Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nhận xét một số điểm mới trong cách thức tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân theo “Luật tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân” năm 2003 so với luật năm 1994

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.44 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
Trang
A) MỞ BÀI………………………………………………………………………………..2
B) THÂN BÀI......................................................................................................................2
I) Sơ lược về vị trí, tính chất, chức năng của uỷ ban nhân dân………………………..2
II) Tổ chức của uỷ ban nhân dân………………………………………………………...2
1) Chủ tịch uỷ ban nhân dân……………………………………………………………….3
2) Phó chủ tịch uỷ ban nhân dân…………………………………………………………...4
3) Thành viên và uỷ viên uỷ ban nhân dân………………………………………………...4
III) Hoạt động của uỷ ban nhân dân……………………………………………………..5
1) Hoạt động thông qua các phiên họp của uỷ ban nhân dân……………………………...5
2) Hoạt động của chủ tịch uỷ ban nhân dân………………………………………………..6
3) Hoạt động của các thành viên khác thuộc uỷ ban nhân dân…………………………….7
IV) Nhận xét một số điểm mới trong cách thức tổ chức và hoạt động
của uỷ ban nhân dân theo “Luật tổ chức và hoạt động của hội đồng
nhân dân và uỷ ban nhân dân” năm 2003 so với luật năm 1994………………………8
1. Về cơ cấu, tổ chức của UBND…………………………………………………………...8
2. Về hoạt động của UBND.….…………………………………………………………....9
C) KẾT LUẬN…………………………………………………………………………….9
BÀI LÀM
A) MỞ BÀI
Tổ chức và hoạt động của uỷ ban nhân dân là một vấn đề được các nhà làm luật rất quan tâm
và đầu tư nhiều công sức nghiên cứu nhằm hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của uỷ ban nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu bởi trong thực tế
việc tổ chức và hoạt động này còn nhiều điểm chưa hợp lí, chưa phát huy hết được vai trò của
uỷ ban nhân dân. Sau đây, bài làm của em sẽ tìm hiểu một số nét cơ bản về tổ chức và hoạt
động của uỷ ban nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành (theo Hiến pháp 1992, Luật
tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân năm 2003 và một số văn bản luật có liên quan).
Trong quá trình làm bài, chắc chắn còn gặp nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉnh
sửa và góp ý của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn!
B) THÂN BÀI


I) Sơ lược về vị trí, tính chất, chức năng của uỷ ban nhân dân
Điều 123 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân bầu là cơ
quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu
trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và
nghị quyết của hội đồng nhân dân”.
Như vậy, về tính chất, ta có thể thấy rõ hai điểm sau:
+ Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân. Điều đó được thể hiện qua
những điểm sau: uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập ra; chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu hội đồng
nhân dân; chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết của
hội đồng nhân dân, đưa các nghị quyết này đi vào thực tế cuộc sống. Uỷ ban nhân dân chịu sự
giám sát của hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân có quyền bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ
quyết định, chỉ thị trái pháp luật của uỷ ban nhân dân cùng cấp. Nhiệm kì của uỷ ban nhân dân
phải theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân.
+ Uỷ ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bởi: uỷ ban nhân dân thực
hiện hoạt động quản lí hành chính trên phạm vi toàn lãnh thổ địa phương trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội về chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh quốc phòng…; uỷ ban
nhân dân chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương; chịu trách
nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên và hội đông nhân dân cùng cấp; Uỷ ban nhân dân phải
đảm bảo cho những quy định và quyết định của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên và
trung ương được thực hiện tốt ở địa phương; hoạt động của uỷ ban nhân dân chịu sự giám sát
của cơ quan nhà nước cấp trên và Chính phủ, các quyết định sai trái của uỷ ban nhân dân và
chủ tịch uỷ ban nhân dân có thể bị chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trực tiếp huỷ bỏ một phần
hoặc tất cả.
2
Về chức năng, uỷ ban nhân dân có chức năng duy nhất là quản lí hành chính nhà nước vì
quản lí nhà nước là hoạt động chủ yếu, bao trùm nên toàn bộ hoạt động của uỷ ban nhân dân.
II) Tổ chức của uỷ ban nhân dân
Vấn đề cơ cấu tổ chức của uỷ ban nhân dân được quy định tại Chương IX Hiến pháp năm
1992 (từ Điều 123 đến Điều 125) và cụ thể hoá tại Điều 119 Mục 4 Luật tổ chức HĐND và

UBND năm 2003. Theo đó, cơ cấu tổ chức của uỷ ban nhân dân bao gồm: chủ tịch uỷ ban
nhân dân, phó chủ tịch và các uỷ viên của uỷ ban nhân dân.
1) Chủ tịch uỷ ban nhân dân
Chủ tịch uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kỳ họp thứ nhất của mỗi
khoá theo sự giới thiệu của chủ tịch hội đồng nhân dân trong số các đại biểu của hội đồng
nhân dân. Với quy định như vậy việc bố trí chủ tịch uỷ ban nhân dân sẽ được dễ dàng hơn
trong các trường hợp đặc biệt.
Việc bầu chủ tịch uỷ ban nhân dân được tiến hành theo hình thưc bỏ phiếu kín, người trúng
cử phải được quá một phần hai tổng số đại biểu hội đồng nhân dân có mặt biểu quyết tán
thành. Trong nhiệm kì nếu khuyết chủ tịch uỷ ban nhân dân thì chủ tịch hội đồng nhân dân
cùng cấp giới thiệu ngưòi ứng cử chủ tịch uỷ ban nhân để hội đồng nhân dân cùng cấp bầu.
Người được bầu này không nhất thiết phải là đại biểu hội đồng nhân dân. Sở dĩ có quy định
này là nhằm tạo ra sự linh hoạt, nhanh chóng trong việc thay đổi nhân sự của uỷ ban nhân dân
trong những trường hợp đặc biệt.
Chủ tịch uỷ ban nhân dân có nhiệm vụ lãnh đạo và điều hành công việc của uỷ ban nhân
dân, giúp cho hoạt động của uỷ ban nhân dân được nhịp nhàng, thống nhất.
Từ những quy định trên, em có một số nhận xét, đánh giá như sau:
+Thứ nhất, quy định: “Chủ tịch uỷ ban nhân dân được bầu ra theo sự giới thiệu của chủ tịch
hội đồng nhân” có phần thể hiện ý muốn chủ quan của chủ tịch hội đồng nhân dân trong việc
bầu này, từ đó đã phần nào triệt tiêu tính dân chủ trong việc bầu chủ tịch uỷ ban nhân dân. Dù
các đại biểu hội đồng nhân dân có quyền biểu quyết tán thành hay phản đối, nhưng với sự
“hậu thuẫn” của chủ tịch hội đồng nhân dân thì việc người được giới thiệu có khả năng thắng
cử là rất cao, do vậy xét ở khía cạnh nào đó đã triệt tiêu tính dân chủ. Đồng thời với việc quy
định hội đồng nhân dân bãi nhiệm chủ tịch uỷ ban nhân dân đã tạo ra một tâm lí nể nang, né
tránh, không đạt được hiệu quả thực sự của quy định bãi nhiệm này. Hiện nay, nhà nước ta
đang tiến hành thí điểm ở một số xã hình thức bầu chủ tịch uỷ ban nhân dân xã theo phương
thức mới: đó là do dân bầu trực tiếp. Như vậy sẽ thể hiện tính dân chủ tuyệt đối, giống như
việc bầu cử đại biểu quốc hội. Cùng với quy định này sẽ là việc bãi nhiệm chủ tịch uỷ ban
nhân dân xã cũng sẽ do nhân dân thực hiện. Nếu chủ tịch uỷ ban nhân dân xã nào không còn
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì sẽ bị nhân dân trực tiếp bãi nhiệm. Như vậy, các

chủ tịch uỷ ban nhân dân sẽ cố gắng làm hết trách nhiệm, nhiệm vụ và làm đúng quyền hạn
của mình, sẽ hạn chế được rất nhiều tình trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền đang là một
vấn đề bức xúc hiện nay. Đồng thời các chủ tịch uỷ ban nhân dân cũng phải không ngừng trau
dồi tri thức, tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao phẩm chất đạo đức của một người cán bộ. Sau một
3
thời gian thử nghiệm, chúng ta có thể thấy được hiệu quả rõ rệt của quy định này như: các
chương trình, dự án ở địa phương được tiến hành nhanh gọn, thái độ của các nhân viên chính
quyền đối với dân niềm nở hơn, tình trạng tham ô, hối lộ giảm đi rõ rệt…Tóm lại, đây là một
quy định rất hợp lí và cần được tiến hành đồng loạt trên cả nước trong thời gian tới. Nếu có
thể thì thì cần tiến hành ở tất cả các cấp chứ không chỉ ở cấp xã, thậm chí Thủ tướng Chính
phủ cũng cần được bầu theo phương thức này.
+ Thứ hai: trong Hiến pháp và các văn bản luật không nêu lên tiêu chuẩn cụ thể để có thể trở
thành chủ tịch uỷ ban nhân dân. Điều này có thể giải thích là do: khi đại diện các tầng lớp
nhân dân được bầu vào hội đồng nhân dân thì ai cũng có cơ hội trở thành chủ tịch uỷ ban nhân
dân, nhằm tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia vào công việc quản lí nhà nước.
Tuy nhiên, đây là một công việc quan trọng, đòi hỏi những người có nămg lực thật sự, do vậy
việc đặt ra các tiêu chuẩn cụ thể cho chủ tịch uỷ ban nhân dân là rất cần thiết như về độ tuổi,
trình độ học vấn…
+ Thứ ba: về năng lực của chủ tịch uỷ ban nhân dân. Hiện nay còn một số chủ tịch uỷ ban
nhân dân có trình độ yếu, kinh nghiệm thiếu nên đã không đáp ứng được yêu cầu của công
việc. Do vậy, trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra là phải đào tạo được một đội ngũ cán bộ có
năng lực thật sự, phẩm chất đạo đức tốt, như vậy mới tạo nên được sự vững mạnh trong bộ
máy nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.
2) Phó chủ tịch uỷ ban nhân dân
Phó chủ tịch uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kỳ họp thứ nhất của
mỗi khoá theo sự giới thiệu của chủ tịch uỷ ban nhân dân theo hình thức bỏ phiếu kín. Số phó
chủ tịch ở mỗi cấp do Chính phủ quy định, theo đó, ở uỷ bân nhân dân cấp tỉnh có từ 3 – 4 phó
chủ tịch, cấp huyện có từ 2 – 3 phó chủ tịch và cấp xã có 1 phó chủ tịch, tuy nhiên có trường
hợp ngoại lệ có 2 phó chủ tịch.
Từ những quy định về phó chủ tịch đã nêu trên, em có một số ý kiến sau:

+ Thứ nhất: với quy định: “Phó chủ tịch uỷ ban nhân dân được chủ tịch uỷ ban nhân dân giới
thiệu ra để bầu” có tác dụng là giúp cho chủ tịch uỷ ban nhân dân có thể lựa chọn nhân sự
trong uỷ ban, nhằm tăng cường quyền hạn của chủ tịch, giúp các thành viên của uỷ ban phối
hợp với nhau được nhịp nhàng, thống nhất, tuy nhiên quy định này đã phần nào triệt tiêu tính
dân chủ như đã phân tích ở trên. Đồng thời quy định này còn có nguy cơ gây ra tình trạng
“gây bè kéo cánh”, làm giảm hiệu quả hoạt động của uỷ ban nhân dân. Theo em, giải pháp
được đưa ra ở đây là phó chủ tịch uỷ ban nhân dân cũng do nhân dân địa phương bầu ra, có
thể bị nhân dân bãi nhiệm nếu không còn sự tín nhiệm của nhân dân.
+ Thứ hai: cần giảm số lượng phó chủ tịch ở cấp tỉnh và huyện. Bởi phó chủ tịch chỉ là người
giúp việc cho chủ tịch do vậy không cần thiết phải nhiều. Nếu giảm số lượng phó chủ tịch sẽ
giúp bộ máy nhà nước bớt cồng kềnh, hoạt động được hiệu quả hơn.
3) Thành viên và uỷ viên uỷ ban nhân dân
Các thành viên của uỷ ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra tại kỳ họp đầu
tiên của mỗi khoá theo sự giới thiệu của chủ tịch uỷ ban nhân dân được bầu theo hình thức bỏ
4
phiếu kín. Kết quả bầu này phải được chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Kết quả bầu các thành viên của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Quy định này nhằm tạo nên sự thống nhất từ trung
ương xuống địa phương trong hệ thống cơ quan hành chính.
Số lượng các thành viên của uỷ ban nhân dân được chính phủ quy định cụ thể như sau: cấp
tỉnh có từ 9 – 11 thành viên, riêng Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có không ít hơn 13 thành viên;
cấp huyện có từ 7 – 9 thành viên; cấp xã có từ 3 – 5 thành viên. Ngoài chủ tịch uỷ ban nhân
dân ra, các phó chủ tịch và các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu hội đồng
nhân dân. Quy định này nhằm một số mục đích sau: Thứ nhất, giúp cho việc giám sát của hội
đồng nhân dân với uỷ ban nhân dân được khách quan hơn, tránh tình trạng “vừa đá bóng vừa
thổi coi”. Thứ hai, hạn chế tình trạng kiêm nhiệm từ đó giúp tăng cường hiệu quả hoạt động
của uỷ ban nhân dân. Thứ ba, quy định phó chủ tịch và các uỷ viên có thể không là đại biểu
hội đồng nhân dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp nhân dân, những người có năng
lực thực sự có thể tham gia vào công việc quản lí nhà nước.
Uỷ viên uỷ ban nhân dân là thành viên của uỷ ban nhân dân. Được chủ tịch phân công phụ

trách quản lý những ngành, lĩnh vực chuyên môn nhất định phải chịu trách nhiệm cá nhân về
ngành, lĩnh vực được phân công trước chủ tịch uỷ ban nhân dân và cùng với tập thể uỷ ban
nhân dân chịu trách nhiệm trước hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan nhà nước cấp
trên.
Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân (không phải là thành viên của
uỷ ban nhân dân) được giao phụ trách quản lí ngành, lĩnh vực chuyên môn với các tên gọi
như: Giám đốc sở, trưởng phòng, trưởng ban... phải chịu trách nhiệm lãnh đạo hoạt động của
các sở, phòng, ban định kỳ mỗi tháng 1 lần phải báo cáo hoạt động của các ngành mình, lĩnh
vực mình phụ trách trước uỷ ban nhân dân và cơ quan quản lí chuyên môn cấp trên, trong
trường hợp cần thiết thì phải báo cáo trước hội đồng nhân dân cùng cấp.
Số lượng các sở, phòng, ban trực thuộc phụ thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ công tác trong mỗi
giai đoạn cũng như nhận thức của cơ quan có thẩm quyền. Hiện nay các cơ quan chuyên môn
thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có khoảng từ 20 đến 26 sở, ban,
ngành và các cơ quan trực thuộc uỷ ban nhân dân; ngoài ra, cấp tỉnh còn một số đầu mối nữa
không trực thuộc uỷ ban nhân dân mà trực thuộc cơ quan quản lí cấp trên. Như Sở công an,
Bộ chỉ huy quân sự, Tổng cục thống kê, ngân hàng, bảo hiểm xã hội... Đối với các thành phố
trực thuộc trung ương, ngoài các cơ quan chuyên môn trực thuộc uỷ ban nhân dân, còn có các
cơ quan chuyên môn mang tính chất thành thị như: Sở nhà đất, văn phòng kiến trúc sư
trưởng... Các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân huyện (quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh) thường có cơ cấu khoảng 10 đến 12 phòng, ban. uỷ ban nhân dân xã (phường, thị
trấn) thường có cơ cấu khoảng 5 ban.
Hiện nay, với xu thế đề cao trách nhiệm cá nhân chủ tịch uỷ ban nhân dân và sự phân công
chịu trách nhiệm trong từng lĩnh vực công tác của các thành viên uỷ ban nhân dân, theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII: uỷ ban nhân dân cần được kiện toàn theo hướng
tinh gọn, giảm bớt số uỷ viên là thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân;
xác định làm rõ thẩm quyền hành chính cụ thể cho từng thành viên thuộc uỷ ban nhân dân;
5

×