- Chế tạo thử nghiệm vacxin đa giá có chứa một số các serotyp thường
gặp nhất từ những trường hợp nhiễm bệnh Salmonella ở lợn.
2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn Salmonella và bệnh do chúng gây ra
2.1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Năm 1880, Eberth lần đầu tiên quan sát thấy vi khuẩn Salmonella dưới
kính hiển vi. Bốn năm sau (1984), Gaffky đã nuôi cấy thành công vi khuẩn
này. Loài vi khuẩn Salmonella typhi thời gian đầu được gọi với các tên như:
Bacillus typhous, Bacterium typhi và Eberthella typhi hay Eberthella typhi
tiphosa, còn tên giống Salmonella được Lignires sử dụng đặt tên cho trực
khuẩn gây bệnh dịch tả “Hog-cholera bacillus” vào năm 1900 (Selbizt và cs,

1995[72])
Năm 1885, tên gọi S. choleraesuis lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo
năm của phòng chăn nuôi công nghiệp Mỹ. Thời gian này, Salmon, D.E. là
trưởng phòng nghiên cứu, vì vậy mà tên ông được lấy đặt cho vi khuẩn mới
này. Song Smith, người cộng sự của Salmon mới thật sự là người phát hiện ra
vi khuẩn Salmonella. Một vài năm sau đó, lần lượt các loài Salmonella khác
đã được phát hiện và những loài vi khuẩn đó vẫn có ý nghĩa trong y học cho
tới ngày nay.
Năm 1891 Jensen, đã phân lập được S. dublin từ bệnh phẩm của bê bị
tiêu chảy. Cũng vào năm đó, S. typhimurium được phát hiện ở vùng Greiswald
và Breslau. Hai năm sau đó (1893), tại Breslau đã xảy ra một vụ ngộ độc thịt
do ăn phải thịt bò ốm, kết quả là bệnh đã xảy ra ở người. Kaensche là người
tìm thấy vi khuẩn, vì vậy vi khuẩn được đặt tên là trực khuẩn Kaensche
(Selbizt và cs, 1995[72]).
Tất cả các bệnh do Salmonella gây ra lúc đầu được đặt tên chung là Phó
thương hàn “Para-typhus”, cho đến năm 1914, có 12 loài vi khuẩn được mô tả
và xếp vào giống Salmonella.
3
Năm 1926, với những công trình nghiên cứu của White về cấu trúc
kháng nguyên của Salmonella đã bắt đầu một thời kỳ khoa học mới về giống
vi khuẩn này. Sau đó Kauffmann cũng rất thành công trong lĩnh vực nghiên
cứu về vi khuẩn Salmonella (Selbizt và cs, 1995[72]).
Năm 1934, Kauffmann và White đã thiết lập được bảng cấu trúc kháng
nguyên đầu tiên và đặt tên là bảng phân loại Kauffmann-White. Từ đó đến
nay, bảng cấu trúc kháng nguyên của Salmonella luôn luôn được bổ sung.
Năm 1993 đã có 2375 serovar Salmonella được định danh (Selbizt và cs,
1995[72]). Năm 1997, số serovar đã lên đến 3000 (Plonait và Birkhardt,
1997[65]). Như vậy, giống Salmonella luôn luôn thu hút sự chú ý của các nhà
chuyên môn trong lĩnh vực vi sinh vật.
Trước năm 1983, sự tồn tại của nhiều loài Salmonella được chấp nhận

trong phân loại. Từ đó vì kết quả của những thí nghiệm cho thấy mức tương
đồng DNA cao, tất cả các chủng Salmonella được xếp thành một loài duy nhất
là S. Choleraesuis (Salmonella choleraesuis) (Crosa và cs, 1973[48]; Farmer,
1995[51]).
Năm 1999, tại khóa phân loại học của trung tâm Kiểm soát và phòng
ngừa dịch bệnh (CDC: Center for Diease Control and Prevention) của Hoa Kỳ
Euzéby đề nghị đặt tên các typ huyết thanh Salmonella như sau: Giống
Salmonella được chia thành 2 loài, đó là S. enterica và S. bongori. Tất cả các
type huyết thanh gây bệnh cho người và động vật đều thuộc S. enterica. Loài
S. enterica được chia nhỏ thành 6 dưới loài đó là: enterica, salamae, arizonae,
diarizonae, houterae và indica, tương ứng với số la mã: I, II, IIIa, IIIb, IV và
VI dựa trên sự tương đồng DNA và phạm vi vật chủ. Do dưới loài I có nhiều
typ huyết thanh khác nhau nên dưới loài này được phân loại đến typ huyết
thanh. Để nhấn mạnh rằng typ huyết thanh không phải là loài riêng biệt nên
tên của typ huyết thanh không viết nghiêng và chữ đầu phải viết hoa. Vì vậy,
S. choleraesuis có tên đầy đủ là S. enterica serotyp choleraesuis, hoặc viết tắt
4
ngắn gọn hơn là S. choleraesuis. Mặc dù hệ thống phân loại mới này không
được công nhận một cách chính thức bởi ủy ban quốc tế về vi khuẩn học hệ
thống, nhưng nó đã được tổ chức y tế thế giới và hiệp hội vi sinh vật học ở
Mỹ chấp nhận sử dụng (Euzéby, 1999[50]).
Vi khuẩn Salmonella được phân lập từ thịt lợn chết bởi bệnh Phó
thương hàn thường gặp ở miền Tây của nước Mỹ là S. choleraesuis var
kunzendorf, S. typhimurium và S. typhisuis (Barnes và Sorensen, 1975[33]).
Trong một vài trường hợp, ở lợn còn tìm thấy S. dublin và S. enteritidis. Hai
serotyp S. dublin và S. enteritidis cũng gặp ở lợn con đang theo mẹ. Những
báo cáo gần đây cho thấy: Ở một số nước như Mỹ, Canada, Anh và Bắc Đài
Loan đã phân lập được S. choleraesuis từ người bị bệnh (Khakhria & Johnson,
1995[57]; Chiu và cs, 1996[41]; Su và cs, 2001[74]). Từ việc tìm thấy vi
khuẩn Salmonella trong động vật ốm, sản phẩm động vật, trong nước và trong

các dụng cụ chăn nuôi..., các tác giả đã có những đề xuất về các giải pháp
tổng hợp cần thiết nhằm tránh sự lây lan vi khuẩn trong hệ sinh thái môi
trường để bảo vệ sức khỏe.
Nguồn tàng trữ Salmonella chủ yếu là đường tiêu hoá của người và
động vật mắc bệnh. Một vài loài như S. typhi, S. paratyphi A, S. paratyphi B,
S. paratyphi C chỉ ký sinh ở người. Những loài khác hay gặp hơn như: S.
choleraesuis, S. enteritidis chủ yếu ký sinh ở động vật nhưng cũng có khả
năng gây bệnh cho người.
Do tính chất gây bệnh của vi khuẩn Salmonella không những cho gia
súc, gia cầm, động vật máu nóng, máu lạnh và cả ở trên người nên từ lâu
trong nhân y và thú y, người ta đã quan tâm nghiên cứu các đặc tính sinh học,
yếu tố gây bệnh và các biện pháp phòng và điều trị bệnh do chúng gây ra.
Wilcock và Schwartz (1992)[80] thì tại nước Anh, năm 1972 tìm thấy
vi khuẩn Salmonella có trong phân lợn là 9,9%, năm 1973 tìm thấy vi khuẩn
Salmonella trong hạch ruột là 7,3%.
5
Tại Nhật Bản, Asai và cs (2002)[32] cho thấy tỷ lệ nhiễm Salmonella ở
lợn sau cai sữa bị tiêu chảy là 12,4%; lợn vỗ béo là 17,3%; lợn con theo mẹ
4,5%. Tác giả cũng cho biết S. typhimurium được phân lập thấy nhiều nhất ở
lợn sau cai sữa là 72,6%; lợn gần xuất chuồng là 73,8%.
Kishima và cs (2008)[58] đã điều tra tỷ lệ nhiễm và phân bố của vi
khuẩn Salmonella trong phân lợn khỏe mạnh bình thường trên toàn lãnh thổ
Nhật Bản giữa năm 2003 và năm 2005 là 3,1%.
Theo Barnes và Sorensen (1975)[33];Wilcock và Schwartz (1992)[80]:
Ở lợn, cần phân biệt 2 dạng bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra, đó là bệnh
Phó thương hàn cấp tính ở lợn con do S. choleraesuis var kunzendorf và bệnh
viêm ruột mãn tính do S. typhimurium. Ở trâu bò, bệnh chủ yếu do các loài S.
dublin và S. entertidis gây ra. Ở cừu, do S. abortus ovis, S. montevideo, S.
dublin, S. anatum gây ra. Ở ngựa do S. abortus equi gây ra, còn ở gia cầm và
chim do S. pullorum, S. gallinarum, S. typhimurium và S. enteritidis gây ra.

Hiện nay, có rất nhiều loại thuốc kháng sinh có thể được sử dụng để
điều trị bệnh, nhất là với lợn con trước và sau cai sữa. Tuy nhiên, do việc sử
dụng rộng rãi kháng sinh để phòng và điều trị bệnh nên đã xuất hiện các
chủng vi khuẩn Salmonella kháng thuốc (Kishima và cs, 2008[58]).
Gần đây, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào nghiên cứu gen kháng
kháng sinh DT104 ở vi khuẩn Salmonella. Chủng đa kháng thuốc S.
typhimurium DT104 được phát hiện lần đầu tiên ở người mắc Salmonellosis
tại Anh vào năm 1980. Sau đó được quan sát thấy cả ở người cũng như vật
nuôi trên khắp thế giới vào những năm 90 và hiện đang là mối quan ngại hàng
đầu đối với sức khỏe cộng đồng. Gen này thường xuất hiện ở các serotyp S.
typhimurium và ít thấy ở các serotyp khác. Một tổ hợp kháng thuốc điển hình
của S. typhimurium DT104 là kháng đồng thời với 5 loại kháng sinh, bao gồm:
Ampicillin, Chloramphenicol, Streptomycin, Sulfonamide và Tetracycline
6
(ACSSuT) (Kishima và cs, 2008[58]). Tuy nhiên, không có chiều ngược lại,
tức là nếu các kết quả xác định lâm sàng cho thấy một chủng vi khuẩn kháng
với cả 5 loại kháng sinh này thì vẫn chưa đủ căn cứ để kết luận là chủng vi
khuẩn này có mang gen kháng kháng sinh DT104 (Kishima và cs, 2008[58]).
Cũng theo tác giả, có 61,5% số chủng thuộc serotyp S. typhimurium có mang
gen DT104.
Selbitz (1995)[72] còn cho biết: “genom” của Salmonella được nghiên
cứu tương đối kỹ. Cho đến nay ít nhất đã chứng minh được 750 gen, trong đó
có 680 gen đã có trong bản đồ gen.
Như vậy, vi khuẩn Salmonella và bệnh do chúng gây ra được rất nhiều
các nhà vi sinh vật trên toàn thế giới quan tâm. Mục đích của các nghiên cứu
này nhằm tìm ra các biện pháp có hiệu quả để góp phần ngăn chặn và đẩy lùi
bệnh do Salmonella gây ra ở động vật và ở người.
2.1.2 Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, vi khuẩn Salmonella và bệnh do chúng gây ra cho người
và gia súc cũng đã được bắt đầu nghiên cứu từ những năm 50. Viện Pasteur

Sài Gòn trong những năm (1951-1953) đã phân lập được 6 chủng Salmonella
ở người (4 chủng từ máu, 2 chủng từ nước tiểu). Cũng ở Sài Gòn, trong thời
gian này đã phân lập được 35 chủng từ 360 lợn, trong đó có 23 mẫu là S.
cholereasuis (Đỗ Đức Diên, 1999[7]).
Năm 1989, Nguyễn Thị Nội và cs[19] đã tiến hành điều tra tình hình
nhiễm vi khuẩn đường ruột tại một số cơ sở chăn nuôi lợn ở miền Bắc đã tìm
thấy 37,5% lợn nhiễm Salmonella. Trước tình hình như vậy, nhóm tác giả này
đã nghiên cứu và chế tạo thành công vacxin đa giá Salsco phòng bệnh ỉa chảy
cho lợn con. Vacxin đã được áp dụng để phòng bệnh có hiệu quả ở nhiều trại
chăn nuôi lợn, tỷ lệ lợn bị tiêu chảy giảm từ 30-50%, tỷ lệ lợn chết do tiêu
chảy giảm xuống còn 10-20%.
7
Lê Văn Tạo và cs (1994)[27] đã phân lập và xác định serotyp của vi
khuẩn Salmonella gây bệnh ở lợn, kết quả cho thấy: 50% các chủng phân lập
được thuộc S. choleraesuis; 12,5% S. enteritidis; 6,25% S. typhimurium và số
còn lại thuộc các serotyp khác.
Trần Xuân Hạnh (1995)[11] đã phân lập và giám định vi khuẩn
Salmonella ở lợn tại Thành phố Hồ Chí Minh cho kết quả: S. typhisuis ở lợn
bệnh là 16,9%; ở lợn bình thường 6-16 tuần tuổi là 4,2%; S. paratyphi ở lợn
6-16 tuần tuổi là 2,8%. Đặc biệt, vi khuẩn S. choleraesuis chiếm 38,7% ở lợn
bệnh và 2,8% ở lợn bình thường.
Theo Phùng Quốc Chướng (1995)[2] ở Tây Nguyên, mùa khô lợn mắc
bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra là 20,03%, vụ đông là 28,66%. Tạ Thị
Vịnh và cs (1996)[31] đã kiểm tra 75 mẫu phân lợn khoẻ và 65 mẫu phân lợn
bệnh tại một số vùng thuộc Ba Vì (Hà Tây) và Gia Lâm (Hà Nội) cho thấy:
Tỷ lệ nhiễm Salmonella cao 30-56% ở lợn khoẻ trong giai đoạn 22-60 ngày
tuổi. Tỷ lệ nhiễm Salmonella ở lợn mắc hội chứng tiêu chảy cao hơn lợn bình
thường và tăng dần theo lứa tuổi, dao động từ 70-90%.
Kết quả phân lập vi khuẩn Salmonella ở lợn mắc bệnh tiêu chảy tại 4 cơ
sở chăn nuôi lợn thuộc miền Bắc nước ta của Cù Hữu Phú và cs (2000)[21]

cho biết: Tỷ lệ tìm thấy Salmonella trung bình ở lợn tiêu chảy nuôi tại 4 cơ sở
trên là 80%. Đây là điều đáng lo ngại đối với ngành chăn nuôi lợn ở nước ta.
Theo Nguyễn Bá Hiên (2001)[13], tỷ lệ nhiễm Salmonella ở các đàn
lợn, ngoại thành Hà Nội cao nhất là lợn trên 60 ngày tuổi (88,23%), thấp nhất
là lợn từ 1-21 ngày tuổi (73,68%).
Ngoài ra ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn Salmonella cũng đã và đang
được rất nhiều tác giả quan tâm. Lê Minh Sơn (2003)[25] đã xác định tỷ lệ
nhiễm Salmonella trong thịt lợn giết mổ tiêu dùng nội địa từ 10,91-16,67% và
thịt lợn xuất khẩu trung bình 1,42%. Tô Liên Thu (2005)[30] đã xác định tỷ lệ
nhiễm Salmonella của các mẫu thịt gà ở Hà Nội là rất cao: 33% các mẫu lấy
8
tại siêu thị, 40% các mẫu lấy từ chợ. Lò mổ là một mắt xích quan trọng có
nguy cơ cao ô nhiễm Salmonella vào thân thịt sau giết mổ. Trần Thị Hạnh và
cs (2009)[12] đã công bố tỷ lệ nhiễm Salmonella tại các cơ sở giết mổ lợn
công nghiệp và cho kết quả: Chất chứa manh tràng của lợn là 59,18%, ở mẫu
lau thân thịt là 70%, mẫu lau hậu môn 66%, mẫu lau nền chuồng nhốt lợn chờ
giết mổ là 40%, mẫu lau sàn giết mổ là 28%, còn các mẫu nước kiểm tra
không phát hiện Salmonella. Tại các cơ sở giết mổ lợn theo phương thức thủ
công cho thấy tỷ lệ nhiễm Salmonella ở chất chứa manh tràng của lợn chờ giết
mổ là 87,5%, ở mẫu lau thân thịt là 75%, mẫu lau hậu môn là 55%, mẫu lau
nền chuồng nhốt lợn chờ giết mổ là 70%, mẫu lau sàn giết mổ là 80%, mẫu
nước là 50%.
Cùng với quá trình nghiên cứu chi tiết về vi khuẩn, các biện pháp phòng
bệnh đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, trong đó có vacxin
phòng bệnh. Nguyễn Văn Lãm (1968)[15] đã tiến hành nghiên cứu chế vacxin
Phó thương hàn lợn con từ chủng Salmonella chuẩn của Trung Quốc. Hiện
nay, các loại vacxin phòng bệnh Phó thương hàn đã được một số công ty, xí
nghiệp thuốc thú y sản xuất như vacxin nhược độc chủng TS – 177, vacxin có
bổ trợ như vacxin keo phèn hay vacxin nhũ hoá có bổ trợ dầu.
Như vậy, việc nghiên cứu vi khuẩn Salmonella một cách toàn diện để từ

đó đề ra biện pháp phòng chống bệnh hiệu quả, giữ gìn vệ sinh an toàn thực
phẩm, bảo vệ sức khỏe con người là một yêu cầu rất cần thiết.
2.2 Một số đặc điểm của vi khuẩn Salmonella
Trực khuẩn Salmonella thuộc bộ Eubacteriales, họ Enterobacteriaceae.
Giống Salmonella gồm 2 loài: S. enterica và S. bongori đã được phân chia
thành trên 2000 serotyp theo bảng phân loại Kauffmann-White trên cơ sở cấu
trúc của kháng nguyên thân O, kháng nguyên lông H và đôi khi các kháng
nguyên vỏ (kháng nguyên K). Gần đây, loài S. enterica đã được phân thành 6
phân loài đó là: S. enterica subsp. enterica, S. enterica subsp. salamae, S.
9
enterica subsp. arizonae, S. enterica subsp. diarizinae, S. enterica subsp.
houtenae, S. enterica subsp. indica. Trong đó phân loài S. enterica subsp.
enterica gồm phần lớn các chủng Salmonella là những tác nhân gây bệnh cho
người và động vật (Quinn, 2002[68]).
2.2.1 Đặc điểm hình thái
Theo Bergeys Manual (1994)[37], vi khuẩn Salmonella là những trực
khuẩn ngắn, hai đầu tròn, có kích thước 0,4-0,6 x 1,0-3,0 µm, bắt màu Gram
âm, không hình thành nha bào và giáp mô. Đa số loài Salmonella có lông
(flagella) từ 7-12 chiếc xung quanh thân (trừ S. gallinarum-pullorum).
Lông giúp cho vi khuẩn có khả năng di động. Lông có hình tròn, dài,
xuất phát từ màng cytoplasma. Do có cấu trúc từ các sợi protein hình xoắn
nên có thể co giãn và di động nên lông của chúng rất khó nhuộm. Nếu nhuộm
bằng phương pháp Haschem (1972) thì có thể nhìn thấy chúng dưới kính hiển
vi điện tử (Lê Văn Tạo, 1993[26]). Lông có tính kháng nguyên và do các gen
mã hóa tổng hợp protein riêng quy định.
Ngoài ra, trên bề mặt màng ngoài của vi khuẩn Salmonella đều có các
cấu trúc sợi nhỏ hơn, còn gọi là Fimbriae hay Pili. Chúng có kích thước
chừng 0,01- 0,03 x 1,0 µm. Số lượng fimbriae trên 1 vi khuẩn có khoảng 250-
400 cái vươn thẳng ra xung quanh bề mặt tế bào. Fimbriae có cấu trúc là
protein và có tính kháng nguyên đặc trưng. Theo Jones và cs (1981)[56]:

Fimbriae tạo cho vi khuẩn khả năng bám dính (adhesion) lên các tế bào biểu
mô ruột và xâm nhập vào lớp niêm mạc.
2.2.2 Tính chất nuôi cấy
Salmonella là vi khuẩn vừa hiếu khí, vừa kỵ khí không bắt buộc, dễ
nuôi cấy. Nhiệt độ nuôi cấy thích hợp là 37
o
C, nhưng có thể phát triển được ở
nhiệt độ từ 6- 42
o
C. Nuôi cấy ở 43
o
C có thể loại trừ được tạp khuẩn mà
Salmonella vẫn phát triển được (Timoney và cs, 1988[76]). pH thích hợp cho
vi khuẩn phát triển là 7,6, tuy nhiên vi khuẩn vẫn phát triển được ở pH từ 6-9.
Khi nuôi cấy vi khuẩn trong môi trường BPW (Buffered Pepton Water)
10
và môi trường RV (Rappaports Vassiliadis) sau vài giờ nuôi cấy thấy môi
trường vẩn đục nhẹ, sau 18 đến 24 giờ thấy canh trùng đục đều, trên mặt môi
trường có màng mỏng, đáy ống nghiệm có cặn.
Hiện nay có rất nhiều loại môi trường chọn lọc được các nhà vi sinh vật
thú y sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu và phân lập Salmonella như môi
trường thạch DHL (Deoxycholate Hydrogen sulfide Lactose agar), sau 24 giờ
nuôi cấy vi khuẩn phát triển thành khuẩn lạc tròn, lồi, bóng láng (dạng S), có
màu vàng nhạt. Các chủng sinh H
2
S thì giữa khuẩn lạc có màu đen.
Môi trường thạch MacConkey: Vi khuẩn phát triển thành những khuẩn
lạc tròn lồi, trong không màu, nhẵn bóng.
Trên môi trường thạch CHROM
TM

Salmonella, sau 24 giờ nuôi
cấy, vi khuẩn hình thành khuẩn lạc trơn, tròn, bóng láng (dạng S) và có
màu tím hồng.
Trong môi trường thạch TSI (Triple Sugar Iron), vi khuẩn Salmonella
do sản sinh alkaline nên phần thạch nghiêng có màu đỏ (pH=7,3), đáy ống
nghiệm màu vàng (pH=6,8) do vi khuẩn chỉ lên men đường Glucose. Phần
giữa ống nghiệm có màu đen do vi khuẩn sản sinh ra khí H
2
S. Nếu để lâu (quá
24 giờ), màu đen môi trường thường làm át phản ứng tạo axit ở phần đáy ống
nghiệm (không nhìn thấy màu vàng). Vi khuẩn sinh hơi làm nứt thạch, có khi
đẩy thạch khỏi đáy ống nghiệm (Quinn và cs, 2002[68]).
Trong môi trường LIM (Lysine Indole Motility), vi khuẩn không làm
chuyển màu môi trường, môi trường có màu tím nhạt.
Môi trường Malonate, vi khuẩn không phát triển nên không làm thay
đổi màu môi trường.
2.2.3 Đặc tính sinh hoá
Theo Quinn và cs (2002)[68], giống vi khuẩn Salmonella được chia
thành 7 phân nhóm, mỗi phân nhóm có khả năng lên men một số loại đường
nhất định và không đổi. Phần lớn phân loài S. enterica subsp. enterica gây
bệnh cho động vật máu nóng. Chúng lên men và sinh hơi: Glucoza, Mannit,
Mantoza, Galactoza, Dulcitol, Arabonoza, Sorbitol. Cũng ở nhóm này, hầu
11
như các chủng vi khuẩn Salmonella đều không lên men Lactoza và Saccaroza.
Đa số các vi khuẩn thuộc giống Salmonella không làm tan chảy
Gelatin, không phân giải Urê, không sản sinh Indol. Phản ứng MR, Catalaza
dương tính (trừ S. choleraesuis, S. gallinarum-pullorum có MR âm tính). Phản
ứng Oxidaza âm tính. Phản ứng sinh H
2
S dương tính (trừ S. paratyphi A, S.

typhisuis, S. choleraesuis) (Ewing và Edwards, 1970[49]).
Trong quá trình phân lập và giám định vi khuẩn Salmonella thì đặc tính
sinh hóa có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là bước không thể bỏ qua khi xét
nghiệm vi khuẩn nói chung và vi khuẩn Salmonella nói riêng.
2.2.4 Sức đề kháng của vi khuẩn Salmonella
Vi khuẩn Salmonella mẫn cảm với nhiệt độ và các chất sát trùng mạnh.
Ở nhiệt độ 50
o
C trong 1 giờ, 70
o
C trong 20 phút, 100
o
C trong 15 phút hoặc
ánh sáng mặt trời chiếu thẳng trong 5 giờ có thể diệt được vi khuẩn (Laval,
2000[16]).
Các chất sát trùng thông thường dễ phá hủy vi khuẩn hoàn toàn như:
Phenol 5%, Formon 1/500 diệt vi khuẩn trong 15- 20 phút.
Theo Laval, (2000)[16], vi khuẩn Salmonella sống được lâu trong điều
kiện lạnh, chúng có thể sống trong bột thịt 8 tháng, nhưng ở điều kiện môi
trường có độ pH ≤ 5 chúng chỉ sống được trong thời gian ngắn.
Vi khuẩn Salmonella tồn tại trong chất độn chuồng tới trên 30 tuần, có
thể sống ở trong đất với độ sâu 0,5cm trong thời gian 2 tháng. Ở sàn gỗ, tường
gỗ trong điều kiện ít ánh sáng là 87 ngày, máng gỗ 108 ngày (Đào Trọng Đạt
và cs, 1995[10]). Trong nước tù đọng, đồng cỏ ẩm thấp S. typhimurium có thể
tồn tại trên 7 tháng. Trong xác súc vật chết, Salmonella có thể sống trên 100
ngày, trong thịt ướp muối từ 6-8 tháng (Nguyễn Vĩnh Phước và cs, 1970[22]).
2.2.5 Đặc điểm dịch tễ học của vi khuẩn Salmonella
Vi khuẩn Salmonella gây bệnh cho người và vật nuôi, phân bố ở khắp
nơi trên thế giới, vì vậy các nghiên cứu về cách truyền lây của vi khuẩn này
12

được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Một đặc điểm dịch tễ quan trọng của
Salmonella là trạng thái mang trùng và thải trùng của gia súc.
Theo Archie Hunter (2002)[14], một nguồn bệnh đặc biệt quan trọng là
gia súc mang vi khuẩn Salmonella nhưng không biểu hiện lâm sàng. Những
con này có thể thải mầm bệnh ra ngoài môi trường trong vài tháng. Tác giả
cũng cho biết cách lây lan như sau: Gia súc nhiễm bệnh thải vi khuẩn
Salmonella vào trong phân và bệnh xảy ra do tiếp xúc trực tiếp hay ô nhiễm
phân vào thức ăn, nước uống hay chuồng trại gia súc.
Theo Gray và cs (1995)[54] , các lợn nhiễm S. choleraesuis thường biểu
hiện các dấu hiệu lâm sàng từ 36-48 giờ sau khi nhiễm trùng và có 10
3
- 10
6
đơn vị vi khuẩn trong 1 gram phân vào giai đoạn bệnh cao nhất. Cũng theo tác
giả thì phần lớn những lợn nhiễm tự nhiên sau khi khỏi bệnh, có thể loại thải
hoàn toàn vi khuẩn vào giữa 9-12 tuần sau khi nhiễm trùng. Điều này cho thấy
rằng tình trạng mang trùng lâu dài này có thể dẫn tới sự nhiễm khuẩn môi
trường và sự tái nhiễm tiếp theo của những động vật mới đưa vào trại.
Nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu về đường nhiễm Salmonella đều cho
rằng: Vi khuẩn Salmonella theo thức ăn, nước uống vào đường tiêu hóa và có
thể do tiếp xúc. Bình thường, chúng sống trong ống tiêu hoá mà không gây
bệnh. Chỉ khi nào sức đề kháng của lợn giảm sút, vi khuẩn xâm nhập vào máu
và nội tạng gây bệnh. Bệnh Phó thương hàn chỉ gây thành dịch địa phương,
dịch bệnh phụ thuộc vào cơ cấu đàn, tình hình vệ sinh thú y, chế độ chăm sóc
nuôi dưỡng và đặc điểm dịch tễ học của cơ sở đó (Phan Thanh Phượng,
1988[23]; Nguyễn Như Thanh, 2001[28]; Laval, 2000[16]).
Theo Phan Thanh Phượng (1988)[23], tỷ lệ lợn mắc bệnh do Salmonella
gây ra thường tăng lên vào thời kỳ lợn cai sữa, vì lúc đó cơ thể lợn con thay
đổi, dễ nhiễm bệnh. Nguyễn Như Thanh (2001)[28], cũng cho biết: vi khuẩn
gây ra bệnh Phó thương hàn cho lợn con từ 2 – 4 tháng tuổi với tỷ lệ tử vong

khoảng 25%, có khi lên đến 95%; bệnh có thể ở lợn lớn với thể mãn tính và ít
13
gây chết.
Bệnh ít xảy ra ở lợn con trước cai sữa, bởi chúng được bảo hộ nhờ kháng
thể có trong sữa đầu của lợn mẹ. Song nguy cơ nổ ra bệnh tăng dần theo lứa
tuổi, đặc biệt là sau cai sữa, khi mà khả năng miễn dịch chủ động chưa thể bù
đắp kịp thời để thay thế miễn dịch thụ động (Laval, 2000[16]).
2.2.6 Cấu trúc kháng nguyên của vi khuẩn Salmonella
Cấu trúc kháng nguyên của vi khuẩn Salmoenlla hết sức phức tạp, bao
gồm 3 loại chính:
Kháng nguyên O (O- Antigen): Kháng nguyên thân.
Kháng nguyên H (H- Antigen): Kháng nguyên lông.
Kháng nguyên K (K- Antigen) hay kháng nguyên vỏ.
* Kháng nguyên thân O (O- Antigen)
Kháng nguyên O nằm ở thành tế bào vi khuẩn, có cấu trúc
Lipopolysaccharide (LPS) là thành phần chính cấu tạo nên lớp màng ngoài
của thành tế bào vi khuẩn Gram âm. Kháng nguyên O chịu nhiệt (Heat-stable)
và kháng cồn, bị biến tính khi sử lý bằng formaldehyde. Kháng nguyên O
gồm 2 nhóm chính:
- Polysaccharide không có nhóm hydro, không mang tính đặc trưng của
kháng nguyên và chỉ tạo sự khác biệt về hình thái khuẩn lạc từ dạng S
(Smooth) sang dạng R (Rough) và dẫn đến giảm độc lực của vi khuẩn
(Selbitz, 1995[72]).
- Polysaccharide nằm ở ngoài có nhóm hydro quyết định tính kháng
nguyên và đặc trưng cho từng serotyp.
Kháng nguyên O được xem như là một nội độc tố (Endotoxin) mà nó
được cấu tạo bởi nhóm hỗn hợp Glyco- polypeptide có thể tìm thấy ở màng
ngoài của vỏ bọc vi khuẩn.
Theo CIRAD (2006)[43], kháng nguyên O của vi khuẩn Salmonella có
67 loại chính, được chia thành hơn 50 nhóm, số còn lại đóng vai trò phụ.

14
* Kháng nguyên lông H (H- Antigen)
- Kháng nguyên H (H-Antigen) là protein nằm trong thành phần lông
của vi khuẩn, là loại kháng nguyên không chịu nhiệt (Heat labile), rất kém
bền vững so với kháng nguyên O, bị phá hủy ở nhiệt độ 60
o
C sau 1 giờ, dễ
phá hủy bởi cồn và axit yếu (Nguyễn Như Thanh và cs, 2001[28]).
- Kháng nguyên H gồm có 2 pha:
Pha 1: có tính đặc hiệu, gồm 28 loại kháng nguyên được biểu thị bằng
chữ mẫu la tinh thường: a,b,c,d,...,z.
Pha 2: Không có tính đặc hiệu, gồm 6 loại được biểu thị bằng chữ số ả
rập: 1,2,3,4,5,6 hay la tinh thường: e,n,x,....
Tuy nhiên, trong từng tế bào vi khuẩn riêng biệt luôn luôn chỉ xuất
hiện từng pha, bởi vậy mà trong chẩn đoán, để đạt được một công thức kháng
nguyên hoàn chỉnh cho Salmonella phải thay đổi pha. Có các loài Salmonella
như S. typhisuis, hoặc S. enteritidis... thì chỉ tạo 1 pha.
Kháng nguyên H không quyết định yếu tố độc lực của vi khuẩn, cũng
như không có ý nghĩa trong việc tạo ra miễn dịch phòng bệnh, nhưng nó có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định giống loài của vi khuẩn.
* Kháng nguyên vỏ (K- Antigen)( hay Vi- Antigen)
Theo Quinn và cs (2002)[68], kháng nguyên vỏ chỉ có ở một số loài
như S. typhi, S. paratyphi. S. dublin cũng có thể mang kháng nguyên vỏ,
kháng nguyên K có thể làm che các kháng nguyên thân O. Cũng theo tác giả,
nếu đun sôi huyễn dịch của các loài Salmonella này trong 10 đến 12 phút sẽ
phá hủy được kháng nguyên vỏ.
Kháng nguyên vỏ là một loại kháng nguyên có khả năng ngưng kết
kháng thể O khi phát triển nhiều. Kháng nguyên này chỉ gặp ở 2 serotyp là: S.
typhi và S. paratyphi C, ký hiệu kháng nguyên hay Vi trong công thức đứng
sau kháng nguyên O. Theo sơ đồ của Kauffmann – White; công thức kháng

nguyên của S. paratyphi C là: 6,7, Vi: -1,5 và S. Typhi là: 9, 12, Vi: c,d.
15
Trong 3 kháng nguyên chủ yếu trên, kháng nguyên O và kháng nguyên
H là 2 loại kháng nguyên có ý nghĩa quan trọng trong công tác chẩn đoán.
2.2.7 Các yếu tố gây bệnh của vi khuẩn Salmonella
2.2.7.1 Các yếu tố không phải là độc tố
a) Kháng nguyên O
Chất lượng thành phần hóa học, cấu trúc kháng nguyên O đều ảnh
hưởng tới độc lực của vi khuẩn Salmonella. Cụ thể là: S. typhimurium nếu
thay đổi thành phần kháng nguyên từ công thức 1, 4, 12 sang 1, 9, 12 thì vi
khuẩn từ dạng có độc lực chuyển sang dạng không có độc lực (Valtonen,
1977[78]).
Kháng nguyên O là yếu tố độc lực giúp vi khuẩn chống lại khả năng
phòng vệ của vật chủ, giúp vi khuẩn phát triển trong tế bào tổ chức, chống lại
sự thực bào của đại thực bào (Morris và cs, 1976[60]).
Kháng nguyên O khích thích các cơ quan đáp ứng miễn dịch hình thành
kháng thể đặc hiệu ngưng kết với kháng nguyên tương ứng. Cơ chế phòng vệ
này giúp cơ thể vật chủ chống lại quá trình tái xâm nhập của vi khuẩn.
Đến nay, người ta đã xác định được trên 3000 serotyp kháng nguyên O
của Salmonella, thành phần kháng nguyên của vi khuẩn S. choleraesuis gồm:
O
6
, O
7
; S. typhimurium gồm: O
1
, O
4
, O
5

, O
12
; S. enteritidis gồm: O
1
, O
9
, O
12
.
b) Kháng nguyên H
Kháng nguyên H không có ý nghĩa trong việc tạo ra miễn dịch phòng
bệnh, cũng không quyết định yếu tố độc lực, tuy vậy nó có vai trò bảo vệ cho
vi khuẩn không bị tiêu diệt bởi quá trình thực bào, giúp vi khuẩn sống và nhân
lên trong các tế bào đại thực bào, cũng như trong tế bào gan và thận
(Weinstein và cs, 1984[79]).
c) Kháng nguyên K
Bản chất hóa học của kháng nguyên K là Polysaccharide, nhưng thực
chất chúng chỉ là thành phần của kháng nguyên O. Kháng nguyên K tạo hàng
16
rào bảo vệ giúp vi khuẩn chống lại tác động ngoại cảnh và hiện tượng thực
bào (Nguyễn Như Thanh, 2001[28])
d) Yếu tố bám dính
Theo Jones và Richardson (1981)[56] khả năng bám dính của vi khuẩn
Salmonella lên tế bào nhung mao ruột là bước khởi đầu quan trọng trong quá
trình gây bệnh. Hiện tượng bám dính của vi khuẩn lên bề mặt tế bào vừa
mang tính chất lý hóa, vừa mang tính chất sinh học và được thực hiện theo 3
bước:
Bước 1: Vi khuẩn liên kết từng phần với bề mặt tế bào, thực hiện quá
trình này đòi hỏi vi khuẩn phải có khả năng di động.
Bước 2: Là quá trình hấp phụ, phụ thuộc vào đặc tính bề mặt của vi

khuẩn và tế bào mà vi khuẩn bám dính và được thực hiện theo hướng thuận
nghịch với sự tương hỗ của những tác động khác nhau.
Bước 3: Là quá trình tương tác giữa yếu tố bám dính của vi khuẩn với
các điểm tiếp nhận trên bề mặt tế bào. Yếu tố bám dính của vi khuẩn được sắp
xếp trên các fimbriae.
Theo Lê Văn Tạo (1993)[26], trên mỗi tế bào vi khuẩn Salmonella có từ
250- 400 fimbriae, chúng giúp vi khuẩn bám dính vào tế bào nhung mao ruột
non để gây bệnh.
Đỗ Trung Cứ và cs (2003)[5] đã công bố: S. typhimurium phân lập từ
lợn mắc bệnh Phó thương hàn có khả năng bám dính lên bề mặt tế bào Vero
với tỷ lệ cao (từ 70,76% - 93,48%). Kết quả này tương đương với khả năng
bám dính của chủng S. typhimurium chuẩn.
e) Yếu tố xâm nhập
Theo Finlay và cs (1988)[52], khả năng xâm nhập vào tế bào có nhân
hoặc lớp niêm mạc của đường ruột là đặc tính của một số chủng Salmonella
có độc lực. Các biến chủng Salmonella không có khả năng xâm nhập vào tế
bào thường là các chủng không có độc lực.
17
Sau khi tiếp cận tế bào vật chủ, vi khuẩn Salmonella tác động làm tăng
hàm lượng Ca
++
nội bào, hoạt hóa Actin Depolimeriring Enzyme, làm thay
đổi cấu trúc, hình dạng các sợi actin, biến đổi màng tế bào, dẫn đến hình
thành giả túc bao vây tế bào vi khuẩn dưới dạng các không bào chứa vi
khuẩn. Sau đó Salmonella được xâm nhập vào trong tế bào, tồn tại, tiếp tục
nhân lên với số lượng lớn, phá vỡ tế bào vật chủ, sản sinh độc tố đường ruột
(Enterotoxin), làm xuất hiện quá trình tiêu chảy của vật chủ (Frost và cs,
1997[53]).
f) Khả năng tổng hợp sắt
Theo Benjamin (1985)[34], đây là một yếu tố giúp vi khuẩn Salmonella

tăng nhanh về số lượng làm suy yếu khả năng chống đỡ của vật chủ do bị
thiếu sắt. Cũng theo tác giả, vi khuẩn Salmonella có phản ứng với sự thay đổi
cơ chế chu chuyển sắt; khi quá trình tổng hợp sắt bị ức chế, chúng sẽ chuyển
toàn bộ protein màng điều phối sắt lên bề mặt của tế bào vi khuẩn, làm cho
khả năng hấp thu sắt tăng cường một cách rõ rệt.
i) Khả năng kháng kháng sinh
Khi vi khuẩn có sẵn những yếu tố gây bệnh thì khả năng kháng kháng
sinh sẽ làm tăng tính gây bệnh của vi khuẩn lên gấp bội.
Việc sử dụng rộng rãi các loại thuốc kháng sinh để phòng trị bệnh, kích
thích sinh trưởng của gia súc, gia cầm, đã tạo ra nhiều giống vi khuẩn có khả
năng kháng thuốc, mang plasmid kháng kháng sinh, tồn tại rất lâu trong cơ
thể người, vật nuôi và môi trường.
Khả năng kháng kháng sinh có thể thay đổi, phụ thuộc vào địa phương,
thời điểm làm kháng sinh đồ và loại vật nuôi.
Trên đây là 7 yếu tố gây bệnh không phải là độc tố của vi khuẩn
Salmonella. Các yếu tố này bằng những cơ chế tác động khác nhau, phương
thức tác động khác nhau, đã tạo điều kiện bất lợi cho cơ thể vật chủ, đồng thời
chúng lại tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn Salmonella gây bệnh. Chính vì
18
thế các yếu tố không phải là độc tố đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình sinh bệnh của vi khuẩn Salmonella. Vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố
này là hết sức cần thiết, góp phần quan trọng trong việc phòng chống bệnh do
vi khuẩn Salmonella gây nên.
2.2.7.2 Các yếu tố là độc tố
Nếu như các yếu tố gây bệnh không phải là độc tố là những tác nhân
gián tiếp, quan trọng trong quá trình sinh bệnh của vi khuẩn Salmonella, thì
các yếu tố gây bệnh là độc tố lại là tác nhân trực tiếp quyết định quá trình sinh
bệnh. Các yếu tố gây bệnh là độc tố của Salmonella bao gồm: nội độc tố
(Endotoxin), ngoại độc tố đường ruột (Enterotoxin) và độc tố tế bào
(Cytotoxin) (Finlay và Falkov, 1988[52])

a) Độc tố đường ruột (Enterotoxin)
Độc tố đường ruột của vi khuẩn Salmonella có hai thành phần chính:
Độc tố thẩm xuất nhanh RPF (Rapid Permeability Factor) và độc tố thẩm xuất
chậm DPF (Delayed Permeability Factor) (Peterson, 1980[64]).
+ Theo Clarke và cs (1988)[44], độc tố thẩm xuất nhanh có cấu trúc
thành phần giống với độc tố chịu nhiệt của vi khuẩn E. coli (Heat-stabile
toxin: ST).
Yếu tố thẩm xuất nhanh giúp Salmonella xâm nhập vào tế bào biểu mô
của ruột, và thực hiện khả năng thẩm xuất sau 1- 2 giờ, kéo dài 48 giờ và làm
trương tế bào CHO (Chinese Hamster Ovary cell). ST có khả năng chịu được
nhiệt độ 100
o
C trong 4 giờ, bền vững ở nhiệt độ thấp, có thể bảo quản ở
-20
o
C. Cấu trúc phân tử gồm nhiều polysaccharide và một số chuỗi
polypeptide.
Độc tố RPF kích thích lên hệ thống men Guanylate Cyclase trong tế
bào biểu mô ruột, chuyển GTP thành GDP. Trong tế bào, GDP tăng cao làm
cho nồng độ ion Ca
++
cũng tăng cao, dẫn đến ngăn cản hấp thu chất điện giải
và nước ở trong xoang ruột. Do vậy, lượng nước trong ruột tăng cao, kích
19
thích niêm mạc ruột, tăng co bóp, làm gia súc ỉa chảy.
Theo Đỗ Trung Cứ (2001)[4]: 72,7% các chủng Salmonella phân lập được
từ lợn sau cai sữa bị ốm, chết nghi Phó thương hàn sản sinh độc tố chịu nhiệt.
+ Yếu tố thẩm xuất chậm của Salmonella có cấu trúc, thành phần giống
độc tố không chịu nhiệt của vi khuẩn E. coli (Heat Labile Toxin: LT). Nó thực
hiện chức năng thẩm xuất chậm từ 18- 24 giờ, có thể kéo dài 36- 48 giờ. DPF

bị phá hủy ở 70
o
C trong vòng 30 phút và ở 56
o
C trong vòng 4 giờ. Cấu trúc
phân tử gồm 3 chuỗi polypeptide và một số hợp chất khác, phân tử lượng
40.000- 50.000 dalton.
Độc tố thẩm xuất chậm của Salmonella làm thay đổi quá trình trao đổi
nước và chất điện giải, dẫn đến tăng cường bài xuất nước và chất điện giải từ
mô bào vào lòng ruột, cản trở sự hấp thu, gây thoái hóa lớp tế bào villi của
thành ruột gây tiêu chảy.
Đỗ Trung Cứ và cs (2003)[5] đã kết luận: 81,81% số chủng S.
typhimurium phân lập từ lợn mắc bệnh tiêu chảy sản sinh độc tố không chịu
nhiệt (LT) có khả năng gây tích nước trong ruột non của lợn thí nghiệm.
b) Nội độc tố (Endotoxin)
Nội độc tố nằm ở lớp màng ngoài của tế bào vi khuẩn và được cấu tạo
bởi thành phần cơ bản là Lipopolysaccharide (LPS). LPS có cấu tạo phân tử
lớn, gồm 3 vùng riêng biệt với các đặc tính và chức năng riêng biệt: Vùng ưa
nước, vùng lõi và vùng lipit A.
Vùng ưa nước bao gồm một chuỗi Polysaccharide chứa các đơn vị cấu
trúc kháng nguyên O. Vùng lõi có bản chất là acid heterooligosaccharide, ở
trung tâm, nối kháng nguyên O với vùng lipit A. Vùng lipit A đảm nhận chức
năng nội độc tố của vi khuẩn. Cấu trúc nội độc tố gần giống với cấu trúc của
kháng nguyên O. Cấu trúc nội độc tố biến đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi độc lực
của Salmonella. Các đột biến gen ở vùng lõi, vùng ưa nước làm cho
Salmonella không còn độc lực (Trần Quang Diên, 2002[8]).
20
Lipit A có ái lực với màng tế bào, với lipit khác và với Protein. Điều đó
chứng tỏ lipit A chính là trung tâm hoạt động của nội độc tố. Vùng đa đường
Polysaccharide, chỉ giữ vai trò là vật mang các lipit không hòa tan (Bradley,

1979[39]).
Nội độc tố là LPS được tiết ra từ vách tế bào vi khuẩn khi bị dung giải.
Trước khi thể hiện độc tính, LPS cần phải liên kết với các yếu tố liên kết tế
bào hoặc các receptor bề mặt các tế bào như: Tế bào lâm bao cầu B, lâm bao
cầu T, tế bào đại thực bào, tiểu cầu, tế bào gan lách.
Rất nhiều các cơ quan trong cơ thể vật chủ chịu sự tác động của nội độc
tố LPS: Gan, thận, cơ, hệ tim mạch, hệ tiêu hóa và hệ thống miễn dịch với các
biểu hiện bệnh lý như: Tắc mạch máu, giảm trương lực cơ, thiếu oxy mô bào,
toan huyết, rối loạn tiêu hóa, mất tính thèm ăn.
c) Độc tố tế bào (Cytotoxin)
Đặc tính chung của Cytotoxin là có khả năng ức chế tổng hợp Protein
của tế bào có nhân và làm trương tế bào CHO (Chinese Hamster Ovary cell)
Đa phần độc tố của chúng bị phá hủy bởi nhiệt độ.
Theo Clarke và cs (1988)[44], làm tổn thương tế bào biểu mô là đặc
tính quan trọng của Cytotoxin. Có ít nhất là 3 dạng Cytotoxin:
+ Dạng 1: Không bền vững với nhiệt và mẫn cảm với Trypsin. Độc tố
này có trọng lượng phân tử khoảng 56- 78 kDa, nó tác động theo cơ chế là ức
chế tổng hợp Protein của tế bào Hela và làm teo tế bào.
+ Dạng 2: Có nguồn gốc từ Protein màng ngoài tế bào vi khuẩn, có cấu
trúc và chức năng gần giống với các dạng độc tố tế bào do Shigella và các
chủng Enterotoxigenic E. coli (ETEC) sản sinh ra. Dạng độc tố này cũng có ở
hầu hết các serovar Salmonella gây bệnh.
+ Dạng 3: Dạng này có liên quan với Hemolysin. Dạng độc tố này tác
động lên tế bào theo cơ chế dung giải các không bào nội bào. Trong phòng thí
nghiệm, độc tố này gây chết tế bào Vero, tế bào Hela và tế bào CHO (Rahman
và cs, 1992[69]).
21
Trên đây là 3 loại độc tố gây bệnh chính của vi khuẩn Salmonella,
chúng là các tác nhân trực tiếp, quyết định khả năng gây bệnh của vi khuẩn.
Một số serotyp như: S. choleraesuis, S. typhimurium, S. enteritidis, S.

dublin, S. gallinarum, S. pullorum có mang các plasmid có kích thước lớn
(khoảng từ 50- 100 kb). Chính những plasmid này có mang các yếu tố di
truyền quyết định khả năng sản sinh các yếu tố độc lực gây bệnh cho người và
gia súc với tỷ lệ ốm và chết cao (Krause và Fang, 1995[59]).
2.3 Bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra ở lợn
2.3.1 Đặc tính sinh bệnh
Theo Quinn và cs (2002)[68], sự lây truyền Salmonella thường qua con
đường phân-miệng, nhưng nhiễm trùng qua niêm mạc của kết mạc mắt và
đường hô hấp trên cũng có khả năng xảy ra.
Cũng theo Quinn và cs (2002)[68], Salmonella cần xâm nhập vào ruột
non và kết tràng để gây bệnh đường ruột. Tuy nhiên, những axit hữu cơ bay
hơi được sản sinh bởi hệ vi sinh vật yếm khí bình thường trong đường ruột có
khả năng ức chế sự phát triển của Salmonella. Hệ vi sinh vật hiếu khí bình
thường cũng có thể ngăn cản việc tiếp xúc với các vị trí bám gắn cần cho loài
Salmonella. Sự rối loạn của hệ vi sinh vật do các yếu tố như: Dùng kháng
sinh, khẩu phần ăn, mất nước làm tăng khả năng mẫn cảm của vật chủ với sự
nhiễm trùng. Nhu động ruột giảm, stress do vận chuyển và chật chội cũng tạo
điều kiện cho sự xâm nhập đường ruột của Salmonella.
Mầm bệnh sau khi nhiễm vào đường tiêu hoá, nhanh chóng đi vào hệ
lâm ba của ruột gây viêm sưng hạch, từ đó vào hệ tuần hoàn, gây bại huyết,
làm cho lá lách sưng to, lúc đầu do tụ máu, về sau do tăng sinh, sản sinh nội
độc tố, gây viêm hoại tử gan và hạch.
Bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra ở lợn có 2 dạng chủ yếu:
Thể nhiễm trùng huyết do S. choleraesuis var kunzendorf gây ra và thể
viêm ruột do S. typhimurium.
22
2.3.2 Thể nhiễm trùng huyết do S. choleraesuis var kunzendorf gây ra
Bệnh Phó thương hàn lợn thể nhiễm trùng máu xảy ra chủ yếu ở lợn
sau cai sữa do S. choleraesuis var Kunzendorf gây nên (Laval, 2000[16]). Lợn
bệnh bỏ ăn, ủ rũ, thích nằm tập trung lại với nhau ở góc chuồng tối hay chui

vào ổ rơm, thân nhiệt tăng cao 40,5 – 41,6
o
C. Mí mắt sưng mọng có nốt tím
bầm, viêm kết mạc. Khi bị biến chứng, gây viêm phổi, ho khan, có dịch đờm.
Xuất huyết lấm tấm dưới da, tụ lại thành những vết đỏ thẫm trên da bụng và
tai. Sau 3 – 4 ngày bị mắc bệnh, lợn ỉa chảy có màu vàng. Tác động lâm sàng
của bệnh Phó thương hàn thể nhiễm trùng máu rất nghiêm trọng và gây chết.
Trong các ổ dịch, tỷ lệ lợn bệnh chết ở mức cao, tỷ lệ những con ốm không cố
định, thường dưới 10% tổng đàn (Wilcock, 1995)[81].
Ở thể á cấp tính, hiện tượng ỉa chảy xuất hiện sau 2 – 3 ngày, rồi kéo
dài cho đến khi lợn chết hoặc khỏi bệnh. Phân bài xuất nhiều lần trong ngày,
sau đó phân chảy ra liên tục, phân có màu vàng, vàng xám, vàng nâu ở lợn
con, còn ở lợn trưởng thành phân nhão, phân nước có lẫn máu. Lợn gầy sút
nhanh (Laval, 2000[16]).
Trên da lợn trưởng thành mắc bệnh cũng xuất hiện các mảng da bị đỏ,
hoặc tím bầm ở vùng bụng, tai, bẹn,… sau đó xuất hiện chứng viêm phổi, lợn
ho, thở dốc. Những lợn như vậy thường bị chết do chứng viêm phổi thứ phát
15 ngày sau khi bị bệnh. Tỷ lệ lợn chết ở lợn bị bệnh thể á cấp tính khoảng 40
– 45%. Lợn bị bệnh thường mang trùng và đều đặn thải mầm bệnh ra ngoài
theo phân, nhưng khó phát hiện một cách chính xác (Laval, 2000[16]).
* Bệnh tích đại thể:
Khi mổ khám lợn bệnh, những bệnh tích đại thể quan sát được bao
gồm: Các vết tím xanh ở rìa tai, trên bề mặt da bụng, bẹn, chân và đuôi; xuất
huyết lấm tấm dưới da; hạch màng treo ruột, lách và hạch bạch huyết xưng
phồng lên, các thuỳ lách cứng lại. Trên bề mặt gan có điểm hoại tử nhỏ màu
hơi trắng. Xuất hiện những đám hoại tử màu hồng như trứng gà tây ở thận và
phổi viêm (Trương Văn Dung và Yoshihara Shinobu, 2002[9]).
23
* Bệnh tích vi thể:
Lưới nội mô và hạch bạch huyết tăng trưởng; hoại tử điểm trắng ở gan;

xuất huyết và hoại tử ở hạch bạch huyết của màng treo ruột, màng phổi, màng
bụng, màng bao tim, thận và màng não lấm tấm xuất huyết (Trương Văn
Dung và Yoshihara Shinobu, 2002[9]).
Theo Wilcock (1995)[81], dấu hiệu biến đổi bệnh tích vi thể là do
Salmonella gây ra là ở hạch lympho màng treo ruột: Sưng, xung huyết, xuất
huyết và có điểm hoại tử màu xám, trên bề mặt gan thấy xuất hiện điểm hoại
tử mô bào. Những biến đổi bệnh tích vi thể ở lợn do Salmonella gây ra là
không hề trùng lặp với bất cứ bệnh nào khác ở lợn.
* Chẩn đoán:
Chẩn đoán bệnh Phó thương hàn thể nhiễm trùng máu do S. choleraesuis
var Kunzendorf gây nên không thể chỉ dựa trên các triệu chứng lâm sàng đơn lẻ, vì
các triệu chứng lâm sàng của bệnh giống như nhiều triệu chứng nhiễm trùng khác
ở lợn như bệnh nhiễm trùng do Streptoccocus, bệnh Đóng dấu lợn…
2.3.3 Thể viêm ruột do S. typhimurium
Bệnh Phó thương hàn thể viêm ruột thường do các serotyp S.
typhimurium gây ra ở lợn con từ sau cai sữa đến khoảng 4 – 6 tháng tuổi. Các
thể bệnh hay gặp là cấp tính hoặc mãn tính (Laval, 2000[16]).
* Triệu chứng:
Thời kỳ nung bệnh thường từ 3 – 4 ngày. Một trong những triệu chứng
đầu tiên là ỉa chảy, phân dạng nước màu vàng, lẫn máu và chất nhầy. Lợn ốm
bỏ ăn, thường uống nhiều nước. Đợt sốt đầu tiên kéo dài chừng một tuần, tiếp
theo một thời kỳ không sốt mấy ngày, rồi lại tiếp tục sốt. Ở một số lợn ốm
thấy bị viêm khớp, chân bị què, đứng không vững, đi xiêu vẹo. Ngoài triệu
chứng tiêu chảy, lợn ốm còn bị viêm phổi, lợn ho, thở gấp, nước mũi chảy
nhiều. Hầu hết lợn bệnh bình phục nếu được điều trị kịp thời, nhưng chủ yếu
chuyển sang thể mãn tính kéo dài vài tháng. Tỷ lệ lợn chết dao động từ 40% –
24
50%. Số con còn sống sót chậm lớn, còi cọc. Những lợn khỏi bệnh thường
mang trùng và thải mầm bệnh ra ngoài môi trường (Laval, 2000[16]).
* Bệnh tích đại thể

Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2004)[17], bệnh tích thường thấy ở ruột,
nhất là ruột già. Trong thể cấp tính, niêm mạc ruột thấm máu tràn lan, khi cắt
ra trông giống như mỡ và có thể có màng giống như sợi huyết phủ ở trên, lách
sưng to và dai như cao su.
Trong thể mãn tính, bệnh tích đặc biệt là thối loét ở niêm mạc ruột.
Những mụn loét to hay nhỏ, màu vàng xanh hoặc xám, chứa đầy một thứ bã
đậu, xung quanh có bờ đỏ và nhẵn. Van hồi manh tràng bị loét cúc áo, có phủ
một lớp màng (Trương Văn Dung và Yoshihara Shinobu, 2002[9]).
* Bệnh tích vi thể:
Sự hoại tử nông hay sâu trên bề mặt của lớp tế bào biểu mô ruột là
những bệnh lý vi thể đặc trưng của thể viêm ruột; có trường hợp thấy nổi gồ
lên khỏi niêm mạc xung huyết của ruột những hạt tròn như hạt đậu màu trắng
vàng. Phần đầu lông nhung trong hồi tràng bị teo ngắn lại. Đa số trường hợp
thấy mảng payer bị loét dưới đáy như phủ một lớp tổ chức hoại tử màu vàng
trắng, niêm mạc dạ dày có điểm chảy máu rải rác, có một số loét nhỏ tập
trung ở bờ cong nhỏ. Gan xung huyết, trên bề mặt gan có thể thấy những nốt
u nhỏ (áp xe) mang tính đặc trưng cho thể bệnh không giống với điểm hoại tử
trong thể nhiễm trùng huyết (Phạm Sỹ Lăng và cs, (2004)[17]).
* Chẩn đoán:
+ Chẩn đoán lâm sàng: Ở thể viêm ruột của bệnh Phó thương hàn, căn
cứ vào các triệu chứng điển hình như viêm ruột và dạ dày ở lợn con từ sau cai
sữa đến 4 tháng tuổi. Đồng thời, dựa vào kết quả nuôi cấy, phân lập vi khuẩn
trên môi trường pepton và kiểm tra di động trên môi trường thạch và xét
nghiệm huyết thanh học.
25

×