Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Quan hệ Việt Nam và ASEAN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.38 KB, 23 trang )

1. Quan hệ Việt Nam và ASEAN
Quan hệ quốc tế ( International relations) với tư cách là một khoa
học đã được nghiên cứu và giảng dạy từ lâu trên thế giới. Từ những
nă m 1950 trở lại đây, nhiều công trình nghiên cứu có giá trị trong
lĩnh vực quan hệ quốc tế đã được công bố ở trong và ngoài nước.
Tuy nhiên ở Việt Nam, cho đến nay các công trình liên quan đến lịch
sử quan hệ quốc tế còn rất ít. Chúng ta hầu như chưa có những
chuyên khảo đáng kể về vấn đề này. Hiện nay, bước sang thế kỉ XXI,
cùng với việc thay đổi mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, thế giới
hóa, Việt Nam cũng đang bước vào lộ trình hội nhập sâu rộng, vấn
đề quan hệ quốc tế càng được quan tâm sâu sắc hơn so với trước
đây. Các nhà nghiên cứu nhất là những nhà hoạch định chiến lược
ngoại giao, các nhà sử học đã có nhiều công trình nghiên cứu và các
bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Nội dung của nó tập
trung vào các vấn đề toàn cầu hóa, khu vực hóa, “hòa nhập chứ
không hòa tan”,… . Trong đó vấn đề thiết lập các mối quan hệ chặc
chẽ trong khu vực, các nước láng giềng được đặc biệt quan tâm.
Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vược Đông Nam Á, có vị trí chiến
lược quan trọng, là đầu mối giao lưu với nhiều nước trong khu vực và
thế giới. Với vị trí chiến lược quan trọng đó, Việt Nam có nhiều thuận
lợi tuy cũng gặp không ít khó khăn trở ngại nhất định. Chính vì vậy,
thiết lập một mối quan hệ khu vực chặc chẽ, đoàn kết hỗ trợ nhau,
cùng tồn tại hòa bình và phát triển, đó là nhu cầu tiên quyết không
những chỉ của Việt Nam, mà còn là nhu cầu chung của tất cả các
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, đó cũng chính là nhu cầu của
toàn nhân loại.
Cũng với nhu cầu ấy, tổ chức ASEAN đã ra đời và nhanh chóng trở
thành một tổ chức khu vực về chính trị - kinh tế - văn hóa - khoa học
kỹ thuật có uy tín lớn.
I. XU HƯỚNG ĐỐI ĐẦU CHUYỂN SANG ĐỐI THOẠI VÀ HỌP
TÁC


Vừa ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia bị lôi cuốn
vào tình trạng đối đầu của cuộc chiến tranh lạnh của hai siêu cường
Xô – Mỹ, thậm chí có lúc như bên bờ vực của cuộc chiến tranh mới.
Tình hình đó trở thành nhân tố chủ yếu tác động và chi phối quan hệ
quốc tế trong hơn 4 thập kỷ của thế kỷ XX. Chiến tranh lạnh vẫn tiếp
diễn nhưng đến đầu n hững năm 70 xu thế hòa hoãn Đông – Tây đã
xuất hiện, với những cuộc gặp gỡ thương lượng Xô – Mỹ.
Chiến tranh lạnh kết thúc, vấn đề Campuchia được giải quyết đã
mang lại những cơ hội mới về quan hệ “thân thiện và hợp tác” cho
các quốc gia khu vực Đông Nam Á. Bước vào những năm 60 của thế
kỷ XX, tình hình Đông Nam Á có nhiều biến chuyển tác động đến các
nước trong khu vực. Sau hơn 20 năm đấu tranh giành và bảo vệ độc
lập cũng như xây dựng kinh tế, nhiều nước trong khu vực bước vào
thời kì ổn định, dốc sức phát triển kinh tế. Các nước đều có nhu cầu
hợp tác nhau để cùng phát triển. Trong bối cảnh của Mỹ bị sa lầy
trong chiến trường Đông Dương họ muốn liên kết lại để giảm bớt sự
ảnh hưởng của các nước lớn. Hơn nữa, nhiều tổ chức mang tính khu
vực trên thế giới xuất hiện, nhất là thành công của khối EEC, đã cổ
vũ rất lớn đối với các quốc gia Đông Nam Á trong việc thành lập cho
mình một tổ chức khu vực như thế.
ASEAN ra đời nhằm tăng cường liên kết khu vực trong bối cảnh toàn
cầu hoá và khu vực hoá, ASEAN đã đưa ra các hình thức hợp tác mới
phù hợp với sự phát triển của tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh
như: Các kế hoạch xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA
trong vòng 10 năm đối với các nước thành viên cũ (1993 - 2003), và
các thời hạn đối với các nước thành viên mới là 2006 và 2008; Diễn
đàn khu vực ASEAN - ARF (1994), chương trình hợp tác công nghiệp
ASEAN - AICO (4/1996); và khu vực đầu tư ASEAN - AIA (10/1998),
Chương trình hành động Hà nội (12/1998)
II. QUAN HỆ VIỆT NAM – ASEAN

1. Quá trình hình thành và phát triển
1.1. Khái quát
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian
Nations-ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967 bởi Tuyên bố Băng-
cốc, Thái Lan, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình phát
triển của khu vực.
Khi mới thành lập ASEAN gồm 5 nước là In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a,
Phi-lip-pin, Xin-ga-po và Thái Lan. Năm 1984 ASEAN kết nạp thêm
Bru-nây làm thành viên thứ 6. Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành
thành viên thứ 7 của Hiệp hội. Ngày 23/7/1997 kết nạp Lào và Mi-an-
ma. Ngày 30/4/1999, Căm-pu-chia trở thành thành viên thứ 10 của
ASEAN, hoàn thành ý tưởng về một ASEAN bao gồm tất cả các quốc
gia Đông Nam Á, một ASEAN của Đông Nam Á và vì Đông Nam Á.
Hiện nay, sau khi Đông Timo được Liên Hiệp Quốc công nhận là quốc
gia độc lập, Đông Timo cũng là quan sát viên của ASEAN.
Các nước ASEAN (trừ Thái Lan) đều trải qua giai đoạn lịch sử là
thuộc địa của các nước phương Tây và giành được độc lập vào các
thời điểm khác nhau sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc dù ở trong
cùng một khu vực địa lý, song các nước ASEAN rất khác nhau về
chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hoá, tạo thành một sự đa dạng
cho Hiệp hội.
ASEAN có diện tích hơn 4.5 triệu km2 với dân số khoảng 575 triệu
người; GDP khoảng 1281 tỷ đô la Mỹ và tổng kim ngạch xuất khẩu
750 tỷ USD. Các nước ASEAN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú và hiện nay đang đứng hàng đầu thế giới về cung cấp một số
nguyên liệu cơ bản như: cao su (90% sản lượng cao su thế giới);
thiếc và dầu thực vật (90%), gỗ xẻ (60%), gỗ súc (50%), cũng như
gạo, đường dầu thô, dứa Công nghiệp của các nước thành viên
ASEAN cũng đang trên đà phát triển, đặc biệt trong các lĩnh vực: dệt,
hàng điện tử, dầu khí, các loại hàng tiêu dùng. Những sản phẩm này

được xuất khẩu với khối lượng lớn và đang thâm nhập một cách
nhanh chóng vào các thị trường thế giới. ASEAN là khu vực có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao so với các khu vực khác trên thế giới, và
được coi là tổ chức khu vực thành công nhất của các nước đang phát
triển.
Tuy nhiên mức độ phát triển kinh tế giữa các nước ASEAN không
đồng đều. Mi-an-ma hiện là nước có thu nhập quốc dân tính theo
đầu người thấp nhất trong ASEAN, chỉ vào khoảng hơn 200 đôla Mỹ.
In-đô-nê-xi-a là nước đứng đầu về diện tích và dân số trong ASEAN,
nhưng thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ vào khoảng trên
600 đôla Mỹ. Trong khi đó, Xin-ga-po và Bru-nây là hai quốc gia nhỏ
nhất về diện tích (Xin-ga-po ) và về dân số (Bru-nây) lại có thu nhập
theo đầu người cao nhất trong ASEAN, vào khoảng trên 30.000 đô la
Mỹ/năm.
Ở các nước ASEAN đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu mạnh
mẽ theo hướng công nghiệp hoá. Nhờ chính sách kinh tế “hướng
ngoại”, nền ngoại thương ASEAN đã phát triển nhanh chóng, tăng
gần năm lần trong 20 năm qua, đạt trên 160 tỷ đôla Mỹ vào đầu
những năm 1990 (nay là 750 tỷ đôla Mỹ). ASEAN cũng là khu vực
ngày càng thu hút nhiều vốn đầu tư của thế giới. Nếu năm 2005,
tổng số vốn đầu tư mà ASEAN thu hút được tăng 16,9% so với năm
2004, thì năm 2006, tổng số vốn đầu tư đã tăng 27,5%.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển:
a. Sự ra đời:
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời trong bối cảnh có
nhiều biến động đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, bao
gồm cả những thay đổi từ bên ngoài tác động vào khu vực cũng như
những vấn đề nảy sinh từ bên trong mỗi nước. Để đối phó với các
thách thức này, xu hướng co cụm lại trong một tổ chức khu vực với
một hình thức nào đó để tăng cường sức mạnh bản thân đã xuất

hiện và phát triển trong các nước thành viên tương lai của ASEAN.
Trước ASEAN, ở Đông Nam Á đã có một vài tổ chức khu vực ra đời
và tồn tại được một thời gian ngắn hoặc đã manh nha hình thành.
Đó là Hiệp hội Đông Nam Á ( The Association of Southeast Asia-
ASA) được thành lập ngày 31/7/1961. gồm Thái Lan, Phi-lip-pin và
Liên bang Ma-lay-xi-a và tổ chức MAPHILINDO ra đời tháng 8 năm
1963 bao gồm Mã Lai, Phi-lip-pin và In-đô-nê-xi-a.
Mặc dù vậy, những nỗ lực theo hướng trên vẫn được xúc tiến và
ngày 8/8/1967 Bộ trưởng Ngoại giao các nước In-đô-nê-xi-a, Thái
Lan, Phi-lip-pin, Xin-ga-po và Phó Thủ tướng Ma-lai-xi-a ký tại Băng-
cốc bản Tuyên bố thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN).
b. Một số mốc phát triển quan trọng:
Tuyên bố Băng-cốc:
Đây là Tuyên bố thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam á với mục
tiêu đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn
hoá; tăng cường hợp tác giúp đỡ lẫn nhau cũng như thúc đẩy hoà
bình, ổn định trong khu vực. ASEAN không có Hiến chương riêng,
trong 9 năm đầu ASEAN không có một Ban thư ký để phối hợp hoạt
động của mình.
Tuyên bố Cua-la Lăm-pơ:
Tháng 11/1971, các nước ASEAN đã đưa ra văn bản quan trọng đầu
tiên là Tuyên bố Cua-la Lăm-pơ về thiết lập Khu vực Hoà bình, Tự do
và Trung lập ở Đông Nam á (ZOPFAN). Tuyên bố này đã định ra các
mục tiêu cơ bản và lâu dài của ASEAN là xây dựng Đông Nam á
thành một khu vực hoà bình, tự do, và trung lập, không có sự can
thiệp dưới bất cứ hình thức nào của các cường quốc bên ngoài.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ I năm 1976
Hội nghị Cấp cao ASEAN đã họp lần đầu tiên tại Ba-li (In-đô-nê-xi-a)
từ 23-24/2/1976. Tại hội nghị này các vị đứng đầu chính phủ ASEAN
đã ký hai văn kiện quan trọng:

- Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á (Hiệp ước Ba-li),
khẳng định 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình (TAC).
- Tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN: Cam kết cùng phối hợp để đảm
bảo sự ổn định khu vực cũng như tăng cường sự hợp tác kinh tế, văn
hoá, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên của ASEAN.
Tại Hội nghị Cấp cao này, các nước ASEAN cũng đã ký Hiệp định
thành lập Ban thư ký ASEAN (có trụ sở đặt tại Gia-các-ta) để phối
hợp hoạt động giữa các uỷ ban và dự án hợp tác ASEAN.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ II năm 1977
Từ ngày 4-5/8/1977, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ hai đã được tổ
chức tại Cua-la Lăm-pơ nhân kỷ niệm 10 năm ngày thành lập ASEAN.
Hội nghị đạt được hai kết quả quan trọng. Thứ nhất, chính thức hình
thành cơ chế đối thoại giữa ASEAN với các nước công nghiệp phát
triển nhằm nâng cao vai trò của ASEAN trong cộng đồng quốc tế. Lần
đầu tiên những Người đứng đầu Chính phủ của ba nước ngoài khu
vực là Nhật Bản, Ô- xtrây-li-a, Niu Di-lân đã tham gia đối thoại với
ASEAN sau Hội nghị chính thức. Đến nay, ASEAN có 11 nước và tổ
chức đối thoại là: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôt-xtrây-lia, Niu
Di-lân, ấn Độ, Nga, EU, Mỹ, Ca-na-đa và UNDP. Ngoài ra, ASEAN còn
có cơ chế đối thoại theo lĩnh vực với Pakistan. Thứ hai, cơ cấu lại Uỷ
ban hợp tác ASEAN để chuẩn bị cho việc mở rộng hợp tác ASEAN ra
mọi lĩnh vực.
Kết nạp Bru-nây Đa-ru-xa-lam
Bru-nây Đa-ru-xa-lam là quan sát viên của ASEAN từ năm 1981.
Ngày 1/1/1984, Bru-nây nộp đơn xin gia nhập ASEAN và ngày
7/1/1984, Bru-nây được chính thức kết nạp vào ASEAN với nghi lễ
trọng thể tại Gia-các-ta và trở thành thành viên thứ sáu của Hiệp hội
ASEAN.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ III năm 1987
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ III được tổ chức tại Ma-ni-la, Phi-lip-

pin từ 14-15/12/1987, nhân kỷ niệm 20 năm thành lập ASEAN. Tại
Hội nghị này, các vị đứng đầu Chính phủ các nước ASEAN đã thông
qua nhiều văn kiện quan trọng sau:
- Tuyên bố Ma-ni-la năm 1987: bày tỏ quyết tâm của các nước
ASEAN tiếp tục thúc đẩy và củng cố đoàn kết và hợp tác khu vực,
giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, đẩy mạnh hơn
nữa hợp tác kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào hợp
tác ASEAN.
- Nghị định thư Ma-ni-la sửa đổi Điều 14 và Điều 18 của TAC để các
nước ngoài khu vực có thể tham gia.
- Hiệp ước khuyến khích và bảo đảm đầu tư ASEAN.
- Nghị định thư về mở rộng danh mục thuế ưu đãi theo thoả thuận
ưu đãi thương mại ASEAN (PTA).
Về cơ cấu tổ chức, Hội nghị quyết định thành lập cơ chế Hội nghị liên
Bộ trưởng (JMM) bao gồm Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế
và thể chế hoá các cuộc họp quan chức cao cấp (SOM) và cuộc họp
các quan chức cao cấp về kinh tế (SEOM).
Trong dịp này, các vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các nước
ASEAN cũng quyết định sẽ họp 3-5 năm một lần.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IV năm 1992
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IV được tiến hành ở Xin-ga-po từ
27-28/1/1992. Tại Hội nghị này, ASEAN đã thông qua những văn kiện
và quyết định quan trọng sau:
- Tuyên bố Xin-ga-po năm 1992 khẳng định quyết tâm của ASEAN
đưa sự hợp tác chính trị và kinh tế lên tầm cao hơn và mở rộng hợp
tác sang lĩnh vực hợp tác an ninh
- Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN, nêu ba nguyên tắc là
hướng ra bên ngoài, cùng có lợi và linh hoạt đối với sự tham gia vào
các dự án, chương trình của các nước thành viên; xác định năm lĩnh
vực hợp tác cụ thể là thương mại-công nghiệp-năng lượng-khoáng

sản, nông-lâm-ngư-nghiệp, tài chính-ngân hàng, vận tải-liên lạc và
du lịch.
- Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) quy định cụ thể các biện pháp và các giai đoạn giảm thuế
nhập khẩu tiến tới thực hiện AFTA.
Hội nghị còn quyết định Hội nghị cấp cao sẽ họp 3 năm một lần,
thành lập Hội đồng AFTA cấp Bộ trưởng để theo dõi thúc đẩy việc
thực hiện CEPT và AFTA, giao cho SEOM giám sát các hoạt động hợp
tác kinh tế ASEAN, nâng cấp Tổng thư ký ASEAN lên hàm Bộ trưởng.
Việt Nam và Lào ký tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác (Hiệp
ước Ba-li) tháng 7/1992
Tháng 7/1992, tại AMM25 ở Ma-ni-la, đã diễn ra Lễ ký để Việt Nam
và Lào chính thức tham gia Hiệp ước. Ngay sau lễ ký, ASEAN đã
tuyên bố Việt Nam và Lào trở thành quan sát viên của tổ chức
ASEAN.
Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) tháng 7/1994
Để đảm bảo môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển trong bối
cảnh mới ở khu vực và trên thế giới, tháng 7/1993 các nước ASEAN
quyết định thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) với sự tham gia
của 18 nước trong và ngoài khu vực để bàn về vấn đề an ninh khu
vực (gồm 6 nước ASEAN, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga, Canađa, Liên
minh châu Âu, Ôx-trây-li-a, Niu Dilân, Việt Nam, Lào, Hàn Quốc và
Papua Niu Ghinê).
Việt Nam trở thành thành viên ASEAN tháng 7/1995
Tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 27 ở Băng-cốc (tháng
7/1994) các nước ASEAN đã tuyên bố sẵn sàng chấp nhận Việt Nam
làm thành viên Hiệp hội. Ngày 17/10/1994, Việt Nam đã chính thức
đặt vấn đề trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN. Ngày 28/7/1995,
lễ trọng thể kết nạp Việt Nam làm thành viên thứ 7 của tổ chức
ASEAN đã diễn ra tại Bru-nây, trong dịp họp Hội nghị Ngoại trưởng

ASEAN lần thứ 28.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ V năm 1995
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 5 đã diễn ra tại Băng-cốc tháng
12/1995. Hội nghị đã có những quyết định và văn bản quan trọng
sau:
- Nâng hợp tác chuyên ngành lên tầm cao mới, ngang với hợp tác
chính trị-an ninh và kinh tế nhằm thông qua phát triển con người,
đoàn kết xã hội để đạt sự thịnh vượng chung cho cả khu vực.
- Rút ngắn thời gian thực hiện AFTA từ 15 năm xuống còn 10 năm;
thậm chí có thể hoàn thành trước thời hạn 2003, và mở rộng hợp tác
ASEAN sang lĩnh vực mới như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, lập khu vực
đầu tư ASEAN
- Ký kết Hiệp ước về một khu vực Đông Nam á không có vũ khí hạt
nhân (SEANWFZ), là một văn kiện quan trọng tiến tới xây dựng Đông
Nam á thành một khu vực hoà bình, ổn định.
Hội nghị Cấp cao ASEAN không chính thức lần thứ nhất tại In-đô-nê-
xi-a tháng 12/1996:
Để tăng cường sự tiếp xúc giữa các nhà lãnh đạo cấp cao trong khu
vực để thảo luận những vấn đề cấp bách, các vị lãnh đạo ASEAN đã
thoả thuận: giữa các cuộc họp chính thức sẽ tổ chức các cuộc họp
không chính thức hàng năm. Tháng 12/1996 tại Gia-các-ta đã diễn ra
cuộc họp cấp cao không chính thức đầu tiên.
Lào và Mi-an-ma gia nhập ASEAN tháng 7/1997
Tháng 7/1997 tại AMM 30, Lào và Mi-an-ma chính thức gia nhập
ASEAN.
Hội nghị Cấp cao ASEAN không chính thức lần thứ hai tại Cua-la
Lăm-pơ tháng 12 năm 1997:
Hội nghị này được tổ chức trùng với dịp ASEAN tiến hành kỷ niệm 30
năm ngày thành lập ASEAN. Tại Hội nghị này, các Nguyên thủ cũng
thông qua các văn bản Tầm nhìn ASEAN 2020, đề ra các hướng phát

triển chiến lược của ASEAN trong giai đoạn đầu thế kỷ 21.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VI tại Hà Nội 16-17/12/1998:
Hội nghị đã thông qua các văn kiện quan trọng như Tuyên bố Hà
Nội, Chương trình Hành động Hà Nội, Tuyên bố về các biện pháp
mạnh mẽ (để cải thiện môi trường đầu tư ASEAN), và ký 4 Hiệp định
hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể. Hội nghị còn quyết định kết nạp
Căm-pu-chia làm thành viên thứ 10 của ASEAN và giao cho các Ngoại
trưởng ASEAN tiến hành lễ kết nạp đặc biệt tại Hà Nội.
Lễ kết nạp Căm-pu-chia tại Hà Nội tháng 4/1999
Lễ kết nạp Căm-pu-chia chính thức trở thành thành viên thứ 10 của
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á đã được tổ chức tại Hà Nội vào
ngày 30/4/1999.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VII tại Bru-nây 5-6/11/2001
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VII diễn ra tại Bru-nây Đa-ru-xa-lam
từ ngày 5-6/11/2001 khẳng định lại Chương trình hành động Hà Nội
(HPA) vẫn là định hướng quan trọng để thực hiện Tầm nhìn ASEAN;
đẩy mạnh liên kết ASEAN, nhất là trong lĩnh vực kinh tế; tập trung
trao đổi vấn đề thu hẹp khoảng cách phát triển, giúp các thành viên
mới. Nhân dịp này, Hội nghị cũng đã thông qua Tuyên bố chung
chống khủng bố.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VIII tại Phnôm-pênh, Cam-
pu-chia, 4-5/11/2002
ASEAN nhất trí cần tiếp tục duy trì hoà bình ổn định, tăng cường hợp
tác chính trị, an ninh, cải thiện hình ảnh và vị thế của ASEAN, giải
quyết các bất đồng theo phương thức ASEAN; nhấn mạnh cần triển
khai nhanh các sáng kiến, chương trình đã có qua các biện pháp
chính sau:
- Tăng cường liên kết nội khối, giảm hàng rào phi quan thuế, cải
thiện môi trường đầu tư để tăng buôn bán, đầu tư nội khối trước bối
cảnh các thị trường truyền thống của ASEAN giảm mạnh bởi suy

thoái kinh tế thế giới.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của ASEAN.
- Tập trung triển khai các dự án ưu tiên, nhất là về thu hẹp khoảng
cách, giúp các thành viên mới, phát triển Tiểu vùng như Mê-công.
- Xác định lại mục tiêu phát triển của ASEAN và nghiên cứu chiến
lược phát triển của Hiệp hội để tiến tới hình thành Cộng đồng kinh tế
ASEAN có tính đến những kinh nghiệm của Liên minh Châu âu.
Nhân dịp này, Cấp cao ASEAN - ấn Độ lần đầu tiên được tổ chức và
các nhà Lãnh đạo ASEAN đã nhất trí họp Cấp cao ASEAN + ấn Độ
hàng năm. ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố về cách ứng xử
của các bên ở Biển Đông (DOC), coi đây là một bước quan trọng tiến
đến hình thành Bộ Quy tắc ửng xử ở Biển Đông (COC); và ký Hiệp
định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc, theo
đó dự kiến thời điểm hoàn thành Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN -
Trung Quốc là năm 2010 (với 6 nước ASEAN cũ) và 2015 với 4 nước
ASEAN mới.)
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IX tại Ba-li, In-đô-nê-xi-a, 7-
8/10/2003
Kết quả quan trọng nhất của Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IX là
các Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (Tuyên bố
Bali II) nêu những định hướng chiến lược lớn của ASEAN với mục tiêu
thành lập một cộng đồng ASEAN liên kết mạnh, tự cường vào năm
2020 với ba trụ cột chính là hợp tác chính trị-an ninh (Cộng đồng An
ninh ASEAN-ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng kinh tế ASEAN-AEC),
và hợp tác xã hội/văn hoá (Cộng đồng xã hội/văn hoá ASEAN-ASCC).
Nhằm triển khai Tuyên bố Ba-li II, ASEAN sẽ xây dựng Chương trình
Hành động để thông qua tại Cấp cao ASEAN-10 tại Viêng-chăn tháng
11/2004.
Trung Quốc chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và hợp tác
(TAC). Nhật Bản ký với ASEAN Khuôn khổ Đối tác Kinh tế toàn diện

(CEP), cụ thể hoá các bước đi xây dựng CEP ASEAN-Nhật trong đó có
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Nhật; nêu sáng kiến tổ chức hội nghị
ASEAN-Nhật Bản về đầu tư bên lề Cấp cao Kỷ niệm ASEAN-Nhật bản
tháng 12/2003. Tại Cấp cao ASEAN+ấn Độ: Hai bên ký Hiệp định
khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-ấn Độ, trong đó có lộ
trình xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-ấn Độ (FTA) và
chương trình Thu hoạch sớm. ấn Độ cũng chính thức tham gia Hiệp
ước TAC.
Hội nghị Cấp cao kỷ niệm ASEAN-Nhật Bản, Tô-ky-ô, 11-
12/12/2003
Hội nghị Cấp cao kỷ niệm ASEAN - Nhật Bản là một trong những hoạt
động kỷ niệm 30 năm quan hệ ASEAN - Nhật Bản. Tại Hội nghị này,
Lãnh đạo ASEAN và Nhật đã ký “Tuyên bố Tô-ky-ô về quan hệ đối
tác ASEAN - Nhật năng động và bền vững trong thiên niên kỷ mới”
cùng với “Kế hoạch hành động”. Tuyên bố khẳng định ASEAN và
Nhật quyết tâm phát triển quan hệ toàn diện trong khuôn khổ "đối
tác chiến lược"; nêu 7 chiến lược hành động chung về hợp tác trên
các lĩnh vực: kinh tế - tài chính, phát triển, an ninh - chính trị, phát
triển nguồn nhân lực, văn hoá - xã hội, giao lưu nhân dân, hợp tác
Đông á, và hợp tác trên các vấn đề toàn cầu. Trong đó, trọng tâm
lớn nhất là hợp tác kinh tế, phát triển, đặc biệt là phát triển các tiểu
vùng tăng trưởng của ASEAN như lưu vực Mê-công và BIMP-EAGA
(Khu vực tăng trưởng Đông ASEAN gồm Bru-nêi, In-đô-nê-xia, Ma-
lai-xia và Phi-líp-pin). Ngoài 2 văn kiện trên, Ngoại trưởng Nhật ký
Tuyên bố ý định tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông
Nam á (TAC) và Ngoại trưởng In-đô-nê-xia thay mặt các nước ASEAN
ký Tuyên bố đồng ý việc Nhật tham gia TAC. Nhật sẽ hoàn tất thủ
tục trình Quốc hội và Nhật Hoàng để có thể sớm chính thức tham gia
TAC.
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ X và các Cấp cao liên quan tại Viên-

chăn, Lào, 28 – 30/11/2004:
Thủ tướng nước ta Phan Văn Khải đã tham dự các Hội nghị này.
* Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN, các vị Lãnh đạo đã thông qua một số
quyết định quan trọng sau:
-Để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020 và Tuyên bố Bali II, các vị Lãnh
đạo ASEAN đãký Chương trình Hành động Viên-chăn (VAP) sau khi
hoàn tất Chương trình Hànhđộng Hà Nội (HPA) nhằm xây dựng Cộng
đồng ASEAN vào năm 2020 với 3 trụ cột vềchính trị-an ninh, kinh tế,
văn hoá-xã hội, trong đó có hợp phần về IAI nhằm thuhẹp khoảng
cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN. Các vị Lãnh đạo
cũngthông qua các Kế hoạch Hành động xây dựng Cộng đồng An
ninh ASEAN (ASC) và Cộngđồng Văn hoá - xã hội ASEAN (ASCC);
đồng thời ký Hiệp định khung về 11 lĩnh vựcưu tiên liên kết của
ASEAN nhằm xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN(AEC).
- Các Lãnh đạo ASEAN cũng nhất trí tổ chức Hội nghị Cấp cao Đông
Á lần thứ nhất (EAS-1) vào năm 2005 tại Ma-lai-xi-a.
* Lần đầu tiên đã diễn ra Hội nghị Cấp cao ASEAN với Ốt-xtrây-li-a và
Niu Di-lân để kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ đối thoại. Tại Hội
nghị, các vị Lãnh đạo ASEAN cùng với Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-lân đã
ký “Tuyên bố chung của các Lãnh đạo nhân dịp Cấp cao kỷ niệm
ASEAN với Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-lân”, đề ra phương hướng và biện
pháp tăng cường quan hệ đối thoại trong thời gian tới.
* Trong dịp này, Hàn Quốc và Nga đã chính thức tham gia vào Hiệp
ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC)
Từ năm 2005 đến nay, ASEN tổ chức nhiều hội nghị cấp cao, cả các
hội nghị có sự tham gia của các quốc gia Châu Âu tiến hành luân
phiên tại các thủ đô của các quốc gia ASEAN, đã đi đến nhiều kí kết
thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, khẳng
định quyết tâm đẩy nhanh việc hình thành Cộng đồng ASEAN vào
năm 2015, ký Đề cương Cộng đồng Kinh tế và nhất trí sớm hoàn tất

Đề cương Cộng đồng Chính trị-An ninh và Văn hóa-Xã hội. Thúc đẩy
quan hệ hợp tác với nhiều nước lớn như : Ốt-xtrây-li-a, Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Niu Di-lân), đi đến ký Tuyên bố về
EAS để xác định phương hướng và khuôn khổ cho EAS, xác định EAS
là diễn đàn để đối thoại và hợp tác về các vấn đề lớn cùng quan tâm
về chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội; coi đây là tiến trình
mở với ASEAN đóng vai trò chủ đạo, bổ sung và hỗ trợ cho các diễn
đàn khu vực hiện có.
. Mối quan hệ Việt Nam – ASEAN
Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN ngày 28/7/1995 tại Bru-nây; và
lần đầu tiên tham dự Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 28 và các
Hội nghị liên quan (Bru-nây, 2-3/8/1995) với tư cách thành viên đầy
đủ. Trước đó, tháng 7/1992, Việt Nam đã chính thức tham gia Hiệp
ước Thân thiện và Hợp tác (Hiệp ước Ba-li) và trở thành quan sát
viên của ASEAN. Từ năm 1993, Việt Nam đã tham gia các chương
trình và dự án hợp tác ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học-công nghệ,
môi trường, y tế, văn hoá-thông tin, phát triển xã hội. Việt Nam cũng
tham gia Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong
những nước sáng lập Diễn đàn này.
Việc Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
từ tháng 7 năm 1995, quan hệ Việt Nam - ASEAN đã bước sang một
thời kì mới của hợp tác và phát triển. Việc Việt Nam tham gia ASEAN
cũng đánh dấu sự phát triển quan trọng khác của khu vực: Quá trình
ASEAN mở rộng bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á, cùng
phấn đấu vì hoà bình và sự phồn vinh của khu vực.
Trong 13 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp
quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của Hiệp hội, góp phần
quan trọng vào việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước; củng cố
xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực có lợi cho sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những đóng góp cụ thể của Việt Nam có thể kể đến là: tổ chức
thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN-6 tại Hà Nội (12/1998), giúp
ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác và củng cố vị thế quốc tế trong lúc
Hiệp hội đang ở thời điểm khó khăn nhất do tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997, nhất là việc hoàn tất ý
tưởng một ASEAN-10; thông qua Chương trình Hành động Hà nội
(HPA) để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020. Từ tháng 7/2000 –
7/2001, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ủy ban Thường
trực ASEAN; tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần
thứ 34 (AMM-34) và các Hội nghị liên quan. Các Bộ/ngành của Việt
Nam cũng đăng cai nhiều Hội nghị cấp Bộ trưởng và cấp Quan chức
cao cấp (SOM) về kinh tế và hợp tác chuyên ngành. Việt Nam cũng
đã đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị Liên minh Nghị viện
ASEAN (AIPO) tháng 9/2002 ”, tổ chức Hội nghị giữa các quốc gia
ASEAN và EU (ASEM V) tại Hà Nội năm 2004,… Ngoài ra, Việt Nam
còn có nhiều cống hiến trên các lĩnh vực khác nhằm thúc đẩy sự hợp
tác chặc chẽ nhau về mọi mặt để Đông Nam Á trở thành khu vực hòa
bình, ổn định và phát triển. Vai trò của Việt Nam luôn thể hiện:
Là một nhân tố quan trọng trong khối ASEAN:
Với sự tham gia của Việt Nam năm 1995 và tiếp sau đó là Lào,
Campuchia, Mianma, Đôngtimo, ASEAN hiện nay là một hiệp hội gồm
11 nước với tổng diện tích 4.492.443km2 với gần 600 triệu dân,
chiếm trên 14% dân số thế giới. Tuy sở hữu một thị trường rộng lớn
với dân số có mật độ cao nhưng ASEAN hiện vẫn là một khu vực
nghèo với GDP tính đến năm 2003 chỉ đạt khoảng 687 tỷ USD, chiếm
1,9% toàn thế giới, thu nhập bình quân đầu người đạt 1.253 USD,
thấp hơn nhiều so với mức 5.684 USD của thế giới. Chỉ một thời gian
sau khi Việt Nam gia nhập, ASEAN đã phải trải qua một giai đoạn khó
khăn ngặt nghèo do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ

khu vực năm 1997. Nhiều nước thành viên nằm trong tâm bão đã
phải hứng chịu những cơn “địa chấn” kinh tế từ đó gây bất ổn
nghiêm trọng về xã hội. Trong bối cảnh đó, năm 1998, Việt Nam
được phân công tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6. Vượt qua
nhứng khó khăn về cơ sở vật chất, trình độ kinh nghiệm tổ chức, Hội
nghị cấp cao ASEAN 6 do Việt Nam tổ chức đã thành công rực rỡ với
việc thông qua chương trình hành động Hà Nội định hướng cho sự
phát triển và hợp tác của Hiệp hội trong giai đoạn tiếp theo nhằm
thực hiện thành công chương trình tầm nhìn ASEAN 2020. Đến năm
2000, Việt Nam tiếp tục đảm nhận cương vị chủ tịch Ủy ban thường
trực ASEAN (ASC) khóa 34 tổ chức một loạt hội nghị quan trọng
nhằm củng cố lại đoàn kết, hợp tác, tăng cường vị thế của ASEAN
sau khủng hoảng. Với quan điểm trước hết cần tạo ra một khối liên
kết nội bộ mạnh để nâng cao vị thế của ASEAN trên trường quốc tế.
Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ cùng các nước trong khu vực trên các
diễn đàn khu vực ASEAN (ARF); Diễn đàn sau hội nghị Bộ trưởng an
ninh (PMC) nhằm đối thoại với các nước và các khu vực kinh tế trên
thế giới. Đặc biệt trên mọi diễn đàn, Việt Nam luôn khẳng định
những nguyên tắc cơ bản đã thành bản sắc riêng của ASEAN là:
“đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau” góp
phần giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong ASEAN. Bên cạnh việc
tham gia tích cực vào tất cả các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành như
khoa học công nghệ, văn hóa thông tin, phòng chống tệ nạn xã
hội Việt Nam còn mạnh dạn đăng cai tổ chức các hội nghị về hợp
tác được các nước trong khối đánh giá cao như Tuần lễ khoa học và
công nghệ ASEAN năm 1998; Tuần văn hóa ASEAN năm 2004; Hội
thi tay nghề ASEAN Đối với quan hệ của ASEAN với các đối tác bên
ngoài, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực với vai trò là nước
điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các nước lớn như Hoa
Kỳ, Nga, Nhật Bản Tham gia tích cực tiến trình hợp tác ASEAN+3

với 3 nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc nhằm tiến một không
gian hợp tác toàn Đông Á. Những diễn đàn hợp tác liên khu vực như
diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM); Diễn đàn hợp tác Châu Á – Thái Bình
Dương (APEC) luôn có sự đóng góp rất nhiệt tình của Việt Nam với
nhiều sáng kiến duy trì và phát triển các diễn đàn trên. Đặc biệt là
Hội nghị cấp cao Á-Âu lần thứ 5 tổ chức tại Hà Nội với việc kết nạp
thêm 13 thành viên vào diễn đàn được đánh giá như một dấu mốc
lịch sử nâng cao uy tín của ASEM cũng như của nước chủ nhà Việt
Nam trong con mắt của bạn bè thế giới. Trong cuộc hội đàm với Chủ
tich nước Trần Đức Lương nhân Hội nghị cấp cao Á-Phi tổ chức tại
Inđônêxia ngày 23/4/2005, Tổng thư ký LHQ Kofi Anan đã khẳng
định : “Việt Nam đã đạt được nhiều mục tiêu thiên niên kỷ, đóng vai
trò quan trọng trong khối ASEAN và khu vực. ASEAN và Liên hợp
quốc có thể xây dựng khuôn khổ hợp tác để đóng góp cho hòa bình
và phát triển ”
Việt Nam chú trọng vào quan hệ kinh tế với ASEAN:
Là một khu vực có tốc độ tăng trưởng GDP khá cao trên thế giới,
trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước
trong khối ASEAN diễn ra khá phong phú và hiệu quả. Quan hệ hợp
tác kinh tế Việt Nam-ASEAN cũng đạt được những bước tiến vượt bậc
trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây. Tất nhiên, điều đầu tiên
phải khẳng định, là những nước trong cùng một khu vực với những
điều kiện địa lý, thổ nhưỡng cho sản xuất có nhiều điểm tương đồng
nên quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước còn lại trong khối
vừa là quan hệ hợp tác, vừa là quan hệ cạnh tranh
Trước hết xin nói về quan hệ hợp tác trong lĩnh vực thu hút vốn đầu
tư nước ngoài của Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, tính đến cuối tháng 7/2005, Việt Nam đã tiếp nhận trên 800 dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các nước thành viên khác –
trừ Mianma – còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 11,3

tỷ USD, trong đó đã thực hiện khoảng trên 5 tỷ USD. Cụ thể một số
nước có vốn FDI lớn là Singapore có 424 dự án với số vốn đăng ký
đạt 9.037 triệu USD, ước thực hiện đạt khoảng 3.613 triệu USD, còn
hiệu lực 361 dự án với số vốn 8.130 triệu USD; Malaysia có 196 dự
án với số vốn đăng ký 1.616 triệu USD, ước thực hiện khoảng 850
triệu USD, bằng trên 50% số vốn đăng ký; Thái Lan có 169 dự án,
vốn đăng ký 1.593 triệu USD, ước thực hiện khoảng 50% số vốn
đăng ký, còn hiệu lực 120 dự án với số vốn trên 1.432 triệu USD
Nhìn tổng thể, trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư của
ASEAN chiếm hơn 12% về số dự án, hơn 23% về vốn đăng ký và gần
20% về vốn thực hiện. Hầu hết những dự án này đều phát huy hiệu
quả có lợi cho cả hai phía: nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư.
Các lĩnh vực hợp tác khác như xuất khẩu, du lịch của Việt Nam và các
thành viên còn lại trong ASEAN cũng phát triển với tốc độ khá nhanh.
Tỷ trọng xuất khẩu vào ASEAN năm 2004 đạt 14,3% tổng số xuất
khẩu của Việt Nam. Năm tháng đầu năm nay, tăng trưởng xuất khẩu
của Việt Nam sang thị trường này lên tới 46,4%. Các thị trường có tỷ
lệ nhập khẩu vào Việt Nam cao là Singapore với 1.370 triệu USD;
Malaysia với 601,1 triệu USD; Philipin với 498,6 triệu USD Tuy
nhiên, con số nhập khẩu từ các nước ASEAN quá lớn nên Việt Nam
vẫn là nước nhập siêu từ các thị trường lớn trong khu vực. Điển hình
như năm 2004, nhập siêu từ Singapore là 2.248,5 triệu USD; từ Thái
Lan là 1.367,1 triệu USD Lượng khách du lịch của Khu vực đến Việt
Nam luôn tăng trưởng cao trong vài năm gần đây. Sáu tháng đầu
năm nay khách du lịch tại hầu hết các nước ASEAN vào Việt Nam
tăng bình quân trên 50%
Mười năm gắn bó với ASEAN cũng là khoảng thời gian Việt Nam sát
cánh cùng các nước trong hiệp hội chung sức, chung lòng chèo lái
con thuyền ASEAN vượt qua sóng to giáo cả vươn lên trong quá trình
hội nhập kinh tế toàn cầu . Và những thành quả kinh tế, chính trị xã

hội đã được trong khoảng thời gian đó đã khẳng định quyết định
tham gia ASEAN của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Với sự tham
gia ngày càng quan trọng vào tiếng nói chung của khu vực, chúng ta
đã chứng tỏ là một thành viên tích cực không thể thiếu trong đại gia
đình ASEAN. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục vận động thúc
đẩy qúa trình xóa đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển
thông qua các chương trình phát triển hành lang Đông – Tây, tiểu
vùng sông Mêkông, phát huy vai trò tiên phong chủ lực trong các lĩnh
vực hợp tác là thế mạnh của Việt Nam như: Văn hóa, thông tin, môi
trường .
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ những biến đổi sau Chiến tranh lạnh, trật tự thế giới hai cực Y-an-
ta , chính sách bao vây cấm vận của Mỹ , “ vấn đề Campuchia và
những “ nhận thức, hành động của bản thân các nước ASEAN v.v…) .
Chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị tham
khảo trong chính sách đối ngoại của ta.
- Thứ nhất: Như đã biết,khối ASEAN được thành lập từ năm 1967.
Nhưng khi đó, chúng ta đã đánh giá ASEAN như thế nào? Thực tế là,
trong một thời kỳ khá dài ( 1967-1987 ) “Việt Nam đã xem ASEAN là
một khối quân sự- chính trị được lập ra thay thế SEATO chống Việt
Nam , Trung Quốc và các lực lượng cách mạng ở Đông Nam Á . Cách
đánh giá võ đoán trên đã khiến nước ta không thấy được mặt tích
cực trong chính sách đối ngoại của ASEAN, ngay từ khi tổ chức này
được thành lập vao 8-1967 .Việc xem ASEAN là một tổ chức thân
Mỹ,hoàn toàn thù địch với Việt Nam,Lao,Campuchia đã làm cho
hốngăn cách giữa Việt Nam và các nước láng giềngĐông Nam Á ngày
càng rộng ,càng sâu thêm”.
Cách nhìn nhận, đánh giá về ASEAN như vậy không chỉ ghi rõ dấu ấn
của thời kỳ chiến tranh lạnh trong khuôn khổ của trật tự thế giới hai
cực Y-an-ta đang còn bao trùm thế giới , mà còn cho thấy rõ vấn đề

đã bị “ khúc xạ “ như thế nào qua lăng kính ý thức hệ . Quả thật, “
Chúng ta nhìn nhận các nước là qua lăng kính ý thức hệ : Điều đó đã
làm cho chúng ta không thấy hết được các nhân tố tích cực – thường
là tinh thần yêu nước và bảo vệ dân tộc- của các nước Đông Nam Á
nói chung “ 2 .Nhưng cũng quả thật biết làm sao được” trước đây
chuẩn mực cao nhất trong quan hệ quốc tế là cùng ý thức hệ hay
khác ý thức hệ “
Ngoài ra, điều rất quan trọng là trước thập niên 90 , trong khuôn khổ
của thế giới hai cực Y-an-ta và chiến tranh lạnh , chúng ta cũng chưa
thực sự nhạy bén chuyển hướng kịp thời trong những giải pháp và
phương thực thực hiện mục tiêu bảo vệ an ninh ,chủ quyền và sự
toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia . Ngày nay, với sự kết thức cũa chiến
tranh lạnh, và cuộc cách mang kỹ thuật đang phát triển như vũ bão
cùng với xu hướng khu vực hoá , toàn cầu hoá làm cho tính tương
thuộc giữa các quốc gia tăng lên” làm cho khái niệm về chủ quyền
quốc gia, wsự toàn vẹn lãnh thổ theo cách hiểu cũ khong còn đứng
vững , mặc dù về hình thức, mỗi thành viên vẫn có chủ quyền và
lãnh thổ riêng”
Chẳng hạn, trước kia , khi nói tới độc lập, chủ quyền thì nhiều khi
người ta nghĩ tới một chính sách khép kín về chính trị theo kiểu biệt
lập, tự cấp tự túc về kinh tế . Nhưng ngày nay, trong xu thế toàn cầu
hoá về sự tương thuộc giữa các quốc gia ngày càng lớn, thì nước nào
càng tạo dựng được cho mình một tư thế quốc tế năng động ,linh
hoạt, càng đa dạng hoá được quan hệ đối ngoại, thì càng có khả
năng thực hiện chính sách độc lập tự chủ hơn.Hoặc trước đây, khi
nói tới yêu cầu bảo đảm chủ quyền và an ninh quốc gia cũng như sự
toàn vẹn lãnh thổ, người ta thường nghĩ nhiều các mối nguy cơ từ
bên ngoài. Ngày nay vấn đề không chỉ có vậy. “ Thực tiễn tinh hình
nhiều nước cho thấy, nguy cơ đe doạ chủ quyền và an ninh quốc gia,
sự toàn vẹn lãnh thổ nằm ngay tại ở bên trong ; nhiều khi không bị

nước ngoài xâm lăng, song chủ quyền và an ninh vẫn bị rối loạn,
lãnh thổ bị chia cắt” 5. Do đó, mối đe doạ là nằm cả bên ngoài với
bên trong, hoặc là sự kết hợp cả hai yếu tố đó. Cuối cùng là, trước
đây, khi nói tới phương tiện bảo vệ chủ quyền , an ninh quốc gia và
sự toàn vẹn lãnh thổ , thậm chí cả vị trí và ảnh hưởng quốc tế ,
nhiều khi người ta nhấn mạnh đến biện pháp quân sự và biện pháp
bạo lực . Điều này ngày nay vẫn đúng với ý nghĩa là sức mạnh quân
sự , vẫn có ý nghĩa rất quan trọng “ song không còn giữ vị trí độc tôn
“, thậm chí “ chưa đủ để bảo vệ vững chắc chủ quyền cà an ninh
quốc gia, cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ”. Cần phải có sức mạnh
tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế và sự phát triển có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng đang nổi lên hàng đầu 6. Sau khi kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1954-1975 ) , Việt Nam là
một nước có sức mạnh quân sự vào loại hàng đầu ở Đong Nam Á,
nhưng về kinh tế và sự phát triển thì chúng ta lại không có được sức
mạnh tương ứng – phải mãi đến đầu thập kỷ 90 nước ta mới thoát ra
khỏi tình trạng khủng hoảng .
- Thứ hai: Ngoài việc cần có một tư duy mới về vấn đề độc lập, chủ
quyền,an ninh và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, cũng như quan điểm”
thông thoáng “ về vấn đề ý thức hệ ,trong quan hệ với các nước
ASEAN , cần nhận thức sâu sắc hơn một sự thật khách quan về Việt
Nam là một nước cấu thành khu vực Đông Nam Á .Tư tưởng này đã
được đưa ra trong chính sách 4 điểm nổi tiếng của chính phủ ta ngày
5-7-1976, tức là ngay sau khi nước ta hoàn toàn thống nhất , thể
hiện những quan điểm đúng đắn của Việt Nam trong quan hệ với
Đông Nam A,Ù trước hết là ASEAN.
Tiếc thay trong một thời gian khá dài sau đó cho đến cuối thập kỷ
80, không thể nói là chúng ta đã quán triệt nó thật sâu sắc . Ở đây
chúng tôi cho rằng, ý kiến của cựu đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh là rất
đáng chú ý: “Ông cha ta có câu, “Bán anh em xa mua láng giềng

gần”, bởi vì ta có thể chọn bạn , nhưng không ai có thể chọn được
láng giềng gần”. Bởi vậy, vị trí địa- chính trị , đặc điểm những bạn
láng giềng của mỗi nước là một thách thức tự nhiên”. Quả thực ,
“đây là những chân lý rất đơn giản mà rất tiếc mấy chục năm ta mới
quán triệt được”.
Trên thế giới chính sách nói chung là thích nghi , chung sống với các
nước láng giềng . Dù là với ý đồ nào đi nữa thì cũng có một thực tế
là tư tưởng khu vực hoá và chủ nghĩa khu vực cũng hình thành từ rất
sớm . Ít nhất thì người ta cũng biết được học thuyết Mơn-rô về”
Châu Mỹ của người châu Mỹ” (1823),hoặc “chính sách láng giềng
thân thiện “ của F.Ru-Dơ-Ven (1933 ) . Chúng ta cũng đã từng vừa
hợp tác vừa đấu tranh chung sống với người láng giềng khổng lồ
phương Bắc và các nước láng giềng khác ở các nước Đông Nam Á .
Do dó, cần phải có một quan điểm đúng về những vấn đề liên quan
tới vị trí địa- chính trị , địa –lịch sử và văn hoá của nước nhà , khi mà
xu thế khu vực hoá , toàn cầu hoá cũng như tính tương thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia ngày càng trở nên mạnh mẽ . Thậm chí, có
thể phải chấp nhận cả tình trạng “khi chưa đủ lực ta có thể chưa
quan tâm đầy đủ với một số nước ở xa , nhưng với các nước láng
giềng thì luôn luôn coi trọng” . Chính là nhận thức được tầm quan
trọng ấy của vấn đề mà không phải đợi đến 1995 khi Việt Nam đã gia
nhập ASEAN , mà ngay từ 1992 , tức là khi mới trở thành quan sát
viên của tổ chức này, chúng ta đã khẳng định: “Trong toàn bộ chính
sách đối ngoại của Việt Nam cũng như trong chính sách Châu Á -
Thái Bình Dương của Việt Nam, ưu tiên trước nhất dành cho các
nước trong tiểu khu vực Đong Nam Á, các nước ASEAN, vì lợi ích hoà
bình ổn đinh khu vực cũng như việc lợi ích phát triển kinh tế của Việt
Nam”.
- Thứ ba: Trong quan hệ của Việt Nam với ASEAN cần xử lý tốt quan
hệ với các nước lớn.Thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ chỉ rõ là :

“Bàn đến triển vọng hoà bình , ổn định và phát triển ở toàn Đông
Nam Á, ai cũng hiểu rằng cần tính đến tác động của cả 3 mối quan
hệ :
- Quan hệ giữa các nước có liên quan đến Đông Nam Á.
- Quan hệ giữa các nước Đong Nam Á với các nước lớn .
- Quan hệ giữa các nước Đông Nam Á với nhau.
Quan hệ giữa các nước Đông Nam Á với nhau xét từ góc độ những
kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam, còn trong quan hệ giữa các nước
lớn xét từ góc độ của Việt Nam thì tam giác Xô-Mỹ- Trung có vị trí
đặc biệt quan trọng ( với Liên Xô ở đây tất nhiên là thời kỳ Liên xô
chưa tan rã – trước tháng 12-1991). Chẳng hạn, như đã biết , một
trong những trở ngại lớn nhất đối với tiến trinh hội nhập của Việt
Nam vào ASEAN là “vấn đề Cap-pu-chia”. Việt Nam đã làm tất cả
những gì có thể với tất cả thiện chí của mình để giải quyết vấn đề
này . Nhưng khó mà hình dung được rằng , có thể giải quyết được dễ
dàng “ Vấn đề Cam-pu-chia” mà lại thiếu vai trò của của các nước lớn
. Trên thực tế,” trong suốt thập kỷ 80, ta đã phải xử lý quan hệ với
tất cả các nước lớn về giải pháp cho vấn đề Cam-pu-chia trước hết
cũng là giải pháp do các nước lớn dàn xếp (G.5)”.
Rõ ràng , trong quan hệ với ASEAN cũng như với tất cả các nước
khác theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới”, những bài học rút ra từ lịch sử là hết sức
bổ ích . Ngay từ nửa đầu thế kỷ XIX ,Bộ trưởng ngoại giao Áo là Mét-
téc-ních (1773-1859) đã từng đưa ra một mệnh đề bất hủ : “Không
có đồng minh vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích
là vĩnh viễn mà chúng ta cần theo đuổi” . Trong khi chú ý và tôn
trọng thích đáng các lợi ích chính đáng của các dân tộc – quốc gia
khác, thì với chúng ta lợi ích của dân tộc Việt Nam là tối cao và vĩnh
viễn . Nắm vững lợi ích dân tộc, nêu cao tinh thần độc lậ , tự chủ và
quyền tự quyết dân tộc, hoà hiếu với các nước láng giềng, sẵn sàng

là bạn với tất cả các nước “không gây thù oán với ai” như lời dạy của
chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1947, đó chính là những bảo đảm cho một
Việt Nam có một môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển và
một vị trí ngày càng cao trong cộng đồng thế giới .
Cách đây 13 năm, đúng vào ngày 28/7/1995, lá cờ đỏ sao vàng Việt
Nam tung bay tại thủ đô vương quốc Brunay - nước đăng cai kỳ họp
bộ trưởng ngoại giao ASEAN (AMM) lần thứ 28 - đánh dấu ngày Việt
Nam chính thức trở thành thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á. Một thập kỷ là quá ngắn với lịch sử của một dân tộc hay một
khu vực nhưng thực tế, Việt Nam đã có những đóng góp hết sức to
lớn cho sự phát triển chung của ASEAN và ngày càng chứng tỏ vị thế
tiếng nói của mình trong khu vực và trên thế giới trên tất cả các mặt.
Mười năm gia nhập ASEAN cũng đánh dấu thời kỳ đầu Việt Nam mở
cửa, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Tham gia vào hiệp hội, Việt
Nam đã có những đóng góp với trách nhiệm cao ở tất cả các mặt,
chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh
tế, ngay từ ngày đầu gia nhập, Việt Nam đã nhận thức được rằng
luôn có một khoảng cách tồn tại giữa hai nhóm nước phát triển và
chậm phát triển trong ASEAN. Về việc thu hẹp khoảng cách này để
tạo ra sự phát triển bền vững trong ASEAN là rất quan trọng. Chính
vì vậy, ngay từ Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Việt Nam đã đưa
ra sáng kiến thu hẹp khoảng cách phát triển với tuyên bố Hà Nội
được thông qua tại hội nghị Bộ trưởng ngoại giao lần thứ 34. Sáng
kiến này vừa đáp ứng nhu cầu của ASEAN muốn tăng cường liên kết
nội khối, vừa phục vụ cho nhu cầu vươn lên của các nước thành viên
mới là Lào, Campuchia, Mianma và Việt Nam. Qua mười năm thực
hiện sáng kiến này hiện nay đã trở thành một ưu tiên lớn trong
chương trình nghị sự của ASEAN.
Như vậy, từ khi gia nhập đến nay Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ
với các nước ASEAN ngày càng chặc chẽ và nâng cao vị thế của

mình. Lời phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải nhân kỷ
niệm 38 năm ngày thành lập Hiệp hội ASEAN (8/8/1967 – 8/8/2005)
và kỷ niệm 10 năm ngày Việt Nam gia nhập hiệp hội, ngày 8/8/2205
đã có bài phát biểu quan trọng đánh giá lại những bước phát triển
của cộng đồng ASEAN và mối quan hệ ASEAN - Việt Nam, Thủ tướng
khẳng định: “Thành công lớn nhất của ASEAN là đã góp phần quan
trọng vào việc duy trì và củng cố môi trường hòa bình, ổn định, thúc
đẩy hợp tác cùng phát triển ở khu vực Đông Nam Á Hòa cùng dòng
chảy chung của ASEAN, Việt Nam đã nỗ lực không ngừng cùng các
nước thành viên khác đóng góp cho sự lớn mạnh chung của cả hiệp
hội. Quan hệ Việt Nam ASEAN phát triển đều khắp trên tất cả các
lĩnh vực ”
Như vậy, 13 năm, một chặng đường Việt Nam hội nhập vào khu vực.
Việt Nam đã có những đóng góp nhất định cho sự tồn tại, phát triển
của ASEAN và cũng đã đạt được những thành quả bước đầu. Phía
trước của ASEAN tuy còn nhiều cơ hội để phát triển, song cũng
không ít thách thức đòi hỏi Việt Nam cũng như các thành viên khác
trong ASEAN phải tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ hơn nữa,
cùng nhau đưa ra những ý tưởng mới và các biện pháp thực hiện các
ý tưởng đó để có thể biến ý tưởng của “tầm nhìn 2020” thành hiện
thực, xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN và trở thành một nhân
tố chủ đạo của Cộng đồng Châu Á .

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×