Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Thực trạng nghiên cứu hải văn biển trên thế giới và tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.04 KB, 24 trang )

Hải văn biển

1 Sinh viên Hoàng Ngọc Hân

MỤC LỤC
Lời nói đầu ...................................................................................................................................... 2
I. TỔNG QUAN VỀ HẢI VĂN BIỂN VÀ HẢI VĂN BIỂN VIỆT NAM .................................... 3
1. Các yếu tố động lực biển ......................................................................................................... 3
1.1. Thủy triều và dòng triều vùng khơi và ven bờ Việt Nam ................................................. 3
1.2. Nước dâng do bão và gió mùa vùng khơi và ven bờ Việt Nam ....................................... 5
1.3. Đặc điểm trường sóng vùng khơi và ven bờ Việt Nam .................................................... 7
1.4. Dòng chảy vùng khơi và ven bờ Việt Nam ..................................................................... 9
2. Các yếu tố thủy văn biển ....................................................................................................... 11
2.1. Nhiệt độ nước vùng khơi và ven bờ Việt Nam ............................................................... 11
2.2. Độ mặn vùng khơi và ven bờ Việt Nam ......................................................................... 12
2.3. Hàm lượng oxy hòa tan vùng khơi và ven bờ Việt Nam ................................................ 12
II. THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU HẢI VĂN BIỂN TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM . 14
1. Thực trạng nghiên cứu hải văn biển trên thế giới ................................................................. 14
2. Vai trò của nghiên cứu hải văn biển đối với Việt Nam ......................................................... 15
3. Thực trạng nghiên cứu hải văn biển tại Việt Nam ................................................................ 17
3.1. Công tác điều tra cơ bản hải văn biển ............................................................................. 17
3.2. Công tác điều tra khảo sát hải văn biển .......................................................................... 18
3.3. Công tác dự báo, phục vụ nghiên cứu hải văn biển ........................................................ 18
3.4. Công tác khoa học công nghệ trong nghiên cứu hải văn biển ........................................ 18
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU HẢI VĂN BIỂN ................................ 20
1. Những vấn đề còn tồn tại trong nghiên cứu hải văn biển tại Việt Nam ................................ 20
2. Một số đề xuất nâng cao chất lượng nghiên cứu hải văn biển .............................................. 20
Kết luận ......................................................................................................................................... 23
Tài liệu tham khảo ........................................................................................................................ 24



Hải văn biển

2 Sinh viên Hoàng Ngọc Hân


Lời nói đầu
Thủy văn học (tiếng Anh: hydrology, gốc Hy Lạp: Yδρoλoγια.
Yδωρ+Λoγos,hydrologia, nghĩa là "khoa học về nước") là ngành khoa học nghiên cứu
về sự vận động, phân phối, và chất lượng của nước trên toàn bộ Trái Đất, và vì thế nó đề
cập đến cả vòng tuần hoàn nước và các nguồn nước. Các lĩnh vực của thủy văn học bao
gồm khí tượng-thủy văn, thủy văn nước mặt, địa chất thủy văn, quản lý lưu vực
sông và chất lượng nước, những nơi mà nước đóng vai trò chủ đạo.
Hải văn biển bao gồm hai nội dung là thủy văn biển và động lực biển. Trong đó,
thủy văn biển đề cập đến chế độ nhiệt độ, độ muối của nước biển. Còn động lực biển nói
về chế độ dao động mực nước biển như nước dâng do bão, nước biển dâng do biến đổi
khí hậu, sóng biển do gió gây ra, và các loại dòng chảy (dòng chảy gió, dòng chảy địa
chuyển, dòng chảy thủy triều, cuối cùng là dòng chảy tổng hợp).
Việc nghiên cứu hải văn biển có ý nghĩa ứng dụng quan trọng. Việc phân tích thủy
văn và khí tượng biển giúp dự báo, cảnh báo các hiện tượng khí tượng thủy văn nguy
hiểm như bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, lũ lụt, hạn hán, nắng nóng, rét hại kéo dài, triều
cường, sóng, nước dâng, từ đó góp phần vào phòng phát triển kinh tế - xã hội ở các địa
phương, đặc biệt sẽ phát triển công nghệ dự báo thời tiết hạn cực ngắn. Bên cạnh đó, có
thể thấy các vi phạm, tranh chấp cũng như sự cố về môi trường như sự cố tràn dầu đang
diễn ra ngày càng phổ biến, kéo theo ô nhiễm nguồn nước cũng đang ngày càng trầm
trọng. Vì vậy, việc nghiên cứu hải văn biển sẽ đóng góp đáng kể vào việc tính toán,
lượng hóa các thiệt hại môi trương do các sự cố này gây ra, từ đó, là căn cứ để giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, bồi thường về môi trường, chẳng hạn việc nắm được tốc độ sóng,
các hiện tượng thời tiết bất thường như bão, lũ có thể tính toán được mức độ lan tỏa của
dầu. …. Do đó, có thể thấy, các ứng dụng của hải văn biển đang ngày càng trở nên phong
phú, và thiết thực hơn, đồng thời cũng đòi hỏi sự đầu tư tìm hiểu, nghiên cứu cụ thể hơn.

Báo cáo sau sẽ trình bày các khái niệm cơ bản của hải văn biển nói chung và phân
tích đặc điểm hải văn biển Việt Nam nói riêng, đồng thời trình bày thực trạng nghiên cứu
hải văn trên thế giới, cũng như tại Việt Nam, từ đó đưa ra các đề xuất nâng cao hiệu quả
hoạt động nghiên cứu hải văn ở nước ta.
Hải văn biển

3 Sinh viên Hoàng Ngọc Hân

I. TỔNG QUAN VỀ HẢI VĂN BIỂN VÀ HẢI VĂN BIỂN VIỆT NAM
Hải văn biển bao gồm hai nội dung là thủy văn biển và động lực biển. Trong đó,
thủy văn biển đề cập đến chế độ nhiệt độ, độ muối của nước biển. Còn động lực biển nói
về chế độ dao động mực nước biển như nước dâng do bão, nước biển dâng do biến đổi
khí hậu, sóng biển do gió gây ra, và các loại dòng chảy (dòng chảy gió, dòng chảy địa
chuyển, dòng chảy thủy triều, cuối cùng là dòng chảy tổng hợp).
Các yếu tố hải văn biển bao gồm các yếu tố của thủy văn biển và động lực biển.
Phần sau sẽ trình bày chi tiết hơn về các yếu tố hải văn biển nói chung, và đặc điểm hải
văn biển Việt Nam nói riêng.
1. Các yếu tố động lực biển
1.1. Thủy triều và dòng triều vùng khơi và ven bờ Việt Nam
Hiện tượng thủy triều là chuyển động sóng dài, dưới tác động của lực tạo triều
tuần hoàn trong đại dương có các chu kỳ tương ứng với chu kỳ của các lực, nhưng biên
độ và pha khác với lực. Thủy triều trong biển và đại dương được hình thành dưới tác
động tổng hợp của lực hút vũ trụ mặt trăng và mặt trời đối với quả đất. Lực tạo triều của
mặt trăng trung bình lớn gấp 2,17 lần lực tạo triều của mặt trời. Do vậy những đặc trưng
cơ bản của hiện tượng thủy triều trên đại dương thế giới được quyết định bởi vị trí tương
hỗ của mặt trăng và trái đất.
Chế độ thủy triều trên các biển và đại dương phụ thuộc không chỉ vào các yếu tố
thiên văn mà còn phụ thuộc vào rất lớn điều kiện địa lý. Điều đó được thể hiện trong
công thức dự báo dao động mực nước thủy triều:
h

t
=

n
1
H
n.
f.cos(q
m
t + g
n
+ u + v)
trong đó, H
n
và g
n
– hằng số điều hòa các sóng thành phần được tính từ số liệu quan trắc
mực nước dài ngày.
Một đặc điểm rất quan trọng của thủy triều là mực nước dao động theo các chu kỳ
khác nhau. Các chu kỳ này là do các sóng biến đổi theo thời gian. Dựa vào kết quả quan
Hải văn biển

4 Sinh viên Hoàng Ngọc Hân

trắc và tính toán, người ta chia ra hai loại chu kỳ: chu kỳ ngày và chu kỳ năm. Theo chu
kỳ năm. trong một năm thủy triều cũng thay đổi. Sự thay đổi này xảy ra là do tương quan
vị trí giữa các thiên thể quanh Trái Đất quyết định. Còn chu kỳ ngày là chu kỳ dao động
mực nước biển quan trọng nhất và tạo nên chế độ triều tại mỗi địa điểm khác nhau. Trong
đó có bốn chu kỳ chính: bán nhật triều đều, bán nhật triều không đều, nhật triều đều, nhật
triều không đều.

Tại Việt Nam, các sóng bán nhật triều khi truyền từ Thái Bình Dương vào Biển
Đông có biên độ lớn hơn rõ rệt so với biên độ của sóng nhật triều. Tuy nhiên, do điều
kiện địa hình thay đổi, đặc biệt là địa hình tại khu vực Vịnh Bắc bộ và Vịnh Thái Lan,
các sóng nhật triều mạnh lên và trong nhiều trường hợp áp đảo sóng bán nhật triều. Tác
động của địa hình đáy và hình dạng bờ biển cũng tạo ra các vùng nhật triều thuần tuý
hoặc nhật triều không đều và thu hẹp các vùng sóng bán nhật triều, tạo ra các vùng sóng
bán nhật triều không đều, làm cho các vùng biển ven bờ và khơi Việt Nam có tính chất
thủy triều rất đa dạng. Các sóng tiến lúc đầu chuyển dần thành dạng sóng tiến - đứng
hoặc đứng - tiến, tạo ra các điểm vô triều tại các khu vực cửa Vịnh Bắc bộ và Vịnh Thái
Lan. Cũng tương tự như đối với thủy triều, dòng triều bị biến đổi mạnh khi sóng triều
truyền vào các khu vực ven bờ dưới ảnh hưởng của địa hình vùng biển và hình dạng bờ
biển. Các đặc điểm của thủy triều và dòng triều không hoàn toàn phù hợp với nhau do sự
khác biệt về cơ chế vật lý của dao động mực nước triều (thủy triều) và chuyển động các
khối nước trong sóng triều (dòng triều).
Vùng ven bờ Vịnh Bắc bộ (Hải Phòng - Quảng Ninh) và khu vực Vũng Tàu, thủy
triều có thể vượt quá 4m trong chu kỳ 19 năm. Vùng có thủy triều thấp nhất là khu vực
ven biển Thuận An và cửa Vịnh Thái Lan với giá trị không vượt quá 0,5m. Các vùng ven
bờ và khơi còn lại của Việt Nam có độ lớn thủy triều dao động trong khoảng 1,5 đến 3 m.
Dòng triều cực đại thay đổi rất mạnh phụ thuộc vào địa hình khu vực bờ và ảnh
hưởng của các đảo, eo biển, cửa vịnh, ... Khu vực vịnh Diễn Châu (Nghệ An) có thể xảy
ra dòng triều cực đại chu kỳ 19 năm với giá trị lớn hơn 1 m/s.

Hải văn biển

5 Sinh viên Hoàng Ngọc Hân

Bảng 1. Phân vùng chế độ thủy triều và dòng triều vùng ven biển
và ngoài khơi Việt Nam
Vùng ven bờ
Thủy triều Dòng triều

Tính chất
Độ lớn
(m)
Tính chất
Độ lớn
(cm/s)
BNT BNTKD NTKD NT BNT BNTKD NTKD NT
Vịnh Bắc bộ X X x 1,0 – 4,5


x x x 25 - 100
Miền Trung x X X 0,5 – 2,3 x x 25 - 50
Đông Nam Bộ X X 2,0 – 3,0 x x 25 - 50
Tây Nam Việt Nam X X x 0,9 – 1,3 x x x 25 - 50
Chú giải: BNT: bán nhật triều; BNTKD:bán nhật triều không đều;NTKD:nhật triều
không đều; NT: nhật triều
Nguồn: Phạm Văn Ninh, Hà Nội, 2002. Chuyên khảo khí tượng hải văn, động lực biển
Việt Nam. tập 1,2
1.2. Nước dâng do bão và gió mùa vùng khơi và ven bờ Việt Nam
Trong khoảng thời gian 1970 - 1996, có tới 28 cơn bão đổ bộ trực tiếp vào vùng
ven bờ biển Quảng Ninh - Hải Phòng, trong đó có cơn bão Sarah đổ bộ trực tiếp vào vùng
bờ biển Hải Phòng ngày 21/7/ 1977 với sức gió mạnh nhất đạt 51 m/s, hay cơn bão Vera
đổ bộ vào Quảng Yên ngày 18/7/1983 với sức gió đạt tới 40 m/s.
Trong khoảng thời gian 1956 - 1989 có 20 cơn bão đổ bộ vào vùng bờ biển Thanh
Hoá, trong đó có 11 cơn bão bắt nguồn từ Tây Thái Bình Dương và 9 cơn bão hình thành
trên Biển Đông. Chỉ tính riêng khu vực Kỳ Anh, Hà Tĩnh, trong khoảng thời gian 1970 -
1991 có 7 cơn bão đổ bộ trực tiếp (không kể các cơn bão gây ảnh hưởng), trong đó có
cơn bão Becky đổ bộ ngày 30/8/1990 với sức gió đạt tới 54 m/s.
Vùng bờ biển Nam Bộ và Nam Trung Bộ vẫn được xem là ít chịu ảnh hưởng của
bão. Trong khoảng thời gian 1968 - 1988 có 9 cơn bão muộn đổ bộ vào các tháng 10 - 11

Hải văn biển

6 Sinh viên Hoàng Ngọc Hân

gồm: bão Thelma - tháng 10/1968, Hester - 10/1968, Ruth - 11/ 1970, Nora - 11/1970,
Thelma - 11/1973, Mamie - 11/1981, Nina 11/1983, Lucy 11/1985 và Kate - 11/1988.
Nước dâng do bão là một hiện tượng tự nhiên rất nguy hiểm đối với tính mạng và
tài sản của các nước có vùng biển nơi bão đổ bộ nói chung và ở vùng biển ven bờ Việt
Nam nói riêng. Ở vùng biển ven bờ nước ta, nước dâng cực đại ghi được trong cơn bão
DAN năm 1989 là 3,6 m. Năm 1985, cơn bão Cecil đổ bộ vào khu vực Huế - Bình Trị
Thiên (cũ) gây nước dâng và làm chết hơn 1.000 người. Năm 1989, nước dâng do bão
làm chết 352 người, mất tích 600 người. Năm 1990, nước dâng do bão làm chết 356
người, … Nước dâng do bão xảy ra vào các thời kỳ triều cường làm mực nước dâng cao,
phá hủy đê đập, công trình, đường xá, tràn vào đồng ruộng. Sóng mạnh trên nền nước cao
là nguyên nhân gây ra các thiệt hại to lớn về người và của tại vùng ven biển Việt Nam.
Ngoài ra, những đợt gió mùa mạnh cấp 6-7 kéo dài cũng gây nước dâng chừng 30-40 cm.
Tuy nước dâng trong gió mùa không lớn nhưng xảy ra rất thường xuyên (thí dụ trong 3
năm 1977-1979, ở khu vực ven bờ Vịnh Bắc bộ đã thống kê được 60 đợt gió mùa).
Về chế độ nước dâng do bão, khu vực biển ven bờ phía Bắc Việt Nam (từ 16
o
đến
22
o
N) có thể chia thành 6 vùng (Phạm Văn Ninh, 2002): vùng 1 từ 22
o
đến 21
o
N (biên
giới Việt Trung đến Hải Phòng), vùng 2 từ 21
o

đến 20
o
N (Hải Phòng - Cửa Đáy), vùng 3
từ 20
o
đến 19
o
N (Cửa Đáy - Cửa Vạn), vùng 4 từ 19
o
đến 18
o
N (Cửa Vạn - Đèo Ngang),
vùng 5 từ 18
o
đến 17
o
N (Đèo Ngang - Cửa Tùng) và vùng 6 từ 17
o
đến 16
o
N (Cửa Tùng-
Đà Nẵng). Các đặc điểm nước dâng tại 6 vùng này như sau:
- Bão đổ bộ nhiều nhất vào vùng 1 (26 cơn bão trong 30 năm trên tổng số 101 cơn
bão đổ bộ vào khu vực ven bờ phía Bắc), ít nhất vào vùng phía Nam - vùng 6 (có 6 cơn
bão) và phân bố gần như đều trong các vùng còn lại.
- Bão đổ bộ vào vùng 6 thường ít nguy hiểm nhất vì không có cơn nào gây nước
dâng cao hơn 150 cm và chỉ có hai cơn (trong 6 cơn) gây nước dâng cao hơn 100 cm.
- Bão đổ bộ vào vùng 2 và vùng 4 nguy hiểm hơn cả vì có tới 50% và 56% gây
nước dâng lớn hơn 150cm, trong đó có 33% và 12% gây nước dâng hơn 200 cm.
- Bão đổ bộ vào các vùng 1, 3, 5 nói chung ít nguy hiểm hơn các vùng 2 và 4.

Hải văn biển

7 Sinh viên Hoàng Ngọc Hân

Vùng ven biển Việt Nam từ Móng Cái đến Đà Nẵng có chế độ nước dâng sau:
- Cứ 2 cơn bão có một cơn gây nước dâng đáng kể (hơn 100 cm).
- Cứ 10 cơn bão có 3 cơn gây nước dâng nguy hiểm (hơn 150 cm).
- Cứ khoảng 10 cơn bão có một cơn gây nước dâng cực kỳ nguy hiểm (hơn 200
cm).
Nước dâng do bão khu vực biển miền Trung và miền Nam (từ vĩ tuyến 16
o
N trở
xuống) thuộc loại không lớn lắm, cao nhất đạt cỡ 200 cm và rất ít khi xảy ra, thường chỉ
dưới 50 cm. Mực nước dâng 80 cm có thể xảy ra tại mọi vĩ độ của khu vực này. Đoạn bờ
phía Bắc có thể có nước dâng lớn hơn (đến 140 cm). Đoạn bờ 14-15
o
N, nước dâng cực
đại có thể đạt 100 cm, đoạn 14-12
o
N đạt 80 cm, đoạn 12-11
o
N đạt 100 cm, đoạn 11-10
o
N
đạt 180 cm và đoạn bờ 10-8
0
N đạt 200 cm.
Gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam với cường độ tới cấp 5 đến cấp 8 không
gây nước dâng lớn trên toàn dải ven biển Việt Nam. Giá trị nước dâng thường từ 10-40
cm. Ở các vùng biển đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, gió mạnh hướng Đông có thể gây

nước dâng tới 40 cm.
1.3. Đặc điểm trường sóng vùng khơi và ven bờ Việt Nam
Trường sóng trên biển là một trong các yếu tố động lực biển quan trọng tác động
lên tàu thuyền, các công trình và mọi hoạt động trên biển. Trường sóng vùng ven bờ cũng
là nguyên nhân chính gây xói lở bờ biển, biến đổi đáy biển vùng ven bờ, tác động đến các
công trình bảo vệ bờ, công trình cảng và luồng ra vào cảng. Sóng và dòng chảy sóng còn
là nhân tố tác động đến các quá trình lan truyền ô nhiễm vùng ven bờ. Nước ta nằm trong
vùng tác động của bão và các loại gió mùa. Sóng trong gió mùa và bão là yếu tố hải văn
cực kỳ nguy hiểm trên biển.
- Trường sóng trung bình vùng ven bờ và ngoài khơi biển Việt Nam:
Để đưa ra các số liệu về chế độ trường sóng trung bình vùng ven bờ và ngoài khơi
cần sử dụng các số liệu độ cao sóng thực đo tại các trạm ven bờ dọc bờ biển nước ta gồm
Hải văn biển

8 Sinh viên Hoàng Ngọc Hân

12 trạm. Kết quả cho thấy vùng ven bờ biển Việt Nam có chế độ trường sóng trung bình
phụ thuộc trực tiếp vào các chế độ gió mùa. Vào mùa gió Đông Bắc và mùa bão (từ tháng
8 năm trước đến tháng 1 năm sau trường sóng thường khá mạnh đặc biệt tại các khu vực
biển thoáng miền Bắc và miền Trung như Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Phú Quý, Côn Đảo. Ở
các vùng vịnh được các đảo che chắn và khu vực Vịnh Thái Lan trường sóng trung bình
mùa và năm không lớn, sóng thường là sóng gió địa phương với chu kỳ nhỏ.
- Trường sóng cực đại vùng ven bờ và ngoài khơi biển Việt Nam:
Các số liệu sóng cực đại đo được tại các trạm ven bờ có thể đặc trưng cho sóng
bão vùng ven bờ nước ta vì tại các trạm này, đo đạc được tiến hành định kỳ theo các ốp
đo (obs), kể cả thời gian có bão. Bảng 2 đưa ra các kết quả đo đạc sóng cực đại tại các
trạm hải văn dọc ven bờ nước ta.
Bảng 2. Độ cao sóng trung bình
H
[m], chu kỳ sóng trung bình


[s] và tốc độ gió
V
[m/s] tại các trạm hải văn ven bờ và ngoài khơi Việt Nam
Trạm
hải văn
Tháng
10 - 1 2 – 4 5 - 7 8 - 10 TB năm
H



V

H



V

H



V

H




V

H



V

Cô Tô 0,4 3,0 4,8 0,3 3,2 3,7 0,5 3,5 4,3 0,5 3,5 4,5 0,7 4,0 6,0
Hòn Gai 0,1 1,5 3,0 0,1 1,5 2,2 0,1 1,5 3,2 0,1 1,5 3,2 0,1 1,5 3,0
Hòn Dáu 0,5 3,5 5,0 0,5 3,5 4,5 0,6 3,8 6,0 0,6 3,8 6,0 0,6 3,8 6,0
Bạch Long Vĩ 0,6 3,7 6,5 0,5 3,5 5,5 0,6 3,7 6,5 0,5 3,6 7,0 0,7 3,8 7,0
Văn Lý 0,4 3,0 3,5 0,4 3,0 3,5 0,5 3,5 4,0 0,5 3,5 4,0 0,5 3,5 4,0
Hòn Ngư 0,5 3,5 4,2 0,5 3,5 3,5 0,4 3,2 3,8 0,6 4,0 4,0 0,6 4,0 5,0
Cồn Cỏ 0,9 4,0 5,0 0,7 3,5 3,5 0,7 3,5 3,8 1,0 4,5 4,0 1,0 4,5 5,5
Sơn Trà 0,3 3,0 2,0 0,2 2,4 2,0 0,3 3,0 1,5 0,4 3,5 2,0 0,4 3,5 2,0
Phú Quý 0,9 4,7 8,0 0,7 4,5 4,5 0,8 4,6 7,5 0,8 4,7 6,0 0,8 4,6 7,0
Vũng Tàu 0,3 2,5 3,5 0,4 2,8 2,5 0,4 2,8 3,0 0,3 2,5 2,3 0,4 2,8 3,2
Hải văn biển

9 Sinh viên Hoàng Ngọc Hân

Trạm
hải văn
Tháng
10 - 1 2 – 4 5 - 7 8 - 10 TB năm
H




V

H



V

H



V

H



V

H



V

Côn Đảo 0,5 2,8 4,5 0,4 2,7 3,5 0,4 2,8 4,0 0,4 2,7 4,0 0,5 2,8 4,5
Phú Quốc 0,2 2,2 3,5 0,2 2,3 2,5 0,5 3,8 4,0 0,4 3,2 4,0 0,5 3,2 4,0
Nguồn: Phạm Văn Ninh, Hà Nội, 2002. Chuyên khảo khí tượng hải văn, động lực biển
Việt Nam. tập 1,2.

Bảng 3. Độ cao sóng hữu hiệu cực đại và chu kỳ sóng tương ứng theo số liệu thống kê
nhiều năm tại các vùng ven bờ Việt Nam
Trạm hải văn Cửa Ông Hòn Gai Cô Tô Hòn Dấu Văn Lý Bạch Long Vĩ
H [m] 2,5 1,5 5,0 5,6 5,0 7,0
T [s] - - 9 11 - 9
Trạm hải văn Hòn Ngư Cồn Cỏ Cửa Tùng Phú Quý Vũng Tầu Côn Đảo
H [m] 7,5 9,0 4,0 3,8 3,0 3,5
T [s] 9 9 9 - 6 5
Nguồn: Phạm Văn Ninh, Hà Nội, 2002. Chuyên khảo khí tượng hải văn, động lực biển
Việt Nam. tập 1,2
1.4. Dòng chảy vùng khơi và ven bờ Việt Nam
Đặc điểm chung của chế độ dòng chảy vùng biển Việt Nam là chế độ hoàn lưu
mùa với hai bức tranh gần như đối lập nhau ứng với hai mùa gió: mùa gió Đông Bắc
(mùa Đông) và mùa gió Tây Nam (mùa hè). Đối với hai thời kỳ chuyển tiếp, phụ thuộc
vào sự thay thế nhau của trường áp và trường gió mùa, các đặc trưng hoàn lưu có thể xuất
hiện sớm hơn hoặc lưu lại lâu hơn. Như vậy, đặc điểm dòng chảy khu vực ven bờ và khơi
biển Việt Nam chủ yếu hình thành do các quá trình tương tác biển - khí. Ngoài ra, ở các
vùng sát bờ còn chịu ảnh hưởng của dòng chảy trong sông đổ ra.

×