Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Đánh giá vai trò của năng suất nhân tố tổng hợp đối với tăng trưởng kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.12 KB, 74 trang )

MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt 3
Danh mục bảng 4
Danh mục hình 5
Lời mở đầu 1
Chương I 4
Cơ sở lý luận về năng suất nhân tố tổng hợp và tăng trưởng kinh tế Việt
Nam 4
1.1 Cơ sở lý luận về năng suất nhân tố tổng hợp 4
1.1.1 Khái niệm về năng suất 4
1.1.2 Khái niệm năng suất nhân tố tổng hợp 6
1.1.3 Các nhân tố đánh giá năng suất nhân tố tổng hợp 8
1.1.4 Phương pháp đo lường tốc độ gia tăng năng suất tổng hợp 9
1.2 Cơ sở lý luận về tăng trưởng kinh tế 11
1.2.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế 11
1.2.2 Một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế 12
1.2.3 Phương pháp đo lường tốc độ tăng trưởng 19
1.3 Vai trò của năng suất nhân tố tổng hợp đối với tăng trưởng kinh tế 20
Chương II 23
Thực trạng vai trò của năng suất nhân tố tổng hợp đối với tăng trưởng kinh
tế 23
Việt Nam 23
2.1 Thực trạng tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 23
2.1.1 Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) 24
2.1.2 So sánh tốc độ tăng GDP của Việt Nam với một số nước châu Á 29
2.1.3 GDP bình quân đầu người 30
2.1.4 GDP bình quân đầu người với một số nước châu Á 32
2.2 Thực trạng vấn đề năng suất nhân tố tổng hợp tại Việt Nam 33
2.3 Đánh giá vai trò của TFP vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam 39
2.4 Những khó khăn còn tồn tại 42
2.4.1 Vấn đề năng suất lao động và cơ cấu lao động 43


2.4.2 Năng suất lao động và kỹ năng 46
2.4.3 Nhận thức của các nhà hoạch định chính sách cũng như các doanh
nghiệp về vai trò và tác dụng của TFP còn hạn chế 52
2.4.4 Hiệu quả đầu tư thấp 53
Chương III 54
Kinh nghiệm thành công của một số nước và Một số kiến nghị nhằm nâng
cao vai trò của TFP Trong thời gian tới 54
3.1 Kinh nghiệm thành công của một số nước châu Á 54
3.1.1 Hàn Quốc tăng tỷ trọng TFP thông qua đầu tư vào khoa học công
nghệ 54
3.1.2 Xin-ga-po với chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng cao
56
3.2 Một số kiến nghị và chính sánh nhằm nâng cao tỷ trọng và tác dụng
của TFP trong thời gian tới 58
3.2.1 Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 58
3.2.2 Nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp 60
3.2.3 Tăng cường đổi mới công nghệ 61
3.2.4 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 63
3.2.5 Hình thành phong trào năng suất rộng khắp trong cả nước và trong
tất cả các ngành, các lĩnh vực 64
3.2.6 Về công tác thống kê 65
Kết luận 67
Tài liệu tham khảo 68
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
APO: Tổ chức Năng suất châu Á (Asian Productivity Organization)
CMKT: Chuyên môn kỹ thuật
CN-XD: Công nghiệp – xây dựng
DV: Dịch vụ
FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment)
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

GNI: Tổng thu nhập quốc dân (Gross National Income)
GNP: Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Product)
KHKT: Khoa học kỹ thuật
NLN, TS: Nông lâm nghiệp, thủy sản
ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức (Offical Development Assistance)
R&D: Nghiên cứu và phát triển (Research and Development)
TFP: Năng suất nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity)
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Để tồn tại và phát triển, thì bất kỳ một quốc gia nào cũng phải dựa vào sự
tăng trưởng của chính mình. Muốn đạt được sự tăng trưởng thì cần phải tăng
năng suất bởi vì tăng trưởng và tăng năng suất có quan hệ chặt chẽ với nhau, do
đó tăng năng suất có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và phát triển bền vững
của mỗi xã hội.
Từ xưa tới nay các nhà học giả kinh điển cũng như hiện đại đều coi năng
suất đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và sự tiến bộ
chung của toàn nhân loại. Năng suất tác động một cách tổng hợp đến tất cả các
hoạt động sản xuất của xã hội, là yếu tố cần thiết để nâng cao cuộc sống của con
người. Tăng năng suất đảm bảo sự phồn vinh của mỗi quốc gia và đối với sự tiến
bộ của xã hội loài người nói chung. Ngày nay cùng với sự phát triển vượt bậc
của khoa học kỹ thuật, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, tự do
hoá thương mại và sự cạnh tranh gay gắt thì vai trò tăng năng suất có một tầm
cao mới. Nâng cao năng suất được coi là thúc đẩy nội lực của các hoạt động kinh
tế, là nguồn gốc, nền tảng của sự phát triển bền vững của xã hội.
Năng suất các nhân tố tổng hợp (viết tắt tiếng Anh là TFP) là một trong
những chỉ tiêu phản ánh đích thực và khái quát nhất hiệu quả sử dụng vốn và lao
động, là căn cứ quan trọng để phân tích chất lượng tăng trưởng kinh tế đánh giá

tiến bộ khoa học công nghệ của mỗi ngành, mỗi địa phương hay một quốc gia.
Chính vì vậy năng suất các nhân tố tổng hợp đã trở thành chỉ tiêu quan trọng
trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, đang được nhiều nước trên thế giới, trong đó
có các nước thuộc Tổ chức Năng suất Châu Á (viết tắt trong tiếng Anh là APO)
quan tâm nghiên cứu để áp dụng.
Với lý do trên, em quyết định chọn đề tài “Đánh giá vai trò của năng suất
nhân tố tổng hợp đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam” làm khóa luận tốt
nghiệp đế góp phần làm rõ ảnh hưởng của năng suất nhân tố tổng hợp tới tăng
trưởng kinh tế tại Việt Nam trong thời gian qua.
2
2. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian qua, không có nhiều tác giả quan tâm tới vấn đề ảnh hưởng của
TFP tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, họ cũng đưa ra những
phương pháp và công thức tính tác động của TFP tới tăng trưởng. Tiêu biểu là
các công trình:
Phương pháp tính tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp theo cách
tiếp cận thống kê của Phó Giáo sư Tiến sĩ Tăng Văn Khiên đã đề cập đến quá
trình hình thành công thức tính tỷ lệ tăng lên của kết quả sản xuất do nâng cao
năng suất các nhân tố tổng hợp chung.
Viện Năng suất Việt Nam cũng đưa ra một số bài báo khoa học về khái
niệm và cách tính TFP. Ngoài ra, báo cáo năng suất của Viện Năng suất cũng có
khái quát qua đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế tuy nhiên, báo cáo chưa
được cập nhật số liệu mới nhất.
Ngoài ra còn một số công trình nhưng chỉ đưa ra được ảnh hưởng TFP lên
từng ngành nhỏ cụ thể hoặc của một tỉnh, doanh nghiệp nào đó mà các dữ liệu
vẫn chưa được cập nhật đến thời gian gần đây.
Chính vì thế, khóa luận “Đánh giá vai trò của năng suất nhân tố tổng
hợp đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam” sẽ đánh giá ảnh hưởng của TFP vào
tăng trưởng, đưa ra những khó khăn mà Việt Nam đang gặp phải và kết hợp các
bài học kinh nghiệm từ các nước để rút ra những kiến nghị góp phần nâng cao tỷ

trọng và tác dụng của TFP.
3. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, bài viết đề cập đến vai trò của năng suất nhân tố
tổng hợp ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và câu hỏi đặt
ra là liệu TFP có tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế hay không.
Về phạm vi nghiên cứu, giới hạn về thời gian của khóa luận từ năm 2006
đến năm 2014. Giới hạn về không gian là địa bàn Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu
Về phương pháp nghiên cứu, khóa luận sử dụng phương pháp tổng hợp –
phân tích, đưa ra những đánh giá dựa trên dẫn chưng và chứng minh bằng số
liệu cụ thể kết hợp với lý luận và thực tiễn bên cạnh việc mô hình hóa.
3
Về nguồn số liệu, đề tài sử dụng nguồn số liệu từ trang web của Tổng cục
Thống kê, trang web của Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Lao động Quốc tế.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng số liệu trong Niên giám Thống kê và Báo cáo Điều
tra Lao động và Việc làm Việt Nam.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng suất nhân tố tổng hợp và tăng trưởng
kinh tế Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng vai trò của năng suất nhân tố tổng hợp đối với
tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Chương 3: Kinh nghiệm thành công của một số nước và một số kiến
nghị nhằm nâng cao vai trò của TFP trong thời gian tới.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Thạc Sĩ Lê Thảo
Huyền, người đã tận tình hỗ trợ về kiến thức chuyên môn, giúp đỡ em rất nhiều
trong thời gian hoàn thành khóa luận.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới nhà trường, thầy cô đã tạo điều kiện thuận
lợi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp tại trường

Đại Học Ngoại Thương Hà Nội.
Lời cuối cùng, em muốn cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn cổ vũ, động
viên tinh thần để giúp em vượt qua những khó khăn trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 13 tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Nguyễn Trần Cường
4
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG SUẤT NHÂN TỐ TỔNG HỢP
VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
1.1 Cơ sở lý luận về năng suất nhân tố tổng hợp
1.1.1 Khái niệm về năng suất
Quá trình sản xuất xã hội đòi hỏi phải có đủ 3 yếu tố tham gia: lao động,
đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Lao động (con người) sử dụng tư liệu lao động, công cụ lao động, tác động
vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ nhằm đáp ứng yêu
cầu sản xuất và tiêu dùng của cá nhân cũng như xã hội.
Mối tương quan - giữa một bên là lao động, đối tượng lao động và tư liệu
lao động được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh và một bên là sản
phẩm được tạo ra trong quá trình đó; được gọi là năng suất.
Theo ngôn ngữ hiện đại, phần lao động + đối tượng lao động + tư liệu lao
động đã sử dụng trong quá trình sản xuất được gọi là “đầu vào”. Còn sản phẩm
kết quả sản xuất được tạo ra tương ứng với đầu vào đã được sử dụng gọi là “đầu
ra”. Năng suất chính là quan hệ so sánh giữa đầu ra và đầu vào.
Vậy năng suất hiểu một cách khái quát nhất chính là quan hệ so sánh giữa
đầu ra và đầu vào.
Mối quan hệ tích số giữa đầu ra và đầu vào này được thể hiện dưới công
thức sau:

Đầu ra = Năng suất * Đầu vào
Từ xa xưa, loài người đã mong muốn làm việc “ngày một tốt hơn”, “hôm
nay tốt hơn hôm qua, ngày mai tốt hơn hôm nay”. Đó là ước mơ tự nhiên, là ham
mê bản chất nhất của con người; đó là niềm tin, hy vọng, là động lực nội tâm của
mỗi con người, thôi thúc con người tìm mọi cách để làm việc sao cho đạt kết quả
nhiều hơn, có năng suất cao hơn, với chất lượng tốt hơn, thúc đẩy sự phát triển
và tiến bộ không ngừng của nhân loại.
5
Tuy nhiên, khái niệm về năng suất được hình thành muộn hơn và cũng có
quá trình phát triển lịch sử của nó, từ thấp lên cao, từ giản đơn đến phức tạp và
được hoàn chỉnh dần.
Khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu (khoảng cuối thế kỷ
thứ 18), cuộc cách mạng trong kỹ thuật sản xuất thay thế lao động thủ công bằng
lao động cơ giới, chuyển từ công trường thủ công sang công xưởng sản xuất, và
cũng chính từ đó xuất hiện nền sản xuất đại công nghiệp cơ khí, mở rộng phân
công lao động xã hội, thì nền công nghiệp đã có những bước tiến nhảy vọt, “khả
năng, hiệu quả” của sản xuất đạt trình độ cao hơn hẳn trước đó, thì thuật ngữ
năng suất cũng được bắt đầu xuất hiện. Và cũng phải trải qua một thế kỷ mới
hình thành rõ nét với ý nghĩa thông thường lúc đó như là một “khả năng sản xuất
của con người” - năng suất chỉ có giới hạn chủ yếu và đồng nhất với năng suất
lao động.
Hiện nay, định nghĩa về năng suất được coi là có cơ sở khoa học và hoàn
chỉnh nhất là định nghĩa do Uỷ ban Năng suất thuộc Hội đồng Năng suất chi
nhánh châu Âu họp tại Roma năm 1959 đưa ra; định nghĩa này đã được các nước
thừa nhận và áp dụng; theo đó, năng suất là phong cách nhằm tìm kiếm sự cải
thiện không ngừng những gì đang tồn tại; đó là sự khẳng định rằng người ta có
thể làm cho hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai sẽ tốt hơn hôm nay; hơn thế
nữa, nó đòi hỏi những nỗ lực không ngừng để thích ứng các hoạt động kinh tế
với những điều kiện luôn luôn thay đổi và việc áp dụng các lý thuyết và phương
pháp mới.

Khái niệm mới về năng suất bao hàm nội dung trong khi coi trọng sử dụng
hợp lý các yếu tố đầu vào với suất tiêu hao lao động và nguyên vật liệu thấp và
hàm lượng trí tuệ - khoa học công nghệ ngày càng cao. Nói tới năng suất, người
ta chú trọng hơn yêu cầu tổng số đầu ra phải tăng lên, tăng nhanh hơn tổng số
đầu vào, để có ngày càng nhiều sản phẩm, nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của
dân cư, tạo thêm việc làm cho người lao động. Theo một cách khác, tăng năng
suất không chỉ tăng thêm kết quả sản xuất của một đơn vị đầu vào mà còn phải
tăng thêm ngày càng nhiều số đơn vị có mức năng suất cao. Điều đó có nghĩa là
6
tăng năng suất không được phép rút bớt việc làm, mà ngược lại tăng năng suất
phải gắn liền với tăng việc làm cho người lao động.
Cơ sở khoa học và thực tiễn của định nghĩa mới này xuất phát từ một số
nguyên nhân. Thứ nhất, do cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ có bước
phát triển mới, nhanh chóng, vượt bậc, nên các quốc gia, các dân tộc có điều
kiện xích lại gần nhau đã thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo xu
hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, tự do thương mại, với sự cạnh tranh gay gắt để
giành và giữ ưu thế về chất lượng, thời gian và chi phí. Như vậy, để tránh mọi
rủi ro và nguy cơ tụt hậu, các nhà sản xuất, kinh doanh và quản lý phải tính đến
hiệu quả tổng thể của sản xuất và quản lý để phát triển kinh tế, đồng thời phải
hướng vào giải quyết được các vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường, nâng cao
chất lượng cuộc sống. Thứ hai, ý nghĩa thực tiễn của năng suất theo định nghĩa
mới là nó luôn hướng con người tới cái mới, cái hoàn thiện bằng trí tuệ và óc
sáng tạo với quyết tâm cao, với khát vọng mạnh mẽ, không tự mãn với những gì
đã có và luôn hướng tới và chấp nhận sự thay đổi.
Năng suất theo cách tiếp cận mới phản ánh đồng thời tính hiệu quả, hiệu
lực, chất lượng, đổi mới của quá trình sản xuất và chất lượng cuộc sống ở mọi
cấp độ khác nhau. Năng suất như vậy được hình thành với sự đóng góp của tất cả
các hoạt động trong một chuỗi các giai đoạn liên quan từ nghiên cứu, khảo sát,
thiết kế, tiếp thị, sản xuất, cung ứng cho người tiêu dùng, … Với những nội hàm
mới như vậy, năng suất đã trở thành công cụ quản lý, một thước đo của sự phát

triển.
1.1.2 Khái niệm năng suất nhân tố tổng hợp
Khi đo lường năng suất có thể xem xét năng suất cho từng nhân tố, nhóm
hay toàn bộ các nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất. Việc đo lường năng suất
cho từng nhân tố thì đơn giản hơn nhưng sử dụng để phân tích thì rất khó khăn.
Ví dụ nhờ đầu tư rất nhiều vào máy móc, còn lao động giữ nguyên về lượng lẫn
chất thì năng suất lao động (NSLĐ) vẫn tăng. Khi nghiên cứu các số liệu thống
kê, các nhà phân tích kinh tế đã phát hiện ra rằng, tại các nước có trình độ phát
triển cao, trong tốc độ tăng lên của kết quả sản xuất, sau khi loại trừ phần đóng
góp do các yếu tố đầu tư thêm lao động và vốn, đất đai, tài nguyên, … thì vẫn
7
còn lại một phần dư đáng kể; và phần dư này tùy thuộc vào quá trình áp dụng
ngày càng nhiều hơn các tiến bộ khoa học, công nghệ, tri thức quản lý hiện đại.
Hiểu một cách khái quát, thì phần “dôi ra” này chính là năng suất các nhân tố
tổng hợp (TFP- Total Factor Productivity). Thuật ngữ tiếng Anh “Total Factor
Productivity” được dịch ra tiếng Việt theo nhiều cách, có tài liệu dịch là “Tổng
năng suất nhân tố” hay như trong Báo cáo chỉ tiêu năng suất Việt Nam 2006-
2007 của Trung tâm Năng suất Việt Nam (2009), TFP được dịch là “Năng suất
các yếu tố tổng hợp”. Tuy nhiên, dưới góc độ của người viết, thuật ngữ này nên
được dịch là “Năng suất nhân tố tổng hợp”, căn cứ vào bản chất của vấn đề này
cũng như cấu trúc ngữ pháp tiếng Anh của nó.
Trong Báo cáo chỉ tiêu năng suất Việt Nam 2006-2007 của Trung tâm Năng
suất Việt Nam (2009): TFP là phản ánh sự đóng góp của các yếu tố vô hình như
kiến thức - kinh nghiệm - kỹ năng lao động, cơ cấu lại nền kinh tế hay hàng hoá
- dịch vụ, chất lượng vốn đầu tư mà chủ yếu là chất lượng thiết bị công nghệ, kỹ
năng quản lý Tác động của nó không trực tiếp như năng suất bộ phận mà phải
thông qua sự biến đổi của các yếu tố hữu hình, đặc biệt là lao động và vốn.
Nói tóm lại, TFP là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn và lao động, nhờ vào tác động của các nhân tố đổi mới
công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động.

Theo đó, chúng ta có thể chia kết quả sản xuất thành ba phần: (i) phần do vốn tạo
ra, (ii) phần do lao động tạo ra; (iii) và phần do nhân tố tổng hợp tạo ra. Như
vậy, không nhất thiết lúc nào cũng phải tăng lao động hoặc vốn để tăng đầu ra,
mà có thể có đầu ra lớn hơn bằng cách sử dụng tối ưu nguồn lao động và vốn, cải
tiến quá trình công nghệ, trình độ quản lý, trong đó các nhân tố đầu vào được
phối hợp sử dụng tốt nhất. Do đó, tăng TFP là chỉ tiêu phản ánh đích thực khái
quát về hiệu quả sử dụng vốn và lao động, là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất
lượng tăng trưởng cũng như sự phát triển bền vững của nền kinh tế và là căn cứ
để phân tích hiệu quả kinh tế vĩ mô và đánh giá sự tiến bộ khoa học và công
nghệ của mỗi ngành, mỗi địa phương và mỗi quốc gia. TFP có thể thay đổi do
một số nguyên nhân chủ yếu như thay đổi chất lượng nguồn lực lao động, thay
đổi cơ cấu vốn, thay đổi công nghệ, phân bố lại nguồn lực và trình độ quản lý.
8
Chỉ tiêu tốc độ tăng TFP phản ánh toàn diện về chiều sâu của quá trình sản
xuất, kinh doanh. Chỉ có tăng trưởng kinh tế nhờ vào tăng TFP mới là sự tăng
trưởng có tính chất ổn định và bền vững. Chỉ tiêu tốc độ tăng TFP cũng chính là
sự phản ánh sự tiến bộ về khoa học và công nghệ, thể hiện kết quả của việc cải
tiến tổ chức sản xuất, đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
nâng cao chất lượng lao động. Áp dụng chỉ tiêu TFP để đánh giá hoạt động sản
xuất của một đơn vị, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế quốc dân, không chỉ
khuyến khích người sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động để tăng
TFP, mà còn có tác dụng động viên họ duy trì và mở rộng quy mô sản xuất. Đây
chính là một trong những đặc điểm quan trọng của việc áp dụng chỉ tiêu năng
suất theo cách tiếp cận mới với mục đích cuối cùng của nâng cao năng suất là
tăng thêm nhiều sản phẩm vật chất và dịch vụ cho xã hội, và tạo thêm nhiều việc
làm cho người lao động. Chính vì vậy, TFP đã trở thành chỉ tiêu đặc biệt quan
trọng trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, đang được nhiều nước trên thế giới
quan tâm nghiên cứu áp dụng.
1.1.3 Các nhân tố đánh giá năng suất nhân tố tổng hợp
Thúc đẩy tăng TFP là một chiến lượng phát triển kinh tế bền vững đặc biệt

quan trọng trong môi trường kinh tế toàn cầu hiện nay. Chiến lược đòi hỏi sự đầu
tư liên tục vào giáo dục đào tạo và cơ cấu vốn với việc tái cơ cấu nền kinh tế.
Hơn nữa sự tăng cường nhu cầu và sự cải tiến về công nghệ cũng rất cần thiết
cho chiến lượng phát triển kinh tế dựa trên TFP.
Các nhân tố đánh giá năng suất nhân tố tổng hợp:
Giáo dục và đào tạo: Đầu tư vào nguồn nhân lực làm tăng năng lực cho lực
lượng lao động. Nói một cách tổng quát, những công nhân được đào tạo tốt hơn
sẽ làm việc năng suất hơn và tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ có chất lượng
hơn. Đó là lực lượng chủ đạo trong tăng TFP.
Cơ cấu vốn: Trong thị trường toàn cầu hiện nay, sự cạnh tranh dựa trên việc
tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao với giá cả hợp lý. Để có được lợi thế
cạnh tranh, các ngành công nghiệp cần cải tiến và trang bị cho các quá trình sản
xuất các công nghệ mới. Đầu tư vào máy móc và thiết bị hiện đại sẽ làm giảm
chi phí sản xuất và làm tăng TFP.
9
Cơ cấu lại kinh tế: Cơ cấu lại nền kinh tế là việc chuyển các nguồn lực từ
các ngành và thành phần kinh tế kém năng suất sang ngành và thành phần kinh tế
có năng suất cao. Việc phân bổ lại các nguồn lực để có được các ngành và thành
phần kinh tế có năng suất cao hơn sẽ dẫn đến sử dụng có hiệu suất và hiệu quả
các nguồn lực và dẫn đến TFP tăng cao.
Tăng nhu cầu: việc tăng nhu cầu trong nước và nước ngoài đối với sản
phẩm và dịch vụ sẽ dẫn đến tỷ lệ sử dụng sản phẩm tiềm năng cao hơn. Từ đó
kích thích sản xuất và sáng tạo. Báo cáo chỉ tiêu năng suất Việt Nam 2006 –
2007.
Tiến bộ công nghệ: điều này chỉ ra tính hiệu lực và việc sử dụng có hiệu
quả công nghệ thích hợp, sự đổi mới, nghiên cứu và triển khai, thái độ làm việc
tích cực, hệ thống quản lý và tổ chức tốt, quản lý chuỗi cung ứng và sử dụng các
phương pháp thực hành tốt nhất. Với trình độ công nghệ cao, người lao động
được khuyến khích và hệ thống quản lý hiệu quả, nền kinh tế sẽ có khả năng sản
xuất ra sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng.

1.1.4 Phương pháp đo lường tốc độ gia tăng năng suất tổng hợp
Năng suất các nhân tố tổng hợp suy cho cùng là kết quả sản xuất mang lại
do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động (các nhân tố hữu hình), nhờ vào
tác động của các nhân tố vô hình như đổi mới công nghệ, hợp lý hoá sản xuất,
cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động của công nhân, v.v (gọi chung là
các nhân tố tổng hợp).
Do TFP là một phạm trù tương đối trừu tượng, việc tính toán TFP và các
chỉ tiêu liên quan đến TFP không hề đơn giản. Cho đến nay, vẫn chưa có một
công thức tính TFP thống nhất cho tất cả các nước trên thế giới. Tùy theo điều
kiện từng nước cũng như hệ thống số liệu thống kê sẵn có mà người ta tính toán
chỉ tiêu này theo các công thức và phương pháp khác nhau. Ở khắp các nước, sự
chính xác trong tính toán TFP chỉ là tương đối, chưa ở đâu loại bỏ được sai số và
cũng chưa nước nào, chưa phương pháp bào tính được TFP thật chính xác. Tuy
nhiên, bài viết đề cập tới hai phương pháp phổ biến nhất, đó là cách tính toán tốc
độ tăng TFP theo phương pháp hạch toán và phương pháp dùng hàm sản xuất
Cobb-Douglas.
10
1.1.4.1 Tính tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp theo phương pháp hạch
toán
Công thức tính tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp ( ) Theo
phương pháp hạch toán do Tổ chức Năng suất Châu Á đưa vào áp dụng có dạng:
= – (α. + β. )
Trong đó:
là tốc độ tăng giá trị tăng thêm hoặc tốc độ tăng GDP;
là tốc độ tăng của vốn hoặc tài sản cố định;
là tốc độ tăng của lao động;
α là hệ số đóng góp của vốn hoặc tài sản cố định
β là hệ số đóng góp của lao động.
β =
và α = 1 - β

1.1.4.2 Tính tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp theo hàm sản xuất
Cobb-Douglas
Hàm sản xuất Cobb-Douglas nghiên cứu mối liên hệ giữa kết quả sản xuất
(giá trị tăng thêm) với vốn và lao động có dạng:
Y = A.K
α
.L
β
Trong đó:
Y là giá trị lý thuyết về giá trị tăng thêm;
A là TFP;
K là vốn cố định;
L lao động làm việc;
11
α hệ số đóng góp của vốn hoặc tài sản cố định;
β hệ số đóng góp của lao động với α + β = 1.
Tham số P và các hệ số α, β có thể tính được nhờ vào hệ phương trình
chuẩn tắc và quá trình tính toán các tham số đó được tiến hành như sau:
Đưa hàm số Y = A. K
α
.L
β
về dạng tuyến tính bằng cách lốc hoá hai vế:
lnY = lnA + α.lnK + β.lnL
Khi đó:
lnA = lnY – (α.lnK + β.lnL)
Ta sẽ tính được mức năng suất nhân tố tổng hợp và tính được tốc độ tăng năng
suất nhân tố tổng hợp.
1.2 Cơ sở lý luận về tăng trưởng kinh tế
1.2.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu tại
mỗi quốc gia trong quá trình phát triển, nhất là ở giai đoạn đầu của quá trình
phát triển và cùng với thời gian, quan niệm về vấn đề này ngày càng hoàn thiện
hơn.
Nếu tiếp cận trong ngắn hạn thì tăng trưởng kinh tế có các khái niệm sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong
một khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng quốc gia hoặc sản
lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người trong một thời gian nhất định.
Nếu tiếp cận trong dài hạn, thì tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng quy mô
sản lượng hay sự mở rộng sản lượng của một nền kinh tế qua các năm. Như vậy,
bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Ngày nay, để đo lường sản lượng hay thu nhập của nền kinh tế người ta
thường dùng các chỉ tiêu sau:
Tổng giá trị sản xuất (GO – Gross Output) là tổng giá trị sản phẩm cật chất
và dịch vụ được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm).
12
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross Domestic Product) là tổng giá trị
của những hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trên phạm vi lãnh thổ
của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.
Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross National Income) là tổng giá trị của
những hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi yếu tố sản xuất của một
nước trong một khoảng thời gian nhất định.
1.2.2 Một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế
1.2.2.1 Quan điểm cổ điển về tăng trưởng kinh tế
Quan điểm cổ điển về tăng trưởng kinh tế được xây dựng bởi William Petty
(1623 – 1687), Adam Smith (1723 – 1790) và David Ricardo (1772 – 1823).
Theo đó, quan điểm này có những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, họ cho rằng nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, từ đó

yếu tố căn bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Trong từng
ngành và phù hợp với một trình độ kỹ thuật nhất định các yếu tố này kết hợp với
nhau theo một tỷ lệ cố định. Trong ba yếu tố trên thì đất đai là quan trọng nhất
và chính là giới hạn của sự tăng trưởng.
Thứ hai, họ chia xã hội ra thành ba nhóm người: địa chủ, tư bản và công
nhân. Sự phân phối thu nhập của ba nhóm này phụ thuộc vào quyền sở hữu của
họ đối với các yếu tố sản xuất. Địa chủ có đất thì nhận địa tô, tư bản có vốn thì
nhận lợi nhuận, công nhân có lao động thì nhận tiền công và họ cho rằng cách
phân phối này là hợp lý. Trong ba nhóm người này, thì nhà tư bản giữ vai trò
quan trọng cả trong sản xuất, tích lũy và phân phối. Họ đứng ra tổ chức sản
xuất, giành lại một phần lợi nhuận để tích lũy và họ chủ động trong quá trình
phân phối.
Thứ ba, hoạt động của các chủ thể kinh tế bị chi phối bởi “Bàn tay vô
hình” dẫn dắt để gắn lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Việc bãi bỏ sự điều tiết
của chính phủ đối với các hoạt động sản xuất và thị trường không chỉ góp phần
làm tăng thu nhập của tần lớp chủ tư bản, qua đó, làm tăng tỷ lệ tích lũy của xã
hội mà còn góp phần mở rộng thị trường. Mặc dù ủng hộ mạnh mẽ cho tự do
cạnh tranh, nhưng Adam Smith vẫn nhận thức được tầm quan trọng của việc
cung ứng hàng hóa công cộng nhằm phục vụ cho cơ chế thị trường, bao gồm
13
quốc phòng, cảnh sát, hệ thống luật pháp, tòa án, xây dựng cơ sở hạ tầng và giáo
dục. Tuy nhiên, ông cho rằng việc cung ứng hàng hóa công cộng cần được tư
nhân hóa càng nhiều càng tốt.
1.2.2.2 Quan điểm của Karrl Marx về tăng trưởng kinh tế
Karl Marx (Các Mác) (1818 - 1883) không những là nhà chính trị học, nhà
triết học mà còn được xem là nhà kinh tế xuất sắc. Sự xuất hiện lý thuyết phê
phán tăng trưởng kinh tế tư bản chủ nghĩa của Mác vào giữa thế kỷ XIX thực sự
là một sự kiện lớn. Quan điểm cơ bản nhất của Mác về tăng trưởng kinh tế bao
gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, về con đường phát triển. Mác đã chỉ ra quy luật chung của mọi

thời đại, mọi phương thức sản xuất, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội
ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ
thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù
hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ.
Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội”. Như
vậy, theo Mác lực lượng sản xuất phát triển đến đâu thì quan hệ sản xuất phát
triển tương ứng tới đó. Sự phát triển vượt trước hay tụt hậu của quan hệ sản xuất
so với sự phát triển của lực lượng sản xuất đều làm cản trở sự phát triển của sức
sản xuất xã hội. Do đó, không thể xoá bỏ một hình thức quan hệ sản xuất nào đó
khi mà lực lượng sản xuất tương ứng với nó đang còn sức sống, đang còn là một
tất yếu kinh tế đối với sự phát triển của xã hội. Các Mác đã viết: “Không một
hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình
thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho sự phát triển, vẫn chưa phát triển, và những
quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những
điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản
thân xã hội cũ”.
Thứ hai, về các yếu tố của tăng trưởng kinh tế. Nếu như các nhà kinh tế học
cổ điển xem đất đai, lao động và vốn là ba yếu tố cơ bản của tăng trưởng, trong
đó đất đai là yếu tố quan trọng nhất, thì Mác cho rằng các yếu tố tác động đến
tăng trưởng kinh tế không chỉ là đất đai, lao động, vốn mà còn có yếu khoa học
14
kỹ thuật. Về vai trò khoa học kỹ thuật trong tăng trưởng kinh tế, Mác viết:
“Khoa học kỹ thuật là lực lượng sản xuất trực tiếp”. Mác đã đề cao vai trò của
khoa học kỹ thuật trong sản xuất khi cho rằng mục đích của nhà tư bản là tìm
mọi cách để tăng giá trị thặng dư, cho nên họ tìm cách tăng thời gian làm việc,
tăng cường độ làm việc của công nhân, giảm tiền công của công nhân, hoặc nâng
cao năng suất bằng cách cải tiến kỹ thuật. Việc cải tiến kỹ thuật sẽ làm tăng số
máy móc, thiết bị và dụng cụ lao động giành cho công nhân, nghĩa là cấu tạo hữu
cơ của tư bản có xu hướng ngày càng tăng. Do đó, các nhà tư bản cần nhiều vốn

hơn để đầu tư máy móc thiết bị kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Vì vậy, trong
tổng số giá trị thặng dư thu được nhà tư bản chỉ dùng một phần để tiêu dùng cá
nhân, phần còn lại để tích luỹ phát triển sản xuất. Đây chính là nguyên lý tích luỹ
của chủ nghĩa tư bản. Trong các yếu tố sản xuất, Mác đặc biệt quan tâm đến vai
trò của lao động trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Theo Mác sức lao động
là một hàng hoá đặc biệt, cũng như hàng hoá khác, nó được nhà tư bản mua bán
trên thị trường và tiêu dùng trong quá trình sản xuất. Nhưng trong quá trình tiêu
dùng, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động không giống với giá trị sử dụng
của các hàng hoá khác. Trong quá trình sản xuất (tiêu dùng sức lao động) bằng
lao động trừu tượng của mình người công nhân tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá
trị của sức lao động, phần dư ra đó chính là giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Thứ ba, về tái sản xuất mở rộng. Mác cho rằng muốn tái sản xuất mở rộng
thì phải tích lũy tư bản (tư bản hóa giá trị thặng dư), tức phải biến một phần giá
trị thặng dư thành tư bản bất biến phụ thêm và tư bản khả biến phụ thêm. Nhưng
các bộ phận giá trị phụ thêm đó phải tìm được những tư liệu sản xuất và tư liệu
sinh hoạt phụ thêm dưới những hình thái vật chất tưng ứng với nhu cầu của nó.
Điều này đòi hỏi cơ cấu sản xuất xã hội phải có những thay đổi so với tái sản
xuất giản đơn.
Nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội khi chưa xét tới ảnh hưởng của tiến
bộ kỹ thuật, chưa tính đến thay đổi cấu tạo hữu cơ của tư bản, Mác đã thấy vai
trò ưu tiên của việc sản xuất tư liệu sản xuất. Tổng cung về tư liệu sản xuất phải
đủ không những để bù đắp tư liệu sản xuất đã tiêu dùng mà còn để mở rộng sản
xuất; quy mô tái sản xuất mở rộng của khu vực I quyết định quy mô tái sản xuất
15
mở rộng của khu vực II. Khi tính tới ảnh hưởng của tiến bộ kỹ thuật làm cho cấu
tạo hữu cơ của tư bản không ngừng tăng lên trong quá trình tái sản xuất mở rộng,
V.I. Lênin đã phát hiện ra quy luật: sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu
sản xuất tăng nhanh nhất, sau đến là sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế tạo tư
liệu tiêu dùng và chậm nhất là sự phát triển của tư liệu tiêu dùng. Đó là quy luật
ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất, một quy luật kinh tế quan trọng của

nền kinh tế hiện đại. Cho đến nay, lý thuyết của Mác về tăng trưởng kinh tế vẫn
có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, nhất là trong việc giải thích vấn đề mà các nước
đang phát triển gặp phải ngày nay.
1.2.2.3 Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế
Cuối thế kỷ XIX là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học
kỹ thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học và các nguồn tài nguyên được khai
thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Sự phát triển này hình thành một trường
phái kinh tế mới – trường phái tân cổ điển.
Trong mô hình tân cổ điển, các nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cổ điển
cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về
lao động và vốn, họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công, và trong quá
trình sản xuất có thể có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu
vào. Các nhà kinh tế học tân cổ điển còn cho rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố thúc
đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Đồng thời xu hướng thay đổi trong kỹ thuật là đa số
các sáng chế đều có khuynh hướng dùng vốn để tiết kiệm nhân công.
Các nhà kinh tế học tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng
trưởng kinh tế thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nói lên mối quan hệ giữa sự
tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của yếu tố đầu vào là vốn, lao động, tài
nguyên và khoa học kỹ thuật.
Y = f (K, L, R, T….)
Trong đó:
Y: đầu ra (GDP, GNI)
K: vốn sản xuất
L: số lượng lao động.
R: nguồn tài nguyên thiên nhiên
16
T: khoa học kỹ thuật
Theo trường phái tân cổ điển, có thể có nhiều nhân tố khác tham gia vào
quá trình sản xuất nên hàm sản xuất có dấu chấm lững. Lý thuyết tăng trưởng
của trường phái này đề cao vai trò của các yếu tố sản xuất. Mỗi sự gia tăng của

yếu tố sản xuất sẽ làm gia tăng thêm sản lượng đầu ra. Họ cho rằng, mỗi nhân tố
đều có vai trò nhất định đối với tăng trưởng sản xuất và giữa chúng có quan hệ
lẫn nhau. Trong đó, tư bản được quan tâm nhất bởi vì nó đi liền với tiến bộ khoa
học và công nghệ. Lao động được coi là nguồn vốn ban đầu thiết yếu nhất của
tăng trưởng.
1.2.2.4 Mô hình của Keynes về tăng trưởng kinh tế
Học thuyết kinh tế của John Maynar Keynes ra đời trong hoàn cảnh cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 -1933) đã làm phá sản học thuyết “bàn tay vô
hình, thăng bằng tổng quát” của trường phái cổ điển và tân cổ điển. Ngoài ra,
những năm 30 của thế kỷ XX, lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển mạnh mẽ,
xã hội hóa ngày càng cao hơn so với thời kỳ trước đòi hỏi phải có sự điều chỉnh
tác động của nhà nước vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội trong xã hội tư
bản.
Theo Keynes, một nền kinh tế chịu tác động của hai nhân tố cơ bản: tổng
cung - tức toàn bộ số hàng hóa bán trên thị trường và tổng cầu - tức toàn thể số
hàng hóa mà người ta muốn mua. Nhân tố trực tiếp quyết định mức sản lượng và
việc làm trong nền kinh tế không phải là tổng cung mà chính là tổng cầu. Tổng
cung giữ vai trò thụ động, nó chịu sự tác động của tổng cầu. Đến lượt mình, tổng
cầu phụ thuộc vào các yếu tố: mức chi tiêu cá nhân của mỗi gia đình, mức chi
tiêu đầu tư, mức chi tiêu của chính phủ và chi tiêu của nước ngoài đối với hàng
hóa sản xuất trong nước (xuất khẩu ròng). Trong quá trình vận động của nền
kinh tế, tổng cầu thường không theo kịp tổng cung. Điều đó ảnh hưởng đến tình
hình sản xuất, thu hẹp đầu tư và gây ra nạn thất nghiệp. Để giải quyết tình trạng
này phải tăng tổng cầu, tổng cầu lớn hơn tổng cung sẽ làm gia tăng đầu tư do đó
sẽ gia tăng việc làm và gia tăng thu nhập. Cuối cùng sản lượng quốc gia sẽ tăng.
Trong logic phân tích của mình, Keynes cho rằng để thoát khỏi khủng
hoàng và thất nghiệp cần có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để tăng
17
tổng cầu, gia tăng việc làm và thu nhập. Trước hết, ông đề nghị sử dụng ngân
sách nhà nước để kích thích đầu tư thông qua các đơn đặt hàng của Nhà nước và

trợ cấp vốn cho doanh nghiệp. Để kích thích đầu tư phải có các biện pháp tăng
lợi nhuận và giảm lãi suất, muốn vậy phải tăng khối lượng tiền tệ trong lưu
thông. Keynes đề nghị thực hiện lạm phát có mức độ. Ông đánh giá cao vai trò
của hệ thống thuế khóa, công trái nhà nước, qua đó để bổ sung ngân sách nhà
nước. Ông đề nghị giảm lãi suất ngân hàng để khuyến khích đầu tư và đánh thuế
thu nhập cá nhân lũy tiến làm cho phân phối thu nhập trở nên công bằng hơn, do
đó sẽ tăng tổng thu nhập mà nhân dân dùng cho tiêu dùng. Ông tán thành đầu tư
của Chính phủ vào các công trình công cộng.
1.2.2.5 Mô hình của Harrod – Domar về tăng trưởng kinh tế
Mô hình này do hai nhà kinh tế học Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở
Mỹ đưa ra vào thập niên 40 của thế kỷ XX và được các nước đang phát triển ban
đầu ứng dụng. Mô hình này cho rằng, đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, dù là
một công ty, một ngành, hay toàn bộ nền kinh tế đều phụ thuộc vào tổng vốn đầu
tư cho đơn vị đó:
Nếu gọi Y là đầu ra (GDP, GNI) g là tốc độ tăng trưởng của đầu ra, thì:
g =
Nếu gọi S là mức tích luỹ của nền kinh tế, s là tỷ lệ tích luỹ, thì:
s = => S
t
= s.Y
Vì tiết kiệm (tích luỹ) là nguồn đầu tư, nên S = I
Vì vậy, ta có thể viết:
s =
Mà mục đích của đầu tư là để tạo ra vốn sản xuất (K) nên: I = Δ K (4)
18
Nếu gọi k là tỷ số giữa gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng. Hay còn gọi
là hệ số ICOR – hệ số gia tăng vốn đầu ra, ta có:
k = hoặc k =
Vì = = :
Do đó chúng ta có:

g =
Như vậy, theo mô hình này, để tăng trưởng kinh tế thì phải tăng tỷ lệ tích
luỹ (tiết kiệm) và giảm hệ số ICOR (tăng hiệu quả sử dụng vốn). Tuy vậy, trong
thực tế thì tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra không phải vì lý do tăng đầu tư, hoặc
ngược lại nếu đầu tư không có hiệu quả vẫn có thế dẫn đến không có sự tăng
trưởng. Kể cả trong trường hợp đầu tư có hiệu quả thì sự tăng tỷ lệ tiết kiệm
cũng chỉ có thể tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn chứ không thể
đạt trong dài hạn. Từ những lập luận này, năm 1956, dựa trên tư tưởng của lý
thuyết trường phái tân cổ điển, Robert Solow xây dựng mô hình tăng trưởng mới,
còn gọi là mô hình tăng trưởng Solow.
Nếu như mô hình của Harrod – Domar chỉ xét đến vai trò của vốn sản xuất
thông qua tiết kiệm và đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, thì mô hình Solow đã
đưa nhân tố lao động và tiến bộ kỹ thuật vào phương trình tăng trưởng và theo
Solow tiến bộ kỹ thuật là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế kể cả trong
ngắn hạn và trong dài hạn.
1.2.2.6 Quan điểm của kinh tế học hiện đại về tăng trưởng kinh tế
Kinh tế học hiện đại ngày này quan niệm về sự cân bằng kinh tế dựa theo
mô hình của J.M. Keynes, nghĩa là sự cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết
tại mức sản lượng tiềm năng, mà thường là dưới mức sản lượng tiềm năng, trong
điều kiện hoạt động bình thường, nền kinh tế vẫn có thất nghiệp và lạm phát.
19
Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và mức lạm phát có thể chấp
nhận được. Sự cân bằng này của nền kinh tế được xác định tại giao điểm của
tổng cung và tổng cầu.
Hiện nay, các mô hình tăng trưởng hiện đại thường không nói đến nhân tố
tài nguyên, đất đai với tư cách là biến số của hàm tăng trưởng kinh tế, họ cho
rằng đất đai là yếu tố cố định còn vai trò của tài nguyên có xu hướng giảm sút.
Những yếu tố tài nguyên, đất đai đang sử dụng có thể gia nhập dưới dạng yếu tố
vốn sản xuất: K.
Ba yếu tố trực tiếp tác động đến tăng trưởng: Vốn, lao động và yếu tố năng

suất tổng hợp.
Vốn và lao động được xem là yếu tố vật chất có thể lượng hóa được tác
động của nó đến tăng trưởng và được xem là nhân tố tăng trưởng theo chiều
rộng. TFP là thể hiện hiệu quả của yếu tố khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý hay
cách đánh giá tác động của KHKT đến tăng trưởng kinh tế. TFP được coi là yếu
tố chất lượng của tăng trưởng hay tăng trưởng theo chiều sâu. Lý thuyết tăng
trưởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trường là yếu tố cơ bản điều tiết hoạt động
của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa mức tổng cung và mức tổng cầu tạo ra
mức thu nhập thực tế, việc làm, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát, đó là cơ sở để
giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Theo quan điểm hiện đại thì việc mở
rộng kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
không chỉ vì thị trường có những khuyết tật, mà còn vì xã hội đặt ra những mục
tiêu mà thị trường không thể đáp ứng tốt được.
Như vậy, qua phân tích lịch sử phát triển các quan điểm về tăng trưởng kinh
tế, có thể thấy quá trình chuyển biến nhận thức từ mô hình tăng trưởng theo
chiều rộng chủ yếu vào tài nguyên, lao động sang mô hình tăng trưởng theo
chiều sâu chủ yếu dựa vào khoa học công nghệ.
1.2.3 Phương pháp đo lường tốc độ tăng trưởng
Để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế, ta có thể dùng mức tăng trưởng
tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm
trong một giai đoạn.
20
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ
cần so sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô
kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ
trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%),
Trong đó:

Y là qui mô của nền kinh tế
y là tốc độ tăng trưởng.
Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc
độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo
bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực
tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu
danh nghĩa.
1.3 Vai trò của năng suất nhân tố tổng hợp đối với tăng trưởng kinh tế
Chúng ta đều đã quen thuộc với khái niệm năng suất lao động. Ta đem sản
lượng của một nhà máy chia cho số công nhân và có kết quả sản lượng bao nhiêu
tấn trên mỗi công nhân mỗi năm. Đôi khi năng suất được tính trên mỗi giờ làm
việc, hoặc tử số được tính ở mức giá không đổi cho nhiều loại sản lượng khác
nhau. Ví dụ, một nhà máy sản xuất nhiều loại hình dạng thép khác nhau không
nên dùng sản lượng bao nhiêu tấn trên mỗi công nhân, mà nên dùng một giá trị
không đổi, hay giá trị gia tăng, trên mỗi công nhân để có thể ước tính chính xác
về sản lượng trên mỗi công nhân.
Năng suất lao động là một khái niệm hữu ích nhưng chưa đầy đủ. Thông
thường, chúng ta muốn biết tất cả các nhập lượng tính gộp chung có hiệu quả
như thế nào, chứ không chỉ riêng một nhập lượng. Ví dụ, nếu công nhân có rất ít
vốn hay có công nghệ rất thấp, họ có thể rất lành nghề và làm việc rất siêng năng
nhưng vẫn có năng suất lao động thấp. Để giải quyết vấn đề này, người ta đã đưa
ra một khái niệm mở rộng năng suất lao động sang vốn. (đôi khi có thể thêm vào
những nhập lượng khác, nhưng đây là hai nhập lượng quan trọng nhất). Về căn

×