Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm nông sinh học, năng suất và chất lượng của một số dòng chè mới tại phú hộ phục vụ cho biến chè xanh và chè olong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.74 MB, 97 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
***





NGUYỄN THỊ THUẬN




NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NÔNG SINH HỌC,
NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA MỘT SỐ DÒNG
CHÈ MỚI TẠI PHÚ HỘ PHỤC VỤ CHO CHẾ BIẾN
CHÈ XANH VÀ CHÈ OLONG





CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC CÂY TRỒNG
MÃ SỐ: 60.62.01.10

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ĐÌNH VINH




HÀ NỘI – 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i

LỜI CAM ĐOAN

- Tôi xin cam đoan rằng, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thuận


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy TS. Nguyễn Đình Vinh
- Học viện Nông nghiệp Việt Nam là người đã định hướng đề tài và trực tiếp chỉ
bảo tôi trong quá trình thực tập tốt nghiệp, hoàn thành luận văn tốt nghiệp này
Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể thầy cô giáo Bộ môn câ
công nghiệp - Khoa Nông học - Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Luận văn này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự giúp đỡ nhiệt
tình của tập thể anh chị em Bộ môn chọn tạo giống - Trung tâm nghiên cứu và phát

triển Chè - Viện KHKT Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn ở bên tôi,
khích lệ để tôi có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Học viên


Nguyễn Thị Thuận
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng v
Danh mục hình vi
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài 2
1.3. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 2
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài 4
2.1.1. Cơ sở sinh học 4
2.1.2. Cơ sở sinh lý học 4
2.1.3. Cơ sở thực tiễn của sản xuất chè 5
2.2. Nguồn gốc, phân loại của cây chè 5
2.2.1. Nguồn gốc 6

2.2.2. Phân loại. 7
2.2.3. Sự phân bố của cây chè 10
2.3. Tình hình sản xuất chè trong nước và thế giới 11
2.3.1. Tình hình sản xuất chè trên thế giới. 11
2.3.2. Tình hình sản xuất chè Trong nước. 12
2.4. Các Nghiên cứu về cây chè trong và ngoài nước 13
2.4.1. Nghiên cứu trên thế giới 13
2.4.2. Các nghiên cứu trong nước 19
2.5. Đánh giá tổng quan 27
PHẦN III: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
3.1. Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu: 29
3.1.1. Vật liệu nghiên cứu: 29
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

3.1.2. Địa điểm 29
3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu: 29
3.2.1. Nội dung nghiên cứu: 29
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu 30
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34
4.1. Nghiên cứu đặc điểm hình thái của các dòng chè nhập nội và lai tạo 34
4.1.1. Nghiên cứu đặc điểm hình thái thân cành của các dòng chè nhập nội
và lai tạo 34
4.1.2. Nghiên cứu đặc điểm hình thái, kích thước lá của các dòng chè nhập
nội và lai tạo. 35
4.1.3. Nghiên cứu đặc điểm, kích thước búp của các dòng chè nhập nội và lai
tạo 38
4.1.4. Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng sinh thực của các dòng chè nhập nội
và lai tạo 42
4.2. Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của các dòng chè nhập nội và lai tạo 43

4.2.1. Nghiên cứu khả năng sinh trưởng thân cành của các dòng chè nhập nội
và lai tạo. 43
4.2.2. Nghiên cứu khả năng sinh trưởng búp của các dòng chè nhập nội và lai tạo 45
4.3. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng chè nhập nội
và lai tạo. 50
4.4. Điều tra sâu bệnh hại của các dòng chè nhập nội và lai tạo 53
4.5. N ghiên cứu về chất lượng của các dòng chè nhập nội và lai tạo 55
PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 68
5.1. Kết luận 68
5.2. Đề nghị 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

DANH MỤC BẢNG
STT Tên bảng Trang

2.1 Sản lượng chè thế giới trong những năm gần đây 11
2.2 Diện tích, năng suất và sản lượng chè trong nước 12
4.1 Đặc điểm thân cành của các dòng chè nghiên cứu 34
4.2 Đặc điểm kích thước hình thái lá các dòng chè nghiên cứu 35
4.3 Đặc điểm hình thái lá của các dòng chè nghiên cứu 37
4.4 Đặc điểm kích thước búp của các dòng chè nghiên cứu 39
4.5 Đặc điểm hình thái búp của các dòng chè nghiên cứu 41
4.6 Đặc điểm cấu tạo hoa của các dòng chè nghiên cứu 42
4.7 Tình hình sinh trưởng của các dòng chè nghiên cứu 44
4.8 Đợt sinh trưởng và thời gian sinh trưởng của các dòng, giống chè
nghiên cứu 46
4.9 Động thái tăng trưởng chiều dài búp của các dòng chè nghiên cứu
(vụ xuân 2014) 47

4.10 Thời gian hình thành lá của các dòng chè nghiên cứu 49
4.11 Năng suất cá thể của các dòng chè nghiên cứu (Tuổi 3) 50
4.12 Năng suất và yếu tố cấu thành năng suất của các dòng chè nghiên
cứu (tuổi 3) 51
4.13 Một số loài sâu bệnh gây hại chính trên các dòng chè nghiên cứu 53
4.14 Tỷ lệ mù xòe của các dòng chè nghiên cứu (%) 56
4.15 Thành phần cơ giới búp chè tôm 3 lá của các dòng chè nghiên cứu 57
4.16 Kết quả phân tích sinh hoá của các dòng chè nghiên cứu 59
4.17 Kết quả thử nếm cảm quan chất lượng chè xanh của các dòng chè
nghiên cứu 63
4.18 Kết quả thử nếm cảm quan chất lượng chè Oolong của các dòng
chè nghiên cứu 66

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi

DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang

4.1 Động thái tăng trưởng chiều dài búp của các dòng chè nghiên cứu 48
4.2 Năng suất thực thu của các dòng chè nghiên cứu 53

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây chè (Camellia sinensis (L).O.Kuntze) là cây công nghiệp dài ngày, có

lịch sử lâu đời. Theo Trà Kinh của Lục Vũ thì uống chè có từ thời Thần Nông cách
đây 4000 năm. Trải qua rất nhiều thăng trầm, song lịch sử của cây chè từ trước đến
nay là quá trình phát triển không ngừng. Từ lúc con người dùng sản phẩm sơ khai là
lá tươi, nụ hoa, đến nay con người đã phát hiện chè có rất nhiều công dụng: Là đồ
uống bổ dưỡng, có tác dụng chữa bệnh, kháng sinh tốt và làm thực phẩm tốt.
Cây chè chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, xã hội của người dân Việt
Nam, không thể thiếu trong giao tiếp, lễ nghi, cưới xin, hội hè Ngoài ra, chè còn
là cây trồng cho sản phẩm xuất khẩu có giá trị kinh tế. Hiện nay, cây chè được coi
là cây xóa đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh
thái. Quy hoạch các vùng chè tập trung, bao gồm sản xuất nông nghiệp - dịch vụ, đã
hình thành các cụm dân cư, nhằm góp phần cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho
nhân dân, nhất là tại các vùng sâu vùng xa của đồng bào các dân tộc ít người ở
Trung du, miền núi Phía Bắc và Tây Nguyên.
Mặc dù đứng thứ 5 thế giới về diện tích và sản lượng chè nhưng đời sống của
người trồng và chế biến chè ở nước ta vẫn rất khó khăn do giá trị sản phẩm thấp,
thiếu sự đa dạng các mặt hàng sản phẩm. Xuất khẩu chè của Việt Nam chủ yếu là
chè đen, tỷ lệ các mặt hàng cao cấp có giá trị cao như chè xanh chất lượng cao hay
chè Olong còn rất thấp,… Một trong những nguyên nhân quan trọng đó là ở nước ta
còn thiếu các giống chất lượng cao.
Để nâng cao năng suất và chất lượng chè ở Việt Nam, đa dạng hóa sản
phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ
các biện pháp từ chọn tạo giống đến thâm canh, chăm sóc, chế biến, và thị trường.
Trong đó, công tác chọn tạo giống chè năng suất cao, chất lượng tốt luôn được quan
tâm hàng đầu. Trong những năm gần đây Viện KHKT Nông lâm nghiệp miền núi
phía Bắc đã tiến hành đồng bộ các phương pháp chọn tạo và nhân giống, từ công tác
nhập nội giống chất lượng cao, chọn lọc cá thể, lai tạo, đột biến, thu thập bảo quản
nguồn gen.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2


Tuy nhiên để nhanh chóng cải thiện năng suất chất lượng chè ở nước ta, bên
cạnh việc chọn tạo giống bằng phương pháp lai tạo chúng ta cần phải tiến hành nhập
nội giống chất lượng cao và nhanh chóng đưa vào khảo nghiệm nhằm chọn ra giống
tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng để từ đó đưa ra quy trình canh tác hợp lý
là việc làm cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài
"Nghiên cứu một số đặc điểm nông sinh học, năng suất và chất lượng của một số
dòng chè mới tại Phú Hộ phục vụ cho chế biến chè xanh và chè Olong".
1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài
1.2.1.Mục đích:
Nghiên cứu đặc điểm hình thái, khả năng sinh trưởng phát triển, năng suất và
chất lượng của một số dòng chè nhập nội và lai tạo mới để tìm ra dòng chè có năng
suất cao, chất lượng tốt phù hợp cho chế biến chè xanh và chè Olong tại Phú Thọ.
1.2.2.Yêu cầu:
- Đánh giá được các đặc điểm hình thái thực vật học của một số dòng chè nhập
nội và lai tạo trong nước.
- Đánh giá được khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của các dòng chè
nhập nội và lai tạo trong nước.
- Đánh giá sơ bộ khả năng chống chịu sâu bệnh hại chính trên một số dòng chè
nhập nội và lai tạo trong nước.
- Đánh giá được các chỉ tiêu về chất lượng của các dòng chè nhập nội và lai tạo
trong nước.
1.3. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu này nhằm chọn ra được những giống chè năng suất cao
chất lượng tốt, có khả năng chế biến chè xanh và chè Olong để đưa vào khảo
nghiệm ở các vùng sinh thái, góp phần làm cơ sở cho việc nghiên cứu, xây dựng
quy trình kỹ thuật phù hợp cho một số dòng chè mới.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài giải quyết được yêu cầu thực tiễn hiện nay của ngành chè Việt Nam là
tuyển chọn một số giống chè có năng suất cao, chất lượng tốt, thích nghi với điều

kiện sinh thái của các vùng chè. Từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước, góp phần nâng cao thương hiệu cho
ngành chè Việt Nam.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1.1. Cơ sở sinh học
Chè là loại cây giao phấn, tỷ lệ tạp giao lên đến 95% nên nếu trồng bằng hạt
thì tỷ lệ đồng đều của cây con rất thấp, cây con không giống cây mẹ về các đặc
điểm hình thái, các tính trạng về năng suất và chất lượng. Đây là đặc điểm có ý
nghĩa lớn về tính đa dạng sinh học, là nguồn vật liệu khởi đầu trong công tác chọn
tạo giống, đồng thời là điều chúng ta cần lưu ý trong sản xuất đặc biệt là trong việc
nhân giống. Cây chè từ khi tuyển chọn đến lúc tạo thành giống mới, đưa ra sản xuất
cần có thời gian dài. Do đó các nghiên cứu chè là sự kế thừa và phát triển nối tiếp
nhau, từ lựa chọn các cá thể tốt đến đánh giá khảo nghiệm về năng suất chất lượng
và qui trình trồng trọt chế biến không thể tách rời mà phải liên hoàn và kế tiếp nhau.
Để chọn lọc các giống chè mới, các nước áp dụng nhiều phương pháp khác nhau
như: Chọn lọc cá thể, chọn lọc cây đầu dòng, lai hữu tính, nhập nội giống, gây đột
biến Trong đó phương pháp lai hữu tính và chọn lọc cá thể được chú ý và có nhiều
thành công nhất theo PGS, TS Vũ Thị Thư, TS Đoàn Hùng tiến và cs (2001).
2.1.2. Cơ sở sinh lý học
Chè là cây lâu năm, có chu kỳ sống rất dài có thể đạt 100 năm hoặc lâu hơn,
chia làm 2 chu kỳ phát triển là: chu kỳ phát triển lớn và chu kỳ phát triển nhỏ.

- Chu kỳ phát triển lớn bao gồm suốt cả đời sống cây chè, tính từ khi noãn
được thụ tinh bắt đầu phân chia đến khi cây chè chết. Theo tác giả Trang Văn
Phương (1960) và Nguyễn Ngọc Kính (1979) đã chia chu kỳ phát triển lớn của cây
chè làm 5 giai đoạn: giai đoạn phôi thai, giai đoạn cây con, giai đoạn cây non, giai
đoạn chè lớn, giai đoạn chè già cỗi.
- Chu kỳ phát triển nhỏ (hàng năm) gồm 2 giai đoạn sinh trưởng và tạm
ngừng sinh trưởng. Trong giai đoạn sinh trưởng, các loại mầm dinh dưỡng sẽ phát
triển hình thành búp, lá non và những đợt búp chè mới; Các mầm sinh thực phát
triển hình thành nụ, hoa và quả. Sinh trưởng dinh dưỡng cũng như sinh trưởng sinh
thực phụ thuộc vào giống, tuổi của cây, điều kiện ngoại cảnh, trình độ quản lý chăm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

sóc. Giai đoạn sinh trưởng dài hay ngắn chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện khí hậu,
thời tiết mỗi vùng. Trong giai đoạn tạm ngừng sinh trưởng các bộ phận trên mặt đất
không xuất hiện các lá non mới, song bộ rễ của cây chè lại sinh trưởng để tạo nên
các rễ non mới. Trong điều kiện ở Phú Hộ, cây chè thường bắt đầu sinh trưởng từ
tháng 2 đến tháng 11 và tạm ngừng sinh trưởng từ tháng 12 đến tháng 2 hàng năm.
2.1.3. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm là mục tiêu đầu tiên của tất cả các
loại cây trồng nói chung và đối với cây chè nói riêng. Đặc biệt, khi nhu cầu thị hiếu
của con người ngày càng tăng cao thì chất lượng chè là chỉ tiêu đặc biệt quan trọng
để nâng cao giá trị sản phẩm và sức cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay, ngành chè
nước ta đang gặp phải rất nhiều khó khăn: Năng suất thấp hơn chè thế giới, chất
lượng còn hạn chế dẫn đến giá trị thấp, thiếu những sản phẩm chất lượng chủ đạo.
Để tạo nên chất lượng chè thành phẩm, yếu tố giống quyết định đến 50%, còn yếu tố
độ cao, chăm sóc quyết định 30%, yếu tố công nghệ chế biến, thiết bị chỉ chiếm 20%
(Nguyễn Hữu Khải, 2005).
Chè Olong là sản phẩm độc đáo, được sản xuất theo công nghệ và thiết bị
Đài Loan, chủ yếu sản xuất với các giống và công nghệ thích hợp ở vùng cao và các

vùng có lợi thế, có giá trị kinh tế cao, được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường Trung
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Singapo và một số nước Đông Nam Á. Trong những
năm gần đây, chè Olong đang dần xâm nhập vào thị trường các nước Âu Mỹ,… và
là một trong những mặt hàng xuất khẩu có giá trị.
Trong thực tế sản xuất hiện nay, các giống chè trong nước chủ yếu phù hợp
với chế biến sản phẩm chè đen, các giống phục vụ cho chế biến chè xanh đặc biệt là
chè xanh chất lượng cao và chè Olong còn rất hạn chế. Trong những năm
2000 - 2005, nhằm khắc phục tình trạng thiếu giống chè chất lượng cao, được sự chỉ
đạo của Chính phủ, của Bộ Nông nghiệp và PTNT, công tác chọn tạo giống chè
được đẩy mạnh, đồng thời vừa chọn tạo giống chè trong nước, vừa tăng cường việc
nhập nội giống từ nước ngoài. Cần nhanh chóng chọn tạo ra nhiều giống chè mới có
năng suất, chất lượng cao, phù hợp cho chế biến chè Olong để mở rộng diện tích,
thay thế dần các giống chè cũ năng suất, chất lượng thấp ở Việt Nam.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6

2.2. Nguồn gốc, phân loại của cây chè
2.2.1. Nguồn gốc
Theo hai nhà thực vật học Condolk và Vavilov trên thế giới có 7 Trung tâm
chính phát sinh và phát triển cây trồng, trong đó có 3 Trung tâm ở châu Á, 2 Trung
tâm ở châu Mỹ và 1 Trung tâm ở châu Phi. Cây chè có nguồn gốc từ châu Á
(Đỗ Ngọc Quỹ, Đỗ Thị Kim Oanh, 2011).
Có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc của cây chè dựa trên những cơ
sở lịch sử, khảo cổ hay thực vật học.
- Cây chè có nguồn gốc từ Vân Nam, Trung Quốc: Các nhà khoa học Trung
Quốc như Su-Chen-Pen, Jao- Dinh cho rằng: Đầu tiên cây chè được mọc từ Vân Nam
sau đó hạt được di chuyển theo các dòng sông đến các nước khác và từ đó lan ra cả
vùng rộng lớn.
- Dựa trên cơ sở khoa học: “Trung tâm khởi nguyên cây trồng” thì cây chè có
nguồn gốc từ Trung Quốc, nó được phân bố ở các khu vực phía Đông và phía Nam,

Phía Đông - Nam theo cao nguyên Tây Tạng.
- Robert Bruce cho rằng cây chè có nguồn gốc từ Assam của Ấn Độ:
Năm 1823 Robert Bruce đã phát hiện được những cây chè hoang dại, lá to
hoàn toàn khác với cây chè Trung Quốc và ở tất cả những nơi theo các tuyến đường
giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Từ đó Ông cho rằng Ấn Độ là nơi nguyên sản của cây
chè (Nguyễn Ngọc Kính, 1979).
- Djemukhadze, 1982 đưa ra quan điểm: Cây chè có nguồn gốc Việt Nam.
Từ năm 1962 đến năm 1976 Ông đã tiến hành điều tra cây chè mọc tại Hà
Giang, Nghĩa Lộ, Lào Cai, Tam Đảo và tiến hành phân tích thành phần sinh hoá để
so sánh với loại chè thường được trồng trọt, từ đó tìm ra sự tiến hoá của cây chè làm
cơ sở xác định nguồn gốc. Ông thấy rằng những cây chè hoang dại chủ yếu tổng
hợp catechin đơn giản, cây chè tiến hoá tổng hợp catechin phức tạp. Cây chè ở Việt
Nam chủ yếu tổng hợp (-) epicathechin và (-) epigalocathechin galat (chiếm 70%
tổng số các loại catechin), trong khi đó chè ở Tứ Xuyên và Quý Châu, Trung Quốc
chỉ chiếm 18 - 20%. Từ đó Ông cho rằng nguồn gốc cây chè chính là Việt Nam.
Thực tế hiện nay, phần đông các nhà khoa học cho rằng nguyên sản của cây
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

chè là cả một vùng từ Assam, Ấn Độ sang Miến Điện, Vân Nam - Trung Quốc, Bắc
Việt Nam, Thái Lan. Từ đó chia ra làm hai nhánh, một đi xuống phía Nam, và một đi
lên phía Bắc, trung tâm là vùng Vân Nam - Trung Quốc. Điều kiện khí hậu ở đây rất
lý tưởng cho cây chè sinh trưởng quanh năm (Chu Xuân Ái, 1998), (Nguyễn Ngọc
Kính, 1979), (Nguyễn Hữu La, Đỗ Văn Ngọc, 1988), (Nguyễn Hữu La, 2011), (Trần
Thị Lư, Nguyễn Văn Toàn, 1994), (Trần Thị Lư, Nguyễn Văn Niệm, 1998).
2.2.2. Phân loại.
Các nhà khoa học đều cho rằng, việc phân loại giống chủ yếu dựa vào các
đặc điểm dinh dưỡng quan trọng như: Tỷ lệ chiều dài và chiều rộng lá; Góc đính lá;
chiều dài cuống lá; Kích thước lá; Chiều dài đốt cành; Thế lá, cấu trúc hình thái lá,
màu sắc lá v.v. Nhưng do các đặc điểm dinh dưỡng cây chè không ổn định vì thế

nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu dinh dưỡng không thể chia ra được những nhóm riêng rẽ và
chuẩn xác, do đó đặc điểm sinh thực đã được nhiều tác giả đề xuất trong phân loại.
Đối với cây chè, bộ phận sinh thực ổn định hơn, trong đó hoa chè được xem là đặc
điểm phân loại chủ yếu, các chỉ tiêu được xem xét gồm: Cuống hoa, đài hoa, tràng
hoa, nhị hoa, nhụy hoa và tua đầu nhụy v.v.
Theo Cohen Stuart, C. P. (1916) phân loại cây chè thuộc ngành hạt kín
(Angiospermae), lớp hai lá mầm (Dicotyledonae), bộ chè (Theales), họ chè
(Theaceae), chi chè (Camellia), loài chè (Camellia sinensis) và tên khoa học là
Camellia sinensis (L) O. Kuntze.
Theo tác giả Ngô Phúc Liên, người Trung Quốc (2006) đã dựa vào đặc
điểm hoa chè, tập quán thân cành và lông của cành lá non để phân biệt các loài
chè như sau:
+ Loài Camellia tachangensis (Đại xưởng trà) có hoa to hoặc rất to, số cánh
hoa trên 10, cánh hoa xếp xít nhau, cánh hoa dày, hoa màu trắng, đài hoa không
lông, bầu nhụy không lông, đầu nhụy chia 5 hoặc 6, thân gỗ lớn hoặc nhỏ, cành chè
non không lông, búp tôm không lông, kích thước lá chè to hoặc rất to, vỏ quả dày
3 - 5 mm. Loài này không làm đồ uống, phân bố ở vùng phía Đông Vân Nam, Tây
Bắc Quảng Tây và Tây Nam Quý Châu của Trung Quốc.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

+ Loài Camellia taliensis (Đại lý trà) có hoa to hoặc rất to, số cánh hoa
10 - 13, cánh hoa xếp lên nhau, cánh hoa dày, hoa màu trắng, đài hoa không
lông, bầu nhụy có lông, đầu nhụy chia 5 hoặc 4, thân gỗ lớn hoặc nhỏ, cành chè
non không lông, búp tôm không lông hoặc ít, kích thước lá chè to hoặc rất to, vỏ
quả dày 2 -3 mm. Loài này uống không ngon, phân bố ở vùng phía Nam Vân
Nam của Trung Quốc.
+ Loài Camellia carassicoluma (Hậu trục trà) có hoa to hoặc rất to, số cánh
hoa trên 10, cánh hoa xếp xít nhau, cánh hoa dày, hoa màu trắng, đài hoa không
lông, bầu nhụy có lông, đầu nhụy chia 5 hoặc 4, thân gỗ nhỏ, cành chè non không

lông, búp tôm có lông, kích thước lá chè to hoặc rất to, vỏ quả dày 5 - 12 mm và
trục quả to. Loài này uống không ngon, phân bố ở vùng phía Nam Vân Nam của
Trung Quốc, phía Bắc Việt Nam, thượng lưu sông Hồng.
+ Loài Camellia gymnogyma (Thốc phòng trà) có hoa to trung bình, số cánh
hoa 6 - 8, cánh hoa không xếp lên nhau, cánh hoa dày trung bình, hoa màu trắng,
đài hoa không lông, bầu nhụy không lông, đầu nhụy chia 3 hoặc 4, thân gỗ nhỏ hoặc
thân bụi, cành chè non không lông, búp tôm ít lông, kích thước lá chè to hoặc trung
bình, vỏ quả dày 2 - 4 mm. Loài này uống đạt, phân bố ở vùng phía Tây Bắc Quý
Châu, Đông Bắc Vân Nam, Nam Tứ Xuyên, Nam Vân Nam của Trung Quốc.
+ Loài Camellia sinensis (trà) có hoa to trung bình hoặc nhỏ, số cánh hoa
6 - 7, cánh hoa không xếp lên nhau, cánh hoa mỏng, hoa màu trắng, đài hoa không
lông, bầu nhụy có lông, đầu nhụy chia 3, thân gỗ nhỏ hoặc thân bụi, cành chè non
không hoặc có lông, búp tôm có lông, kích thước lá chè to hoặc trung bình, vỏ quả
dày 1 - 2 mm. Loài này uống tốt, phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Miến
Điện, Lào và Đài Loan.
Cũng theo Cohen Stuart, (Nguyễn Ngọc Kính, 1979), loài chè (Camellia
sinensis) được chia ra 4 thứ (Camellia sinensis var.) bao gồm:
- Thứ chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var. bohea)
- Thứ chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla)
- Thứ chè Ấn Độ (Camellia Sinensis var. assamica)
- Thứ chè Shan (Camellia sinensis var. shan)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

* Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var bohea)
Chè Trung Quốc lá nhỏ có đặc điểm là thân bụi, phân cành nhiều, cành thấp,
lá nhỏ dày, gân lá không rõ, răng cưa nhỏ không đều, đầu lá tròn, búp nhỏ, năng suất
không cao, chất lượng bình thường, nhiều hoa, quả, có khả năng chịu rét tốt. Chè
Trung Quốc lá nhỏ phân bố nhiều ở miền Đông, Đông Nam Trung Quốc, Nhật Bản.
Ở Việt Nam, chè Trung Quốc lá nhỏ có thể tìm thấy ở Lạng Sơn, Phú Hộ (Phú Thọ).

* Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var macrophylla)
Chè Trung Quốc lá to thuộc dạng thân gỗ nhỏ, phân cành dày, lá to, trung
bình dài 12-15 cm, rộng 5 - 7 cm, răng cưa sâu không đều, đầu lá nhọn, búp to
trung bình có khả năng cho năng suất cao, chất lượng tốt thích hợp cho cả chế biến
chè xanh và chè đen. Chè Trung Quốc lá to có khá nhiều hoa, quả, có khả năng
chịu đất xấu. Nguyên sản của chè Trung Quốc lá to là ở Vân Nam, Tứ Xuyên -
Trung Quốc. Ở Việt Nam chè Trung Quốc lá to phân bố nhiều ở các tỉnh Trung du
như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái… nên còn được gọi dưới tên
khác là chè Trung Du (Lê Tất Khương, 1997).
* Chè Shan (Camellia sinensis var Shan)
Chè Shan có đặc điểm thân gỗ, phân cành thưa, trong điều kiện tự nhiên có
thể cao từ 6 - 10m, lá to dài, có nhiều răng cưa sâu đều, đầu lá nhọn, búp to, có
nhiều lông tơ trắng mịn, trông như tuyết cho nên chè Shan còn được gọi là chè
Tuyết. Chè Shan có thể cho năng suất cao, chất lượng tốt, thích hợp cho cả chế biến
chè xanh và chè đen. Chè Shan ít hoa, quả hơn chè Trung Quốc lá to, phân bố ở địa
hình núi cao, ẩm, mát. Nguyên sản của chè Shan là Vân Nam (Trung Quốc), Mianma,
và phân bố nhiều ở vùng núi phía Bắc Việt Nam, ở cao nguyên Lâm Đồng
* Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var Assamica)
Là loại chè có dạng thân gỗ cao, to, lá to mặt lá gồ ghề, nhiều gợn sóng, dạng
lá bầu dục, búp to, có khả năng cho năng suất cao, chất lượng tốt, thích hợp cho chế
biến chè đen và chè xanh. Chè Ấn Độ ít hoa, quả, chịu rét kém, được trồng nhiều ở
Ấn Độ, Mianma,Vân Nam (Trung Quốc).
Ngoài bốn thứ chè trên, Việt Nam còn có rất nhiều dạng chè trung gian giữa
chè Trung Quốc lá to và chè Trung Quốc lá nhỏ, Trung Quốc lá to với chè Shan …
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

Các giống chè lai đã tỏ rõ ưu thế trong sản xuất vì chúng được tích hợp bởi nhiều
gen quý của cả bố lẫn mẹ và ngược lại đã khắc phục được những nhược điểm vốn
có của giống bố, mẹ.

2.2.3. Sự phân bố của cây chè
Vùng khí hậu Nhiệt đới và Á nhiệt đới với điều kiện khí hậu nóng ẩm thích
hợp cho sự phát triển của cây chè. Hiện nay, cây chè đã được phân bố rộng rãi từ 42
0

vĩ độ Bắc (Pochi - Liên Xô cũ) đến 27
0
vĩ độ Nam (Coriente - Achentina), theo các
tác giả Đặng Hạnh Khôi (1983), Trang Văn Phương (1957), Đỗ Ngọc Quỹ (1997).
Nhưng trong đó sản xuất chè chủ yếu vẫn tập trung ở các nước châu Á: Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản, Sirilanca, Indonexia, Việt Nam … và các nước châu Phi: Kênia,
Malawi, Tanzania…
Các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam đều khẳng định rằng: Cây chè trồng ở
những độ cao khác nhau có sự khác biệt giữa các giống và khác biệt về chất lượng chè.
Những giống chè sinh trưởng tốt ở nơi có độ cao lớn so với mực nước biển, đều có chất
lượng chè nguyên liệu và chè thành phẩm tốt hơn những giống chè được trồng ở vùng thấp
(Chu Xuân Ái, 1998), (Lê Tất Khương, 1997), (Min- Jer Lu a, b, Chinshuh Chen b*, 2007).
Những vùng chè nổi tiếng trên thế giới như Hồng Sơn (An Huy - Trung Quốc),
Sư Tử Phong (Triết Giang - Trung Quốc), Daejilinh (Ấn Độ) đều nằm ở độ cao lớn so
với mực nước biển (Đỗ Ngọc quỹ, Lê Tất Khương, 2000), (Nicholas I.D., 1988).
Ở Việt Nam, sự phân bố các giống chè ở những độ cao khác nhau có sự khác
nhau rất rõ: Những vùng núi cao trên 500m so với mực nước biển, có điều kiện khí hậu
phù hợp với yêu cầu sinh thái của giống chè Shan (như Shan Chất Tiền, Shan Tham
Vè, Shan Ba Vì, Shan Lũng Phìn…), một số giống chè có chất lượng tốt, đặc biệt là
khi chế biến chè xanh.
Những vùng chè nổi tiếng như: Hoàng Su Phì, Vị Xuyên (Hà Giang), Tà Xùa
(Sơn La), Suối Giàng - (Yên Bái), Mộc Châu (Sơn La), Tủa Chùa (Lai Châu), Bằng
Phúc (Bắc Kạn), Bảo Lộc (Lâm Đồng), Mẫu Sơn (Lạng Sơn) đều nằm ở độ cao lớn
hơn so với mực nước biển trên 500m, được trồng chủ yếu là các giống chè Shan và các
giống chè thuộc biến chủng Trung Quốc lá nhỏ có chất lượng cao như: Kim Tuyên,

Thuý Ngọc, Thiết Quan Âm, Olong lá to,…
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

Các tỉnh Trung du như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh
Phúc, Bắc Giang nơi có độ cao so với mực nước biển dưới 500m, là nơi tập trung của
các giống thuộc thứ chè Trung Quốc lá to, chè Assamica (Ấn Độ) như: Giống Chè
Trung Du, giống PH
1
, PH11, LDP1, LDP2, PH8, PH9 và các giống chè lai khác.
2.3. Tình hình sản xuất chè trong nước và thế giới
2.3.1. Tình hình sản xuất chè trên thế giới.
Chè là đồ uống phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, được sản xuất ở hơn 30
nước và có hơn 100 nước tiêu dùng chè với khối lượng lớn. Trên thế giới hiện có
khoảng 50 quốc gia sản xuất chè, trong đó Châu Á có 18 nước, Châu Phi có 19
nước, Châu Mỹ có 11 nước, Châu Đại Dương có 2 nước. Theo FAO (2014), sản
lượng chè thế giới trong 3 năm (2010 - 2012) được ghi ở bảng 2.1.
Bảng 2.1: Sản lượng chè thế giới trong những năm gần đây
(ĐVT: Tấn)
TT Quốc gia Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
1 Trung Quốc 1.450.000 1.623.000 1.700.000
2 Ấn Độ 991.182 966.733 1.000.000
3 Kenya 399.006 377.192 369.400
4 Srilanca 331.400 327.500 330.000
5 Thổ Nhĩ Kỳ 235.000 221.600 225.000
6 Việt Nam 198.466 206.600 216.900
7 Iran 167.717 103.890 158.000
8 Inđônêxia 150.342 150.200 150.100
9 Argentina 88.574 96.572 100.000
10 Các nước khác 560.564 551.114 568.718


Thế giới 4.572.251 4.624.401 4.818.118
Nguồn: Faostat.FAO.org
Số liệu của Fao cho thấy, tổng sản lượng chè của thế giới năm 2012 đạt
4.818.118 tấn. Trong đó, Trung Quốc là nước sản xuất chè lớn nhất thế giới với sản
lượng đạt 1,7 triệu tấn, chiếm 35,28% sản lượng chè của Thế giới, tiếp theo là Ấn
Độ với sản lượng 1 triệu tấn (chiếm 20,75%), Kenya đạt 369.400 tấn (7,67%),
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

Srilanca đạt 330.000 tấn (6,85%), Thổ Nhĩ Kỳ đạt 225.000 tấn (4,67%), Việt Nam
đạt 216.900 tấn (4,5%),…
Xu hướng toàn cầu của ngành chè trong 3 năm (2010 - 2012) cho thấy sản
lượng chè thế giới có sự tăng nhẹ từ 4.572,251 nghìn tấn đến 4.818,118 nghìn tấn,
tăng 5,38%. một số nước có sản lượng giảm như Kenya, Srilanca, Thổ Nhĩ Kỳ,…
Ấn Độ là một cường quốc sản xuất chè đen có sản lượng tăng giảm không ổn định.
Trong đó, Trung Quốc - nước sản xuất chè xanh lớn nhất thế giới lại có sản lượng
tăng dần đều từ năm 2010 đến năm 2012. Điều này cho thấy xu hướng sử dụng chè
xanh và chè chất lượng cao trên thế giới đang tăng dần hiện nay.
2.3.2. Tình hình sản xuất chè trong nước.
Việt Nam là nước có ngành sản xuất chè lâu đời, với 35 tỉnh trồng, cung cấp
cho 700 cơ sở sản xuất chè khô. Cây chè Việt Nam có nhiều lợi thế như đa dạng
phong phú về nguồn giống, đất đai khí hậu phù hợp, nhiều mô hình năng suất cao
(trên 30 tấn/ha); nhiều vùng chè chất lượng cao như Tân Cương (Thái Nguyên),
Mộc Châu (Sơn La), Bảo Lộc (Lâm Đồng); Các giống chè Shan bản địa năng suất
cao, chất lượng tốt có thể chế biến nhiều mặt hàng chè như chè xanh, chè đen, chè
vàng, chè Phổ nhĩ và có thể sản xuất chè hữu cơ giá trị cao.
Bảng 2.2: Diện tích, năng suất và sản lượng chè trong nước
Năm


Đơn vị
2008 2009 2010 2011 2012
Diện tích
(Nghìn ha)
108,8 111,4 113,2 114,4 115,96
Năng suất
(Tấn chè khô/ha)
1,59 1,67 1,75 1,81 1,87
Sản lượng
(Nghìn tấn chè khô)
173,5 185,7 198,466 206,6 216,9


Đứng thứ 5 thế giới về diện tích và đứng thứ 6 về sản lượng chè thế giới,
trong những năm gần đây, ngành chè Việt Nam có những chỉ tiêu phát triển mạnh
mẽ. Cụ thể, trong 5 năm (từ năm 2008 đến 2012) sản xuất chè cả nước tăng dần cả
về diện tích, năng suất và sản lượng.
Từ năm 2008 đến năm 2012, diện tích trồng chè trong cả nước liên tục được
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

mở rộng. Từ 108,8 nghìn ha năm 2008, đến năm 2012 mở rộng lên 115,96 nghìn ha,
tăng 7,16 nghìn ha (6,59%). Năng suất và sản lượng chè khô cũng liên tục tăng lên
đáng kể. Đến năm 2012, cả nước đạt năng suất trung bình 1,87 tấn/ha (tăng 17,6%
so với năm 2008) và sản lượng đạt 216,9 nghìn tấn (tăng 25% so với năm 2008).
2.4. Các Nghiên cứu về cây chè trong và ngoài nước
2.4.1. Nghiên cứu trên thế giới
2.5.1.1. Nghiên cứu về giống
Thế giới coi công tác chọn tạo giống chè là nhiệm vụ quan trọng nhất để tạo
ra các sản phẩm mới, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Mục tiêu của chọn giống

chè ngày nay không chỉ đơn thuần là tạo ra các giống có năng suất cao, có khả năng
chống chịu tốt với các điều kiện bất thuận của môi trường mà các giống chè chọn
tạo mới phải có chất lượng tốt đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng cao, an toàn,
làm nguyên liệu, để chế biến ra các loại sản phẩm chè có chất lượng cao thoả mãn
yêu cầu người tiêu dùng.
- Trung Quốc là quốc gia sản xuất chè hàng đầu thế giới. Nghiên cứu sử
dụng giống chè tốt trong sản xuất được các nhà khoa học Trung Quốc quan tâm từ
rất sớm. Ngay từ đời nhà Tống, Trung Quốc đã có 7 giống chè tốt ở Vũ Di Sơn.
Các giống chè Thuỷ Tiên (1821 - 1850), Đại Bạch Trà (1850), Thiết Quan Âm đã
có từ hơn 200 năm về trước đều là những giống chè chiết cành (Nguyễn Văn
Toàn, 1994).
Sở Nghiên cứu chè Tứ Xuyên Trung Quốc trong năm 1960 bắt đầu nghiên
cứu lai hoa thụ phấn nhân tạo, đã bồi dục thành hai giống chè Thuộc Vĩnh số 1 và
số 2 đã được công nhận là giống chè quốc gia. Sở Nghiên cứu chè Hồ Nam, Trung
Quốc từ năm 1975 trở lại đây, đã tiến hành 525 tổ hợp lai tạo thụ phấn nhân tạo và
thu được một số giống chè mới có triển vọng (Trịnh Khởi Khôn, Trang Tuyết
Phong, 1997), (Nguyễn Thị Minh Phương, Đỗ Văn Ngọc, Nguyễn Văn Toàn, 2006,
2007, 2008).
Hiện nay công tác giống chè ở Trung Quốc được đặc biệt quan tâm, chủ yếu
chọn giống chè theo hướng chất lượng cao để tạo ra những sản phẩm chè đặc biệt,
nổi tiếng trong nước và thế giới, (Chen Rong Bing, 1995).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

Ngoài những giống nổi tiếng từ lâu đời, Trung Quốc hiện có nhiều giống chè
cho năng suất cao, chất lượng rất tốt cho cả chế biến chè xanh và chè đen như: Phúc
Vân Tiên (1957 - 1971), Hoa Nhật Kim, Hùng Đỉnh Bạch (Phúc Kiến), Phú Thọ 10
(Vân Nam), Long Vân 2000 (Triết Giang), các giống chè có chất lượng nổi tiếng
như Đại Bạch Trà, Thiết Quan Âm, Long Tỉnh…Ngày nay trong chọn tạo giống chè
Trung Quốc đã sử dụng các phương pháp: nhập nội giống, chọn lọc cá thể, đặc biệt

phương pháp lai hữu tính đã được áp dụng rộng rãi và thu được nhiều thành tựu.
- Theo tác giả Đỗ Ngọc Quỹ, Đỗ Thị Kim Oanh (2011) từ những năm 50
của thế kỷ 20, Ấn Độ đã thành công trong việc chọn ra 110 giống chè tốt, trong
đó có 102 giống chè được nhân bằng phương pháp vô tính. Đến năm 2003, Ấn Độ đã
có trên 80% diện tích chè được trồng bằng giống tốt chủ yếu là giống chè Assamica
được chọn lọc bằng phương pháp chọn lọc cá thể.
Theo Đỗ Ngọc Quỹ, Lê Tất Khương (2000), L. Rajanna and M. Ramakrishnan1
(2010) và S.M.Kamunya (2009), Ấn Độ, Nhật Bản, Srilanca, Trung Quốc, Gruria …
đã sử dụng công nghệ sinh học trong chọn giống chè tốt, dùng phôi non, phôi hom
bồi dưỡng thành cây chè hoàn chỉnh. Sử dụng phương pháp lai, sử dụng ưu thế lai để
tạo ra giống chất lượng cao phục vụ cho sản xuất.
Bằng phương pháp công nghệ sinh học năm 1990 Ấn Độ đã chọn ra dòng
tam bội TV29 có tiềm năng cho năng suất cao.
Bằng phương pháp chọn lọc cá thể tại Tocklai đã chọn ra các giống TV1,
TV23 có sản lượng và chất lượng khá.
Phương pháp lai hữu tính được Ấn Độ rất quan tâm đã chọn ra giống VTA
54 có năng suất và chất lượng khá. Từ cặp lai TV1/19,31,14 tại Tocklai đã chọn ra
giống TS449 có năng suất cao, chất lượng khá có khả năng chịu hạn tốt. Cũng bằng
phương pháp lai hữu tính đã chọn ra các giống TS450; TS462, TS463, TS464,
TS491 và TS520 đều là các giống sinh trưởng khoẻ có khả năng chịu hạn rất tốt
(Trịnh Khởi Khôi, Trang Tuyết Phong, 1997).
Công tác chọn dòng trên thứ chè Assamica cũng được Ấn Độ đẩy mạnh,
trong đó đã chú trọng chọn ra những giống chè thích nghi cho những vùng có độ
cao, độ ẩm khác nhau.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

- Nhật Bản là nước đầu tiên nhập giống chè từ Trung Quốc. Bắt đầu từ
những năm 1952, Nhật Bản đã xây dựng chế độ đăng ký các giống chè tốt, các Sở
Nông lâm các tỉnh đã đăng ký 33 giống tốt, trong đó chủ lực là giống Yabukita.

Năm 1968, giống mới chiếm 22,4% và ngày nay, giống mới đã chiếm trên 65,2% diện
tích chè (Đỗ Ngọc Quỹ, Lê Tất Khương, 2000).
Công tác chọn dòng cũng được đặc biệt chú ý, nhiều giống chè mới đã được
đưa vào sản xuất như: Merioku, Saemidori, Asanoka, Asatsuyu, Yutaka midori và
đặc biệt đã chọn được giống Yabukita có chất lượng chè xanh rất tốt hiện nay giống
này đã chiếm 70% diện tích chè ở Nhật Bản (Lê Tất Khương, Hoàng Văn Chung,
1999), L Rajanna và M Ramakrishanan1, 2011), (Wight W, 1959).
- Liên Xô (cũ) là một nước sản xuất và tiêu thụ chè lớn trên thế giới. Giống
chè chủ yếu là hạt chè nhập từ Kỳ Môn - Trung Quốc. Ngoài ra họ còn nhập giống
của Ấn Độ và SriLanca. Năm 1927 - 1928 đã trồng được các giống chè chọn lọc lai
tạo như giống Quốc gia số 1 và số 2 cho năng suất cao hơn đại trà 25 - 40 %, phẩm
chất tốt. Năm 1970 - 1971 họ bắt đầu trồng giống chè Kônkhitđa-1 dòng vô tính
giâm cành, có phẩm chất tốt và có năng suất cao hơn đại trà 50 - 60%.
- Năm 1824, SriLanca nhập hạt chè Trung Quốc gieo trồng tại vườn Bách
thảo Hoàng Gia Peradeniya (Kandy). Năm 1839, lại nhập hạt chè Assamica từ Ấn
Độ cũng trồng tại vườn bách thảo trên. Vào năm 1867, toàn bộ các đồn điền cà phê
bị nấm rỉ sắt phá hại, họ đã chuyển sang trồng chè (trồng được 24 vạn ha). Năm
1958 bắt đầu trồng 40 dòng chè mới Sêri chọn lọc 2020 (phổ biến các giống như:
TRI 2023, TRI 2025, TRI 2026, TRI 2043…), có năng suất cao, chất lượng tốt
(Trần Thị Lư, Nguyễn Văn Toàn, 1994). Sau đó là Sêri 3013 đến 3020, ngoài ra còn
sử dụng chè hạt lai giữa 2023/2026 (Trần Thị Lư, Nguyễn Văn Niệm, 1998) và các
tác giả (Đỗ Ngọc Quỹ, Đỗ Kim Phong, 1997), (Nguyễn Văn Toàn và cs, 1994),
(Trại Thí nghiệm chè Phú Hộ, 1980), (Bautista & cs, 1994), (Pau S, Wachina FN,
et. at.,1997). Từ những năm 1960 trở lại đây đã chọn ra các dòng chè triển vọng như
TRI
14
, DT, DN, DP và DV (Đỗ Ngọc Quỹ, Lê Tất Khương (2000).
Qua 100 năm, Ngành chè thế giới đã tổng kết: Công tác chọn tạo giống chè
mới được đẩy mạnh, cây chè từ lúc tuyển chọn đến lúc tạo thành giống mới, đưa ra
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16

sản xuất cần thời gian dài. Theo thống kê đến năm 1990 của 11 nước và khu vực
trồng chè trên thế giới có số lượng giống chè mới tạo ra là 446 giống, trong đó có 387
giống vô tính chiếm 77%, giống lưỡng hệ, đa hệ vô tính 22 giống chiếm tỷ trọng
4,93%, giống hữu tính chọn lọc 37 giống chiếm tỷ trọng 8,3%. Tỷ trọng phổ cập
giống chè tốt trong sản xuất cao nhất ở Trung Quốc và Đài Loan trên 90%, tỷ lệ phổ
cập giống mới ở Ấn Độ và Kênia cũng đạt tới 80% (Trịnh Khởi Khôn, Trang Tuyết
Phong, 1997). Để chọn lọc các giống chè mới, các nước cũng áp dụng nhiều phương
pháp khác nhau như: Chọn lọc cá thể, chọn lọc cây đầu dòng, lai hữu tính, nhập nội
giống, gây đột biến, công nghệ sinh học, Trong đó phương pháp lai hữu tính và
chọn lọc cá thể được chú ý và có nhiều thành công.
2.4.1.2. Nghiên cứu đặc tính sinh vật học của cây chè
Các đặc điểm hình thái của cây chè (thân, lá, búp), đặc tính sinh trưởng của
cây chè, thời gian sinh trưởng (bắt đầu, kết thúc sinh trưởng búp …), số đợt sinh
trưởng búp/năm… có quan hệ chặt chẽ với khả năng cho năng suất và chất lượng
chè nguyên liệu. Do vậy nghiên cứu đặc tính sinh vật học cây chè nhằm tuyển chọn
giống chè tốt luôn được các nhà chọn giống trên thế giới quan tâm.
Nghiên cứu về sinh trưởng phát triển của cây chè, tác giả A.Alidatde (1964)
cho thấy sự hình thành các đợt sinh trưởng là: khi trên búp chè có 5 lá thì ở nách các
lá thứ nhất, thứ hai đã có những mầm nách, khi lá thứ 6 xuất hiện thì trên búp chè
có mầm nách thứ 3, khi lá thứ 7 xuất hiện thì trên búp chè có mầm nách lá thứ tư.
Ông cũng cho rằng: khi mầm chè qua đông có 2 lá đầu tiên bao bọc mầm chè là lá
vảy ốc, tiếp theo là lá cá. Những mầm nách của những lá vảy ốc, lá cá là các mầm
ngủ, các mầm nách của lá thứ 4 thứ 5 của đợt sinh trưởng thứ nhất sẽ phát triển
thành búp của đợt sinh trưởng thứ 2.
Nghiên cứu thời gian hoàn thành một đợt sinh trưởng búp, các tác giả Carr
(1992), Squire (1979), Tan ton (1982) đã đưa ra giá trị trung bình là 47,5 ngày tuy
nhiên số ngày cho 1 đợt sinh trưởng biến động từ 30-42 ngày vào mùa hè và
70- 160 ngày vào mùa đông.

Viện sĩ Bakhơtadze К.Е (1948) khi nghiên cứu kích thước lá chè đã đi đến
kết luận: Kích thước lá chè biến động theo giống chè và tuổi của cây chè, trong đó
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 17

những giống chè Ấn Độ thường có kích thước lá lớn nhất và kích thước lá của
những giống chè Nhật Bản thường nhỏ nhất.
Nghiên cứu về quan hệ giữa lá chè với năng suất chất lượng chè Bakhơtadze
К.Е (1971) cho rằng: Góc lá tối ưu cho quang hợp của cây chè là 45
0
, lá chè màu
vàng là đặc trưng có lợi cho các chỉ tiêu sinh hoá búp chè. Nghiên cứu tương quan
giữa số búp/tán và năng suất búp của nương chè tác giả đưa ra kết luận: Tương quan giữa
số lượng búp và năng suất chè là 0,956 ± 0,064.
Mật độ búp và khối lượng búp là nhân tố quan trọng tạo nên sản lượng chè.
Tác giả Tanton Kumar Mondal, (2004), Tanton T.W (1981a), (1982), Tanton T.W,
(1982) cũng chỉ ra nhân tố quan trọng nhất là mật độ búp đóng góp tới 89%, còn
khối lượng búp tương tự chỉ đóng góp 11%.
Từ các nghiên cứu trên cho thấy mỗi giống chè có những đặc điểm hình thái
lá, búp, thân, cành khác nhau, các tính trạng đặc trưng của chúng có liên quan mật
thiết tới năng suất và chất lượng chè. Đây là cơ sở quan trọng giúp cho các chà chọn
giống có định hướng để chọn ra các giống chè có năng suất và chất lượng đáp ứng
mục tiêu sản phẩm, vì thế có thể rút ngắn được thời gian chọn tạo các giống chè.
2.4.1.4. Nghiên cứu đặc tính chất lượng nguyên liệu búp chè)
Búp chè là nguyên liệu để chế biến chè, nó gồm 2 đặc tính: Đặc tính bên
ngoài là thành phần cơ giới búp và đặc tính bên trong là nội chất được phản ánh
bằng các chỉ tiêu hóa học chủ yếu như: Chất hòa tan, tanin, đường, axít amin và một
số chất khác.
- Thành phần cơ giới búp phụ thuộc vào mùa vụ, giống, kỹ thuật hái:
Để đánh giá chất lượng nguyên liệu tươi nhiều nước sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lá

già và lá bánh tẻ. Nếu tỷ lệ lá già và lá bánh tẻ càng cao thì chất lượng nguyên liệu
chè càng giảm.
Ở Trung Quốc, Ấn Độ và Srilanka, dùng số lá nhiều hay ít đế xác định độ
non già và cũng thông qua đó mà đánh giá chất lượng nguyên liệu chè (Trạm
Nghiên cứu cây Á nhiệt đới, 2006).
- Để đánh giá chất lượng búp chè, người ta chủ yếu quan tâm đến hàm lượng
các chất tanin, catechine, chất hòa tan, axit amin, đường. Trong đó, các hợp chất
tanin, axit amin và đường có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng chè xanh và chè
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 18

oolong. Theo các tác giả Cuôcxanov 1952, Bacutrava 1958, Djemukhadze 1976,
hương và vị đặc trưng của chè được hình thành bởi tác dụng chủ yếu của tanin và
các sản phẩm oxy hoá của chúng. Hàm lượng tanin trong chè phụ thuộc nhiều yếu
tố khác nhau như giống chè, độ cao địa hình, chế độ canh tác, thời vụ thu hoạch, độ
non già của búp chè.
Mối quan hệ giữa axit amin và đường khử tới chất lượng chè xanh và chè
Olong được các nhà khoa học nghiên cứu về chè thống nhất như sau (Đỗ Văn Ngọc,
Trịnh Văn Loan, 2008): Búp chè, trong quá trình chế biến chè xanh, chè Olong
(nhiệt độ cao), axit amin tác dụng với đường để tạo thành các chất thơm (tạo ra mùi
thơm trong chè thành phẩm).
Tại Nhật Bản, theo Katsuyuki Yoshida (2008), các nhà chọn giống chè khi
chọn giống chỉ duy nhất theo hướng chế biến chè xanh. Chỉ tiêu quan trọng nhất khi
chọn ra giống chè tốt là có hàm lượng axit amin càng cao càng tốt, các giống chè
Nhật Bản phổ biến có hàm lượng axit amin từ 2,5 - 3%.
Các giống chè khác nhau có hàm lượng đường hòa tan cũng khác nhau, theo
Kharepbava G.L (1969) cho biết trong búp giống chè Grudia có hàm lượng đường
hoà tan trung bình đạt từ 2,5 - 3% khối lượng chất khô. Hàm lượng đường hòa tan
còn phụ thuộc vào độ non già của búp, thời vụ thu hoạch khác nhau.
2.4.1.5. Nghiên cứu các tính trạng có liên quan đến chất lượng

Tác giả GUO Jichun (TQ) khi nghiên cứu trên 50 giống chè Olong An Khê và
Vũ Di (TQ) đã cho thấy rằng hầu hết chúng là cây thân bụi, lá trung bình, bật búp
trung bình và muộn. Cây có lá màu xanh tía và búp non có màu đỏ tía. Khi tiến hành
quan sát trên 55 giống chè Olong từ Phúc Kiến, kết quả cho thấy 78% là cây thân bụi,
93% là giống có lá cỡ trung bình, 44% là giống bật búp trung bình và 31 % là giống
bật búp muộn (25% là giống bật búp sớm, trong đó chủ yếu là các cây mới trồng).
Các giống có cành non (lá và búp non) mầu xanh vàng, xanh tía, đỏ tía là 84%; cành
non có lông tuyết rải rác là 95%. Cành non có màu xanh vàng, xanh tía, đỏ tía và có
lông tuyết là những đặc điểm nông học chính của giống chè Olong.
Các tác giả đều cho rằng: Các mẫu chè có hương thơm mạnh có liên quan nhiều
đến chất lượng búp non và màu sắc của lá tươi. Những giống Olong có hương đậm
luôn có đặc điểm là cành non màu đỏ tía hoặc xanh tía, vàng xanh, điều này có thể có

×