ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
PHẦN I: TỔNG QUAN
1.1. Công nghệ sản xuất thực vật bằng nuôi cấy mô
1.1.1. Lịch sử và thành tựu đạt được trong nhân giống invitro ở thực vật
1.1.1.1. Trên thế giới
Năm 1902: Haberlandt đề xuất phương pháp nuôi cấy mô tế bào đơn bội tuy
nhiên chưa mang lại thành công mỹ mãn.
Năm 1934 mô thực vật mới được cấy bởi A Carrel.
Năm 1939,1943,1945: Lần lượt Nobeccourt, White, Gautheret đã công bố
thành công sớm nhất về phương pháp nuôi cấy mô trên môi trường thạch.
Theo tiến sĩ White (1943) thì lịch sử của nuôi cấy mô tế bào thực vật đã có
từ lâu và mang ý nghĩa quan trọng trong lịch sử phát triển sinh học, tiềm năng của
nó được ứng dụng trong việc cải tiến chất lượng và nhân nhanh giống cây trồng.
Năm 1951, Skoog và Miller đã phát hiện ra các hợp chất có thể điều khiển
sự nhân chồi.
Năm 1960: Tiến sĩ Morel là người bắt đầu phương pháp nuôi cấy đỉnh sinh
trưởng. Ông là người đã đưa ra kỹ thuật nuôi cấy mô địa lan phát triển thành qui mô
công nghiệp và nghiên cứu thành công cây nho sạch bệnh bằng phương pháp nuôi
cấy mô(1945-1948).
Năm 1962, Murathige và Skoog đã cải tiến môi trường nuôi cấy đánh dấu
một bước tiến trong kỹ thuật nuôi cấy mô. Môi trường của họ dùng làm cơ sở cho
việc nuôi cấy nhiều loại cây và vẫn còn được sử dụng rộng rãi cho đến nay.
Năm 1964, Ball là người đầu tiên tìm ra mầm rễ từ việc nuôi cấy chồi ngọn.
Năm 1981: Takayama và Misawa đã thành công trong tự động hoá vi nhân
giống bằng các hệ thống bioreactor. Đến nay, ngành nuôi cấy mô đã khẳng định vai
trò quan trọng của mình bằng một kho tàng đồ sộ các công trình nghiên cứu của
mình về thưc vật in vitro.
Đầu thế kỉ 21, hàng loạt các công ty về vi nhân giống cây trồng thương mại
với qui mô lớn lần lượt ra đời trên khắp thế giới con số lên đến hơn 600 công ty.
Như vậy, kỹ thuật nuôi cấy mô đã thực sự mở ra một cuộc các mạng trong nhân
giống thực vật.
1.1.1.2. Ở Việt Nam
Từ những năm 1960 công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật đã được du
nhập vào nước ta bắt đầu tại miền Nam.
Đến đầu những năm 1970 thì đã có tại miền Bắc.
Sau 1975, phòng thí nghiệm nuôi cấy mô và tế bào đầu tiên được xây dựng
tại viện Sinh vật học, viện Khoa học Việt Nam do tiến sĩ Lê Thị Muội đứng đầu.
Hiện nay, các hướng nghiên cứu ứng dụng nuôi cấy mô và tế bào thực vật
được phát triển mạnh: dung hợp cây lai tế bào chất và chuyển gen, nuôi cấy bao
phấn để tạo dòng thuần, nuôi cấy các cây dược liệu quý để bảo tồn nguồn gen và
tạo các dòng tế bào có hàm lượng các chất sinh học.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 1 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Tuy nhiên chỉ từ cuối những năm 1980 trở lại đây công nghệ mô - tế bào
mới phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng, nhiều phòng thí nghiệm, nghiên cứu đã
được xây dựng và triển khai ở hầu khắp các tỉnh thành trong cả nước như: Hà Nội
Thành Phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Định,... Lĩnh vực áp dụng rộng rãi của
công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật là: bảo quản nguồn gen cây trồng, sự nhân
giống vô tính trên qui mô lớn, tạo hạt nhân tạo, sản xuất cây giống sạch bệnh
Nhu cầu cây giống trồng rừng nhân giống bằng phương pháp vô tính như
cây: xoan ta, chò chỉ, cáng lò, dó bầu... đang ngày càng phát triển, đòi hỏi phải đầu
tư nghiên cứu xây dựng các quy trình công nghệ nhân giống bằng nuôi cấy mô. Bên
cạnh đó, phong trào trồng các loại hoa mang tính hàng hóa như phong lan, đồng
tiền, cúc... đang ngày càng phát triển cũng đòi hỏi nguồn cây giống vô tính lớn,
đồng nhất mà chỉ có sản xuất bằng công nghệ nuôi cấy mô - tế bào mới đáp ứng
được.
1.1.2. Phương pháp nhân giống vô tính invitro ở thực vật
1.1.2.1. Nhân giống vô tính invitro ở thực vật
Định nghĩa
Nhân giống vô tính invitro ở thực vật hay còn gọi là nuôi cấy mô tế bào thực
vật. Đây là kĩ thuật cho phép nuôi cấy dễ dàng những tế bào thực vật hay mô phân
sinh sạch bệnh trong môi trường nhân tạo thích hợp để tạo ra những khối tế bào hay
những cây hoàn chỉnh trong ống nghiệm.
Ưu điểm
Kĩ thuật invitro mở ra khả năng lai khác loài để tạo ra giống mới và làm tăng
nhanh tính đa dạng di truyền, tạo dòng cây sạch bệnh.
Phục tráng giống cây trồng bị bệnh.
Nhân nhanh, tăng nhanh hệ số nhân giống, làm trẻ trung hóa cây trồng.
Sản phẩm cây giống đồng nhất, nâng cao chất lượng cây giống, tiết kiệm
không gian.
Dễ vận chuyễn và sản xuất quanh năm.
Đối với một số loài cây trồng có giá trị thương mại lớn, kĩ thuật nuôi cấy
invitro đã đem lại những hiệu quả kinh tế hết sức rõ rệt.
Hạn chế của nhân giống vô tính invitro
Hạn chế về chủng loại sản phẩm: trong điều kiện hiện nay không phải tất cả
cây trồng đều được nhân giống thương phẩm bằng vi nhân giống. Nhiều cây trồng
có giá trị kinh tế hoặc quý hiếm vẫn chưa thể nhân nhanh để đáp ứng nhu cầu
thương mại hoặc bảo quản nguồn gen. Nhiều vấn đề liên quan đến nuôi cấy và tái
sinh tế bào thực vật invitro vẫn chưa được giải đáp.
Chi phí sản xuất cao: vi nhân giống đòi hỏi nhiều lao động kĩ thuật thành
thạo nên giá thành sản phẩm còn khá cao so với các phương pháp truyền thống như
chiết, ghép và nhân giống bằng hạt.
Hiện tượng sản phẩm bị biến đổi kiểu hình: cây con nuôi cấy mô có thể sai
khác với cây mẹ ban đầu do hiện tượng biến dị tế bào soma. Kết quả là cây con
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 2 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
không giữ được đặc tính quý của cây mẹ. Tỷ lệ biến dị thường thấp ở giai đoạn đầu
nhân giống nhưng có chiều hướng tăng lên khi nuôi cấy kéo dài và làm tăng hàm
lượng các chất kích thích sinh trưởng.
Ứng dụng của phương pháp nhân giống vô tính invitro
Thời gian ngắn ( 1-3 năm ): vi nhân giống, sản xuất và bảo quản cây sạch
bệnh.
Thời gian trung bình ( 3-8 năm ): biến dị di truyền, nuôi cấy phôi soma, cứu
phôi và lai tạo giống qua nuôi cấy đơn bội.
Thời gian dài ( 8-15 năm ): lai tế bào soma và siêu sản xuất các chất thứ cấp
có hoạt tính sinh học.
1.1.2.2. Các phương pháp nhân giống invitro ở thực vật
a. Nuôi cấy đỉnh sinh trưởng
Nuôi cấy đỉnh sinh trưởng bao gồm nuôi cấy chóp đỉnh và chồi bên. Sau khi
vô trùng mẫu, mẫu được nuôi cấy trên môi trường thích hợp. Môi trường thích hợp
sẽ thay đổi theo từng loại cây trồng được đưa vào nuôi cấy nhưng cơ bản môi
trường chứa đầy đủ chất dinh dưỡng khoáng vô cơ, hữu cơ và được bổ sung chất
kích thích sinh trưởng thích hợp.
Từ một đỉnh sinh trưởng, sau một thời gian nuối cấy nhất định sẽ phát triển
thành một hay nhiều chồi. Sau đó, chồi sẽ tiếp tục vươn thân, ra lá, ra rễ và trở
thành một cây hoàn chỉnh. Cây con được chuyển ra đất có điều kiện phát triển bình
thường. Đây là một chu trình ngắn nhất và tiện lợi hơn các phương thức nhân giống
thông thường.
Dùng để tạo ra dòng cây sạch bệnh, hoàn toàn không có virus với hệ số nhân
giống cao. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có thể thực hiện được ở một số loài
thực vật nhất định.
b. Nuôi cấy mô sẹo
Trong điều kiện sự cân bằng các chất kích thích sinh trưởng trong thực vật
thay đổi, cụ thể trong tế bào đỉnh sinh trưởng hay nhu mô được tách ra nuôi cấy
riêng rẽ trên môi trường giàu auxin thì mô sẹo được hình thành.
Mô sẹo là một khối tế bào phát triển vô tổ chức, có màu trắng. Khối mô sẹo
có khả năng tái sinh thành cây hoàn chỉnh trong điều kiện môi trường không có chất
kích thích sinh trưởng tạo mô sẹo.
Nuôi cấy mô sẹo được thực hiện đối với các loài thực vật không có khả năng
nhân giống thông qua nuôi cấy đỉnh sinh trưởng.
Cây tái sinh từ mô sẹo có đặc tính giống cây mẹ và từ một cụm tế bào mô
sẹo có thể tái sinh cùng một lúc nhiều chồi hơn nuôi cấy đỉnh sinh trưởng nhưng
phương pháp này tạo ra mức độ biến dị tế bào lại cao hơn.
c. Gieo hạt lan nẩy mầm trong điều kiện in-vitro, rồi tái sinh thành cây hoàn
chỉnh
Thường sau khi thụ tinh, một cây lan cần thời gian từ 6 tháng đến 1 năm để
quả chín. Thông thường hạt lan tung ra và phát tán nhờ gió. Tuy nhiên, hạt lan rất
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 3 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
khó nẩy mầm trong tự nhiên (chỉ nẩy mầm từ 1-2%) do hạt lan không có chứa
anbumin và một phôi chưa phân hóa, có kích thước rất nhỏ nên không chứa chất dự
trữ. Vì vậy trong tự nhiên để hạt lan nẩy mầm nó cần cộng sinh với nấm. Có 3 loại
nấm cộng sinh trên nhiều giống lan khác nhau được biết:
Rhizoctonia repéns đặc biệt cho Cattleya, Laelie, Cypripedium
Rhizoctonia mucoroides cho Vanda và Phalaenopsis
Rhizoctonia lanuginosa cho Oncidium, Miltonia
Nấm sẽ cung cấp đường để nuôi cây, phân giải các chất hữu cơ khó hấp thu.
Bù lại cây sẽ cung cấp nước cho nấm, chỗ ở, các khoáng chất mà nó thu được từ
sương.
Dựa trên nguyên tắc này, các phòng thí nghiệm nuôi cấy mô đã tạo môi
trường gieo hạt lan trên môi trường dinh dưỡng nhân tạo có khoáng, đường và hạt
lan nảy mầm với tỷ lệ rất cao. Hiện nay, phương pháp nuôi cấy mô là phương pháp
duy nhất có thể nhân giống lan trên qui mô công nghiệp.
Trái lan khi hái phải đủ già và chưa bị nứt được đem khử trùng. Môi trường
cấy chuyền là môi trường gieo hạt nhưng bổ sung thêm 10% nước dừa cho
protocorm phát triển nhanh.
Khi chồi đã lớn chuyển sang môi trường như môi trường cơ bản, sau
khoảng 6 - 7 tháng tùy giống khi cây cao từ 4-5 cm, ra rễ và có từ 4 - 5 lá là có thể
mang ra ngoài trồng.
Hình 1.1. Hạt lan nẩy mầm sau 30 ngày bằng phương pháp nuôi cấy mô
d. Hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời trong nhân giống Lan Hồ Điệp lai
– Phalaenopsis hydrid
Hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời là một hệ thống không những tận
dụng được các ưu điểm của nuôi cấy lỏng và nuôi cấy trên thạch mà còn hạn chế
được nhược điểm của hai hệ thống nuôi cấy trên giúp tạo ra môi trường nuôi cấy
thoáng khí, cây con khỏe mạnh, tỉ lệ sống sót cao, giảm chi phí nhân công, tiết kiệm
và giảm chi phí môi trường nuôi cấy do sử dụng ít môi trường trên một mẫu cấy và
không sử dụng thạch, hệ số nhân được gia tăng nhiều lần so với khi nhân giống trên
hệ thống nuôi cấy thông thường.
“Ứng dụng hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời trong nhân giống cây Lan
Hồ Điệp lai (Phalaenopsis hybrid)” nhằm mục đích khảo sát khả năng ứng dụng của
hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời trong nâng cao số lượng cũng như chất lượng
của cây giống Hồ Điệp khi so sánh với các hệ thống nuôi cấy thông thường để góp
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 4 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
phần mở ra khả năng sản xuất với số lượng lớn cây giống có chất lượng tốt đáp ứng
với nhu cầu thị trường tại Việt Nam.
1. Hệ thống RITA®
Hình 1.2. Hệ thống RITA®, Pha 1: mô không ngập trong môi trường,
Pha 2: hiện tượng ngập được hoạt hóa, các van mở ra cho khí đi qua các
màng lọc đẩy môi trường lỏng lên ngập mô cấy, Pha 3: sự trao đổi khí trong
hệ thống RITA®, Pha 4: chu kỳ kết thúc, các van đóng lại và môi trường lỏng
rút xuống ngăn bên dưới.
Hệ thống RITA® (Hình 1) là công trình của Teisson và Alvard vào năm
1995. Một bình chứa 1 L gồm có hai phần, phần trên chứa mẫu cấy và phần dưới
chứa môi trường. Một áp suất vượt mức tác động vào môi trường lỏng chứa trong
phần dưới và đẩy chúng dâng lên ngăn chứa mẫu cấy. Mẫu cấy được ngập chìm
trong môi trường lỏng lâu hay mau tùy theo thời gian áp suất vượt mức được duy
trì. Trong suốt thời gian ngập, không khí được sục vào trong môi trường lỏng, môi
trường được chuyển động làm cho mẫu cấy xoay trở được các mặt tiếp xúc với bề
mặt môi trường, áp suất vượt mức sau đó được thoát ra bên ngoài nhờ một ngõ ra
phía trên đầu hệ thống.
2. Hệ thống bình sinh đôi BIT®
Hình 1.3. Hệ thống bình sinh đôi BIT®
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 5 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Hệ thống bình sinh đôi BIT® được thiết kế bởi Escalona và cộng sự (1998)
được dự định nhân giống số lượng lớn qua con đường phát sinh phôi soma. Ðối với
nhân giống theo con đường phát sinh cơ quan kích thước mẫu cấy đòi hỏi một hệ
thống có thể tích lớn hơn và rẻ hơn. Con đường dễ dàng nhất để đạt được trạng thái
ngập chìm tạm thời theo chu kỳ nhất định là nối hai bình thủy tinh hay plastic có
kích thước từ 250 mL - 10 L bằng một hệ thống ống dẫn, và điều khiển tạo ra áp
suất vượt mức để đưa môi trường vào bình chứa mẫu và ngược lại. Hệ thống BIT®
được thiết kế đáp ứng với những yêu cầu trên.
Trong nghiên cứu này, hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời sử dụng trong
nhân giống thực vật sản xuất tại Đài Loan, Plantima được sử dụng và so sánh với
phương pháp nuôi cấy thông thường được sử dụng bởi các phòng nuôi cấy mô ở
Việt Nam như nuôi cấy trên thạch, nuôi cấy lỏng, lỏng có lắc trong việc nhân nhanh
Protocorm-like bodies – PLBs, tái sinh chồi từ PLBs và nuôi cấy cây Hồ Điệp con
hoàn chỉnh. Đối tượng thí nghiệm là một loài Lan Hồ Điệp lai có tên gọi là
Doritaenopsis Taida Salu.
3. Hệ thống Plantima®
Hệ thống này được thiết kế tổng thể tương tự như hệ thống RITA® tuy
nhiên có thay đổi và cải tiến một số chi tiết như hệ thống bơm và vị trí các màng
lọc. Hệ thống này được sản xuất và cung cấp bởi Công ty A-tech Bioscientific tại
đảo Ðài Loan.
Hình 1.4. Các thành phần của Hình 1.5. Hệ thống Plantima với
hệ thống Plantima hệ thống điều khiển chu kỳ ngập
Trong nghiên cứu này, hệ thống nuôi cấy ngập chìm tạm thời sử dụng trong
nhân giống thực vật sản xuất tại Đài Loan, Plantima được sử dụng và so sánh với
phương pháp nuôi cấy thông thường được sử dụng bởi các phòng nuôi cấy mô ở
Việt Nam như nuôi cấy trên thạch, nuôi cấy lỏng, lỏng có lắc trong việc nhân nhanh
Protocorm-like bodies – PLBs, tái sinh chồi từ PLBs và nuôi cấy cây Hồ Điệp con
hoàn chỉnh. Đối tượng thí nghiệm là một loài Lan Hồ Điệp lai có tên gọi là
Doritaenopsis Taida Salu.
Trong thí nghiệm này, hệ thống TIS được sử dụng để nuôi cấy các chồi Hồ Điệp in
vitro nhằm so sánh hiệu quả của chúng khi so với hệ thống đối chứng là nuôi cấy
trên thạch thông thường trong bình tam giác 500 ml, loại bình này thường được các
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 6 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
nhà nhân giống in vitro Hồ Điệp Đài Loan sử dụng trong giai đoạn ra rễ được sử
dụng như là một đối chứng thực tế.
e. Trồng lan bằng phương pháp thuỷ canh
Trường Cao đẳng Temasek đã sáng chế ra một hệ thống trồng lan theo
phương pháp thủy canh có điều chỉnh chính xác dòng dung dịch đi vào [Precise
Influx Hydroponic Growth System (PIHGS) ]. Hệ thống này sử dụng máy tự động
để phân phát một lượng chính xác dung dịch dinh dưỡng vào vùng rễ của lan mà
không làm cho giá thể quá ẩm ướt.
Cách này đã khắc phục được một cách có hiệu quả vấn đề thối rễ mà các nhà
nuôi trồng lan bằng phương pháp thủy canh đang phải đối mặt. Công trình hợp tác
nghiên cứu 3 năm giữa trường Cao đẳng Temasek và cơ quan Agri-Food Veterinary
Authority của Singapore (AVA) đã chứng minh hệ thống PIHGS khi kết hợp với
một công thức dinh dưỡng thủy canh do trường Cao đẳng Temasek nghiên cứu đã
tạo ra một công nghệ mang lại lợi nhuận cao cho việc sản xuất hoa lan cắt cành
bằng phương pháp thủy canh. Hệ thống mới này có các công dụng sau:
Cho phép trồng nhiều cây lan trên một đơn vị diện tích.
Loại trừ công việc phun phân bằng tay tẻ nhạt và vấn đề tảo phát sinh.
Bỏ bớt việc phải thay chậu định kỳ cho những cây đã lớn, và giảm lượng
phân bón sử dụng.
Làm tăng đáng kể chất lượng và số lượng của hoa cắt cành khi so sánh với
các phương pháp trồng truyền thống.
Nghiên cứu này xác nhận một lần nữa tính chất đa dụng của công nghệ thủy
canh trong việc sản xuất thương mại hoa cắt cành ngay cả đối với những cây dễ bị
thối rễ như lan. Công nghệ nuôi trồng lan theo phương pháp thủy canh mới này đã
được cấp giấy phép cho một người trồng lan và và một công ty công nghệ sinh học
để trồng thí nghiệm quy mô nhỏ.
1.2. Lan Hồ Điệp
Lan Hồ Điệp là một trong những giống lan rất được yêu thích không chỉ về
màu sắc, kiểu dáng mà còn mang một nét đẹp rất sang trọng và trang nhã. Chính vì
vậy, nó đã nhanh chóng trở thành sản phẩm trồng trọt mang lại hiệu quả kinh tế
không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới như Đài Loan, Nhật Bản,
Hà Lan, Mỹ...
Hồ Điệp là một loài hoa rất khó nhân giống, thường cho hệ số nhân thấp
trong điều kiện vườn ươm. Để có được số lượng lớn cây giống đồng thời đáp ứng
nhu cầu thị trường thì cần phải kết hợp công nghệ nuôi cấy invitro và kỹ thuật lai
tạo để cho tỷ lệ sống sót cao, hơn nữa cũng cho thêm sự đa dạng về hình dáng và
màu sắc.
1.2.1. Tên khoa học và phân loại
Lan Hồ điệp là giống lan có tên gọi Phalaenopsis Blullle, 1825 , thuộc họ
phụ Vandoideae Tông Vandeae. Lan Hồ điệp có tên khoa học là Phalaenopsis
amabilis là loài lan có hoa lớn, đẹp, bền.
Giống Phalaenopsis gồm 21 loài lan phát sinh, ưa nóng có ở bán đảo Mã
Lai, Indônêxia, Philipin, các tỉnh phía Đông Ấn độ và Châu Úc.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 7 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Lan Hồ điệp được khám phá vào năm 1750, đầu tiên được ông Rumphius
xác định dưới tên là Angraecum album. Đến năm 1753, Linné đổi lại là
Epidendrum amabile và 1825, Blume, một nhà thực vật Hà Lan định danh một lần
nữa là Phalaenopsis amabilis Bl., và tên đó được dùng cho đến ngày nay.
Tên gọi Phalaenopsis bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp trong đó Phalaina có nghĩa
là “con bướm” và Opsis có nghĩa là “giống như”.
Phalaeopsis có nguồn gốc ở Đông Nam Á và Châu Úc, mọc ở độ cao 200-
400 m, khí hậu ẩm, nhiệt độ từ 20-350C.
Trên thế giới, lan Hồ điệp có trên 70 loài và càng ngày càng lai tạo ra rất
nhiều.
Ở Việt Nam có khoảng 5-6 loài Lan Hồ điệp thuần, bao gồm Phalaenopsis
gibbosa Sweet, Phalaenopsis lobbii (Rchob.f), Phalaenopsis fuscata Rchob.f.. Hầu
hết đều có hoa nhỏ nhưng màu sắc sặc sỡ và hương thơm độc đáo.
Hoa Lan Hồ Điệp gồm các phần
sau:
- Cánh đài hoa bên ngoài có kích
thước như nhau và màu sắc giống nhau.
- Ba cánh bên trong là ba cánh hoa
nằm xen kẽ với ba cánh đài bên ngoài. Có
điều hai cánh bên có kích thước lẫn hình
dạng giống nhau và có cùng màu sắc,
cánh hoa thứ ba còn lại có hình dạng và
màu sắc nổi bật hơn, quyến rũ hơn hai
cánh bên nên được đặt tên riêng là “cánh
môi”.
- Ở giữa hoa là phần trụ hoa, đây
là cơ quan sinh dục của hoa lan, gồm có
nhị đực và nhị cái (noãn). Sự thụ phấn
của hoa lan cũng giống như sự thụ phấn
của hoa nhiều giống cây trái khác, cũng
nhờ vào các loại côn trùng như ong, bướm...
Từ ngày noãn được thụ phấn cho đến ngày trái chín, tùy theo từng loài,
nhanh nhất là vài tháng, và chậm nhất là cả năm.
Trong thiên nhiên các hạt lan sẽ nảy mầm vào mùa mưa, khi môi trường
xung quanh ẩm ướt, hạt lan nảy mầm nhờ một loại nấm ký sinh nhiễm vào trong
các hạt đó, đó là nấm Rhizoctonia. Các loài nấm này có thể là:
Rhizoctonia mucoroides: giúp nảy mầm hạt lan Vanda, Phalaenopsis.
Rhizoctonia repens: giúp nảy mầm hạt lan Cattleya, Laelia,
Paphiopedilum...
Rhizoctonia lanugiosa: giúp nảy mầm hạt lan Oncidium, Miltonia,
Odontoglosuum...
Ngày nay tất cả các công việc trên đều do con người đảm nhận để có thể thụ
phấn được theo ý muốn. Công việc này được thực hiện một cách đơn giản và nhanh
chóng, chỉ cần dùng 1 que gỗ vót nhọn, cậy bỏ nắp cột nhụy, thì khối phấn sẽ bám
dính lấy đầu chiếc que; sau đấy chúng ta sẽ đưa toàn bộ khối phấn dính vào que đó
đặt trên đầu nhụy ở ngay phía dưới phần của hốc phấn.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 8 -
Lớp: 09SHLT
Hình 1.6. Cấu tạo hoa lan Hồ Điệp
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
1.2.2. Một vài đặc điểm của Lan Hồ Điệp
Lan Hồ Điệp gồm các loài có hoa lớn đẹp, cuống ngắn gom lại thành những
chùm lỏng lẻo : đơn hay phân nhánh. Lá dài và cánh hoa phẳng, trải rộng, thường
thì lá đài giống và gần bằng cánh hoa. Môi liên tục, có góc trục kéo dài, vì mang
một điểm nhú nhỏ ở gốc, phiến bên trải rộng hay hướng lên một ít, phiến giữa trải
ra nguyên vẹn hay có 2 phiến dài, hẹp và có dĩa, những bộ phận phụ có dạng thay
đổi : trụ bán nguyệt dày ở bên trên, thẳng hay hơi cong.
Lan Hồ điệp có màu sắc phong phú, không thua kém bất cứ giống lan nào
khác từ trắng, hồng, đỏ, vàng, tím đến các loại hồ điệp có sọc nằm ngang hoặc
thẳng đứng, hoặc có đốm to hay nhỏ v.v…
Những loài lan này luôn bám chặt vào những cái cây ở trong rừng sâu hoặc
bám vào đá. Chúng có những cái lá to, rộng mọng nước và cuống hoa uốn cong
mang nhiều hoa. Thường một cây có 5 đến 10 lá và nhiều rễ màu trắng. Một số loài
cuống hoa mang những hoa tròn to. Những loài có cuống hoa ngắn và hoa có màu
sặc sỡ gồm màu trắng, hồng, vàng, hoặc cánh hoa có sự pha trộn các sọc, viền hay
đốm. Ngoài những loài này, một số lớn giống lai có khả năng thích nghi trong điều
kiện nhân tạo hơn so với môi trường tự nhiên. Một yếu tố quan trọng của lan hồ
điệp là trong điều kiện nhân tạo thời gian hoa tàn là 3 tháng. Một số loài khác và
giống lai thì thời gian hoa tàn có thể kéo dài hơn. Một số giống có thể ra hoa quanh
năm. Mùa lan bắt đầu nở hoa từ tháng 12 đến cuối tháng 5.
Lan hồ điệp có nhiều hình dáng và kích cỡ. Bạn có thể đặt nó vào chậu riêng
hoặc bỏ chung vào một chậu. Những cái chậu thông thường chứa được nhiều cây và
cây có thể ra hoa trong vòng hai năm, nếu chúng được chăm sóc hợp lý. Các cây
con có sẵn trong phòng thí nghiệm sẽ được đưa ra ngoài và kích thước của cây phụ
thuộc vào độ lớn cuả lá, mà độ rộng của lá được đo từ đỉnh lá đến điểmđối diện.
Thông thường, một cây có chiều dài lá khoảng 20cm hoặc lớn hơn được xác định
khi cây có hoa đầu tiên nở, tuy nhiên một số loài chiều dài lá chỉ đạt 10cm khi hoa
vừa mới nở.
Yêu cầu về ánh sáng và nhiệt độ
Lan hồ điệp cần ánh sáng để phát triển tốt. Trong nhà, lan hồ điệp ưa thích
một vị trí gần cửa sổ có ánh sáng nhưng ánh sáng mặt trời trực tiếp thì không nên,
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 9 -
Lớp: 09SHLT
Hình 1.7. Lan Hồ điệp
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
đặc biệt hướng mặt trời chiếu vào lúc sáng sớm hoặc chiều muộn là lý tưởng. Bạn
có thể cho đèn chiếu sáng nhân tạo. Các đèn chiếu sáng nên đặt ở phía trên của cây
và nên chiếu ít nhất 12 đến 16 giờ hàng ngày. Trường hợp ở trong nhà kính, bạn
nên che bằng tấm vải nhất là trong mùa hè.
Loài lan này cần nhiệt độ ban ngày là 18-29
0
C và nhiệt độ ban đêm là 13-
18
0
C. Trong suốt mùa thu, nhiệt độ nên duy trì dưới 16
0
C liên tục trong 3 tuần khi
cụm hoa bắt đầu xuất hiện. Thông thường sự thay đổi bất thường về nhiệt độ và độ
ẩm có thể là nguyên nhân làm rụng nụ.
Ẩm độ và nước tưới
Lan hồ điệp cần 50-80% độ ẩm. Nếu độ ẩm thấp hơn bạn có thể dùng màn
che, nhưng thỉnh thoảng việc làm này có thể gây ra nấm bệnh. Một biện pháp đề
phòng khác là giữ cây ở trong một cái bát có chứa sỏi hay đá cuội và nước. Bạn
phải đảm bảo cây phải ở trên sỏi, đá cuội và không chạm vào nước. Việc tưới nước
cho những cây này là quan trọng và nên thực hiện một cách cẩn thận. Vào mùa hè,
bạn có thể tưới nước cho cây khoảng 2-3 ngày một lần, ngược lại vào mùa đông,
khoảng 10 ngày tưới một lần Thời gian tốt nhất để tưới nước là buổi trưa, vì lá sẽ
khô cho tới tối. Nước dính lại có thể dẫn đến sự thối lá. Vì thế, cách tốt nhất là tưới
nước cho cây phù hợp với từng mùa, đồng thời cũng xem xét nhu cầu nước và giá
thể sử dụng (giá thể thường được sử dụng là vỏ cây, đá trân châu, vỏ cây dương xỉ,
than củi).
Phân bón và thuốc trừ sâu
Phân bón nên được sử dụng thường xuyên hơn vào mùa hè, khi cây đang
trong giai đoạn tăng trưởng. Trong mùa đông, cây sẽ sử dụng ít hơn. Luôn tưới
nước cho cây đầy đủ trước khi bón phân. Loại phân bón với công thức ổn định như
là NPK 14-14-14 là tốt nhất cho cây. Cây đang ra hoa sử dụng công thức có hàm
lượng photpho cao hơn. (10-30-20). Suốt những tháng mùa đông bạn có thể giảm
lượng phân bón xuống và bón cho cây một lần trong một tháng.
Rất có lợi khi lặp lại việc bón phân cho cây trong suốt thời gian cây nở hoa.
Lan hồ điệp đôi lúc cũng thu hút sâu hại giống như sâu đục nụ, nhện, rệp, ốc sên.
Khi những con sâu hại bám vào lá sẽ được loại bỏ bằng nước xà phòng sau đó rửa
sạch lại bằng một miếng vải mềm. Thậm chí bạn có thể sử dụng thuốc trừ sâu
thương mại.
Kích thích ra hoa
Hoa lan hồ điệp tàn sau khi nở 3 tháng. Sau khi hoa tàn, bạn có thể điều
khiển cho cây ra hoa lại bằng cách cắt bỏ toàn bộ cuống hoa. Thỉnh thoảng việc làm
này cũng có thể cho một cụm hoa mới, mà nó có thể xuất hiện trong vòng 9 tháng.
Phương pháp này rất tốt nếu cuống hoa già và có màu nâu. Nhưng, nếu cuống hoa
còn màu xanh, bạn có thể cắt một đốt trên cuống hoa. Đoạn cành cắt bỏ dài khoảng
10-12cm. Điều này có thể giúp hình thành một cành mới trong vòng 2-3 tuần.
Thay chậu
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 10 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Lan hồ điệp có thời gian sống rất dài. Điều đó có nghĩa là các bạn sẽ phải
biết khi nào và làm như thế nào để thay chậu cho cây. Có hai lý do mà cây cần được
thay chậu, hoặc là cây không sinh trưởng được trong chậu đang trồng hoặc giá thể
bị phân hủy và không đủ không khí để duy trì cho rễ phát triển tốt
Việc thay chậu có thể thực hiện một lần trong một năm hoặc hai năm. Mùa
thích hợp nhất để thay chậu là mùa xuân.
Rễ cây phát triển lan ra sẽ phủ lên chậu và giá thể ở trong chậu làm bịt kín
các khe hở giữa các rễ, không có khoảng trống giữa giá thể và rễ cây. Điểm bắt đầu
của thân cây nên được giữ một đoạn ngắn ở dưới giá thể. Sau khi thay chậu nên giữ
cây trong bóng mát và tưới nước sau 3 ngày.
Trồng lan không khó hay cầu kỳ. Bạn có thể tự hào sở hữu những cây lan
nhập nội với những bông hoa đầy màu sắc. Hãy tự tin, chọn lan hồ điệp để làm cho
cuộc sống của bạn tràn đầy màu sắc và hương thơm.
1.2.3. Nhu cầu và giá trị kinh tế của Lan Hồ Điệp
Lan Hồ Điệp là loại hoa vương giả, với vẻ đẹp vương giả, quý phái nên khắp
nơi trên thế giới ngày càng có nhiều người thích chơi hoa Lan. Chính vì vậy, hoa
Lan là sản phẩm trồng trọt luôn có giá trị kinh tế cao. Bắt kịp thị hiếu này, ngày nay
đã xuất hiện nhiều cơ sở kinh doanh hoa Lan với nhiều chủng loại, giá cả khác
nhau. Thị trường hoa lan hiện nay rộng, nhu cầu của người tiêu dùng rất cao nhưng
có một thực tế là ta vẫn phải nhập hoa thành phẩm từ Thái Lan, Đài Loan… Giống
hoa đa số cũng nhập từ nước ngoài hoặc một hình thức tạo giống phổ biến là cấy
mô từ giống của người ta vì trong nước cung cấp không đủ giống cung ứng.
Theo khảo sát của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM, diện
tích trồng lan ở TP.HCM hiện khoảng trên 50ha, tăng gấp 2 lần so với cách đây 2
năm. Đô thị hóa nông thôn, diện tích đất sản xuất ngày mỗi thu hẹp khiến ngành
trồng hoa lan càng lộ rõ ưu thế của nó: chỉ cần diện tích nhỏ nhưng thu được lợi
nhuận cao. Trên một ha đất trồng hoa lan cắt cành, có thể thu về trên một tỉ đồng
mỗi năm.
Cuối năm 2005, Trung tâm Giống và Kỹ thuật cây trồng Phú Yên đã cung
cấp 20.000 cây lan con được sản xuất từ công nghệ nuôi cấy mô cho một đối tác ở
TP Hồ Chí Minh xuất khẩu đi Đài Loan và Canada. Năm 2006 có thể cung cấp
300.000 - 500.000 cây lan cấy mô theo yêu cầu của khách hàng.
Khác với nhiều loại cây trồng khác, đối với nghề trồng lan cắt cành, giống
mới luôn là yêu cầu đặt ra hàng đầu, bởi thị trường khá nhạy cảm với mặt hàng này.
Mỗi tháng, riêng về giống cây lan, TP.HCM nhập khoảng 40.000 cây lan giống, giá
trung bình 45-50.000/ cây. Tính sơ sơ, tiền mua giống cho lan cắt cành, mỗi tháng,
TP.HCM phải chi gần 2 tỉ đồng.
TP.HCM là một thị trường tiêu thụ hoa lan các loại cực kỳ lớn, mỗi năm tiêu
thụ hàng triệu cây hoa các loại, riêng hoa lan thì cũng khoảng 1 triệu cây. Có thể
nói hiện nay sản xuất hoa lan nuôi cấy mô để kinh doanh thì không phải lo lắng
nhiều về thị trường. Họ sẽ đề xuất mở rộng phòng mô nếu nhu cầu số lượng của
phía đối tác tăng cao. Không những phải nhập về giống lan, ngay cả lượng hoa lan
cắt cành sản xuất tại chỗ cũng chỉ đáp ứng 15% nhu cầu thị trường, 35% nguồn từ
Đà Lạt chở về và 50% còn lại phải nhập từ các nước Thái Lan, Đài Loan.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 11 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Chị Hồng, chủ cửa hàng hoa tại chợ Bến Thành cho biết, khách hàng khá
chuộng lan cắt cành của Thái và Đài Loan bởi tính đa dạng của nó. Trung bình mỗi
tuần, thị trường TP.HCM nhập hơn 20.000 cành lan Thái và 15.000 cành từ Đài
Loan. Giá nhập tùy loại, giao động từ 4.000-6.000 đồng. Như vậy, chỉ tính riêng
nguồn lan cắt cành từ hai nước này, mỗi năm, thành phố phải nhập gần 9 tỉ đồng.
Trong giới trồng hoa lan cắt cành, trước hết phải nói đến anh Trần Văn Bạch
( Q.Tân Bình, Tp HCM), được mệnh danh là tỉ phú trồng lan cắt cành. Năm 1996,
anh Bạch đầu tư 2.000 cây lan giống. Vụ đầu, mỗi tuần cắt hai lần, thu lợi khoảng 5
triệu đồng/ tháng. Đến nay, với trên 1ha lan cắt cành có trên 50.000 cây, lợi nhuận
anh thu về mỗi năm gần tỉ đồng.
Tại vườn lan của anh Thanh, mỗi cây lan có giá trung bình từ 100.000 đến
200.000 đồng, có cây thuộc loại “hàng độc” giá lên tới 4 – 5 triệu đồng.
Từ khi trồng tới lúc thu là khoảng 40 ngày; dùng kéo sắc cắt cành, đóng gói,
giao cho các chợ đầu mối. Giá bán từ 4.000 - 14.000 đ/cành; cây giống 25.000 -
45.000 đ/cây (tách từ cây mẹ). Qua việc trồng lan - cắt cành, mỗi năm gia đình chị
Gấm thu nhập trên dưới 500 triệu đồng, từ việc bán hoa và lan giống.
1.3. Các mô hình vườn ươm Lan Hồ Điệp
1.3.1. Nhà kính
Nhà kính là một khu vực sản xuất bậc cao của vườn ươm với kết cấu sau:
+ Khung giàn làm bằng sắt để chống gió
+ Lắp các khung bằng những tấm kính trong suốt hoặc nhựa polyethylene
+ Có 1-2 cửa ra vào và có cửa sổ bằng kích thước cửa sổ của nhà bếp.
+ Nhựa bọc nhà kính là polyethylene từ 3-5 lớp, có phủ lưới màu đen hoặc
xanh đen.
Hình 1.8. Nhà kính
+ Hệ thống tưới phun, xịt những giọt nước đồng dạng và được lắp đặt ở cuối
điểm nhà kính, có máng xối thoát nước, cửa trời đường kính 1,3m- chính giữa mỗi
nhịp tại điểm cao nhất của kết cấu nhà kính.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 12 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
+ Vị trí nhà kính nên chọn nơi quang đãng, có ánh sang, có hệ thống thoát
nước, những nhà kính sử dụng lâu dài phải có nguồn nước ngàm thấp và đảm bảo
độ sạch sẽ làm bằng gạch sẽ bền hơn. Các thiết bị như thiết bị phun tưới, thiết bị
tăng nhiệt, thiết bị giữ ẩm, thiết bị che bong, các giá hoa và giàn treo.
Tuỳ từng vùng, từng địa phương hoặc tuỳ chức năng mà nhà kính có thể
được phân loại như sau:
+ Nhà kính mái chữ A
+ Nhà kính mái dạng vòm
+ Nhà kính một mái nghiêng
+ Nhà kính sinh sản ( với chức năng cung cấp hạt, giâm cành chăm sóc cây
con. hệ thống thoát nước được treo trên trần)
+ Nhà kính vi tính hoá (phần mềm và phần cứng máy tính cho phép kiểm
soát tự động nước phân phối và khí hậu trong nhà kính).
Nhà kính có những ưu điểm nổi bật như:
+ Điều tiết nhiệt độ, ánh sang,độ ẩm, tạo ra một khu vực có khí hậu nhân tạo
phù hợp với loại cây đang trồng trong nhà kính hiện tại. Hạn chế rửa trôi đất
+ Phòng chống sâu bệnh, ngăn chặn vi sinh vật có hại xâm nhập để cây trồng
phát triễn và tăng năng suất chất lượng.
+ Quay vòng sử dụng nhanh, cho phép tối ưu sử dụng phân bón và phân phối
số lượng trong suốt mùa vụ gieo trồng.
+ Kiểm tra thông số sản xuất bao gồm khí hậu, phân bón, kiểm tra sinh học
bệnh cây và côn trùng.
Bên cạnh những ưu điểm nổi trội nhà kính có một vài nhược điểm:
+ Các thiết bị tự động hầu hết nhập từ nước ngoài về, trong nước không tự
sản xuất được. Đòi hỏi vốn đầu tư và xây dựng cao. Chi phí bảo hành các thiết bị
tương đối lớn.
+ Yêu cầu người vận hành các thiết bị phải có chuyên môn cao, biết sử dụng
các thiết bị một cách thành thạo các máy móc lắp đặt trong nhà kính.
1.3.2. Nhà lưới
Trước đây nhà lưới được xây dựng khá đơn giản với những khung bằng gỗ
chống, bao quanh lưới thép và trên phủ lưới nhựa nhưng hiện nay những người
nông dân đã sử dụng cột bê tông, xà sắt và đầu tư một cách chắc chắn. Chiều cao
của nhà lưới tối thiểu là 2m. Lưới để lợp mái có ô 2 x 2 mm, lưới treo xung quanh
có ô 1 x 1 mm. Nhà lưới có thể lắp đặt các hệ thống phun tưới, làm mát nhưng còn
thủ công hơn so với nhà kính.
Hiện nay có các kiểu nhà lưới phổ biến trong sản xuất như:
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 13 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Hình1.9. Nhà lưới kín (trái) và nhà lưới hở (phải)
Loại nhà lưới kín
+ Phủ hoàn toàn bằng lưới cả trên mái cũng như xung quanh, cả cửa ra vào
cũng được phủ bằng lưới kín.
+ Mái bằng và mái nghiêng 2 bên.
+ Khung nhà làm bằng cột bê tông hoặc khung sắt hàn hoặc bắt ốc vít.
+ Chiều cao h=2-3 m, diện tích S=500-1000m
2
+ Lưới che bằng vải mùng màu trắng hoặc xanh lá cây.
Loại nhà lưới hở
+ Được che chủ yếu trên mái và 1 phần bao xung quanh
+ Kiểu mái bằng và mái nghiêng 2 bên.
+ Khung nhà: cột bê tông hoặc khung sắt hàn hoặc bắt vít.
+ Chiều cao của nhà lưới loại này là h=2-2,5m với diện tích S=500-1000m
2
+ Mái lợp bằng lưới hoặc nylon màng nẹp bằng dây điện , mái trên mái dưới
cách nhau một khe hở 25-30 cm ( có tác dụng đối lưu)
Mặc dù nhà lưới có vốn đầu tư ít, dễ làm trong quy mô từng hộ gia đình
nhưng nó cũng có những nhược điểm cơ bản về vật liệu như độ bền không cao, thời
gian sử dụng ngắn, thời gian sử dụng tốt nhất là khoảng 6-8 tháng sau đó lưới bị
rách và hư hỏng. Những vấn đề mà nhà lưới cũng chưa thể giải quyết được như:
+ Quy trình kỹ thuật canh tác cây trồng trong nhà lưới chưa được nghiên cứu
một cách khoa học mà chủ yếu áp dụng từ quy trình canh tác ngoài đồng ruộng.
Vấn đề sâu bệnh phát sinh trong nhà lưới do canh tác liên tục.
+ Chưa giải quyết được bài toán ảnh hưởng của gió, nhiệt độ cao trong nhà
lưới. Chưa đảm bảo độ kín gió do đó dễ dàng bị các loại sâu hại có kích thước nhỏ
xâm nhập.
+ Quy mô, diện tích nhà lưới chưa được xác định bao nhiêu là tối ưu phù
hợp số lượng xác định, khả năng cơ giới hoá, hiệu quả kinh tế.
1.3.3. Mô hình vườn ươm kết hợp
Cũng như trên thế giới, ở Việt Nam hiện nay có những mô hình kết hợp giữa
nhà lưới và nhà kính tạo ra một quy mô vườn ươm khá hoàn chỉnh, vừa tiết kiệm
chi phí mà vẫn thu được năng suất và chất lượng cao. Để áp dụng cho mô hình sản
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 14 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
xuất thu hiệu quả kinh tế cao thì vườn ươm chia làm các khu nhà nhỏ như khu huấn
luyện cây mô, khu chăm sóc cây con, khu chăm sóc cây trưởng thành, khu chuẩn bị
đất, phân bón, giá thể và để các nguyên vật liệu khác…Các khu nhà nhỏ này có
chức năng riêng biệt ứng với tên gọi. Chúng được phân cách bằng các luống đất
hoặc các tấm lưới che bằng tre hoặc lưới sắt có mắt nhỏ. Các lối đi thông nhau
trong các nhà nhỏ này khoảng 1-1,5m. Bên cạnh đó, các giàn tưới phun, các hệ
thống giữ ẩm, hệ thống làm mát, hệ thống điều chỉnh ánh sáng có những điểm khác
nhau nhằm phục vụ mục đích riêng của từng khu nhà.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 15 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
PHẦN II
QUY TRÌNH SẢN XUẤT LAN
2.1. Quy trìnhcông nghệ sản xuất lan Hồ Điệp
Hình 2.1. Sơ đồ quy trìnhcông nghệ sản xuất lan Hồ Điệp
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 16 -
Lớp: 09SHLT
Lấy mẫu
(phát hoa)
Xử lý mẫu
Cấy vào môi trường nuôi
cấy tạo cụm chồi
Cấy chuyền
Tái sinh cây hoàn chỉnh
Pha chế môi trường MS
có bổ sung các chất điều
hòa sinh trưởng
Pha chế môi trường
Knudson C
5 tháng
Xuất bán cây lấy hoa
(300.000 cây/năm)
Tạo cây hoàn chỉnh
Tạo cây lấy hoa
5 - 6 tháng
Vào chậu
3 tháng
Huấn luyện
Tạo cây con
3 tháng tuổi
Xuất bán cây lan trong
bình ( 800.000 cây/năm)
Xuất bán cây lan nhỏ 3
tháng (500.000 cây/năm)
3 tháng
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
2.2. Thuyết minh quy trình sản xuất lan
2.2.1. Lấy mẫu
Hồ điệp là một loại lan rất khó nhân giống, thường cho hệ số nhân giống rất
thấp, để đáp ứng nhu cầu vào mẫu với số lượng lớn. Hơn nữa, chúng ta không thể
dùng đỉnh sinh trưởng cho quá trình này được do phương pháp này thực hiện khó
một cách thành công, đỉnh sinh trưởng quá bé nhỏ nên không thể tái sinh hoặc chết
đi qua bước khử trùng. Chính vì thế ta dùng phát hoa làm vật liệu nuôi cấy, phát
hoa Hồ điệp có chứa các mắt ngủ ở phần gốc, có bề mặt nhẵn bóng dễ khử trùng tỷ
lệ thành công cao mà vẫn tạo được dòng cây về mặt di truyền.
Chọn phát hoa: Phát hoa lan Hồ điệp được thu khi hoa đã nở hết trên cành.
Chọn những phát to khoẻ, cắt những đốt chứa mắt ngủ dài 4cm, tách bỏ vỏ bao
quanh mắt ngủ. Tình trạng mắt ngủ phải còn trắng xanh hay hơi đỏ của màu phát
hoa, loại bỏ những mắt ngủ bị hoá đen và bị trầy sướt.
2.2.2. Xử lý mẫu
Lau nhẹ mắt ngủ bằng cồn 70
0
.
Tiến hành lắc với xà phòng loãng trong 3 phút và rửa lại bằng nước sạch để
loại bỏ hết xà phòng
Trong tủ cấy, mẫu được ngâm trong cồn 70
0
trong 1 phút, sau đó được khử
trùng với dung dịch javel có nồng độ 1:5 trong 25 phút
Tiến hành rửa lại mẫu bằng nước cất vô trùng (3-5 lần)
Loại bỏ các phần bị hỏng, cấy mẫu lên môi trường MS có bổ sung BA
3mg/l.
Điều kiện nuôi cấy: mẫu nuôi cấy được đặt trong điều kiện 25
0
C, chiếu sáng
12h và độ ẩm là 80%.
Sau 10 tuần nuôi cấy, các chồi sinh dưỡng hình thành từ mắt ngủ phát hoa và
mang các lá non đủ rộng để làm nguyên liệu khởi tạo protocorm từ mô lá.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 17 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
2.2.3. Tạo cụm chồi
Các mẫu lá thu được từ các chồi sinh dưỡng được cắt theo kích thước 5x5
mm. Các mẫu lá được đặt nuôi trên môi trường MS có bổ sung các chất điều hoà
sinh trưởng thực vật NAA 1mg/l, BA 10 mg/l, Adenin 10mg/l.
Để thuận tiện cho việc pha các môi trường nuôi cấy người ta thường chuẩn bị
trước dưới dạng đậm đặc (dung dịch mẹ), sau đó chỉ cần pha loãng khi sử dụng. Các
dung dịch đậm đặc được bảo quản dài ngày trong tủ lạnh thường hoặc tủ lạnh sâu.
Các dung dịch mẹ sau khi pha chế, sử dụng tối đa trong 3 tháng, và tốt nhất là sử
dụng trong tháng.
Chuẩn bị môi trường Murashige - Skoog (MS, 1962)
Chia môi trường MS ra làm 5 phần, pha riêng từng phần.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 18 -
Lớp: 09SHLT
Hình 2.2. Tái sinh chồi từ phát hoa
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Bảng 2.1. Thành phần 1 lít môi trường MS
Dung dịch mẹ
Nồng độ
(mg/L)
Dung tích
dùng cho 1 L
môi trường
MS
1
KNO
3
1900
20 ml
KH
2
PO
4
170
NH
4
NO
3
1650
MgSO
4
.7H
2
0 370
MS
2
CaCl
2
.2H
2
O 440
10 ml
MS
3
H
3
BO
3
6,2
10 ml
MnSO
4
.4H
2
O 22,3
CoCl
2
.6H
2
O 0,025
CuSO
4
.5H
2
O 0,025
ZnSO
4
.4H
2
O 8,6
Na
2
MoO
4
.2H
2
O 0,25
KI 0,83
MS
4
FeSO
4
.7H
2
O 27,8
10 ml
Na
2
-EDTA 37,3
MS
5
myo-Inositol 100
10 ml
Thiamine.HCl 0,1
Pyridoxine.HCl 0,5
Nicotinic acid 0,5
Glycine 2
Lấy 20 ml dung dịch mẹ MS
1
, 10 ml MS
2
, 10 ml MS
3
, 10 ml MS
4
và 10ml MS
5
cho vào cốc thủy tinh thứ nhất.
Bổ sung các chất điều khiển sinh trưởng cần thiết ở các nồng độ khác nhau
vào dung dịch MS:
Nước dừa 15%
NAA 1 mg/l
BA 10 mg/l
Adenine 10 mg/l
Thêm 20 g saccharose vào và khuấy tan.
Lấy 8 g agar cho vào 1 cốc thủy tinh khác , bổ sung 300 ml nước cất và đun
sôi cho đến khi agar tan hết.
Đổ dung dịch MS ở cốc thứ nhất vào cốc thứ hai đựng agar rồi thêm nước
cất, định mức đến 1l rồi khuấy đều
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 19 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Đổ môi trường đã chuẩn bị vào các bình nuôi cấy, thể tích 40 ml/l bình. Cần
chia xong môi trường thật nhanh trước khi dung dịch nguội xuống dưới 50
o
C.
Dùng nút bông không thấm nước đậy kín lại rồi đem hấp khử trùng ở nhiệt
độ 121
o
C, áp suất 1 atm/15 - 30 phút.
Để nguội và ráo nước trên bề mặt môi trường thì mới dùng để nuôi cấy
(thông thường môi trường sau khi nấu 2 ngày là có thể cấy được).
Sau 10 tuần nuôi cấy, các protocorm được hình thành chủ yếu từ các mảnh lá
ở phần gốc và ít ở các mảnh lá phần đỉnh.
Sau một thời gian, các chồi xuất hiện xung quanh mép lá ( nơi có vết thương
) tiếp tục phát triển trong khi phần mô lá ban đầu bị hoại đi. Phiến lá ban đầu được
sử dụng như nguồn dinh dưỡng khởi đầu cho protocorm và cho chồi sau này nhưng
hệ thống mạch của chồi được hình thành thì hoàn toàn độc lập với hệ thống mạch
của mô mẹ.
2.2.4. Cấy chuyền
Trung bình cứ một cụm chồi ban đầu sau 2 tháng sẽ cho 6 cụm chồi mới.
Các cụm chồi này có thể chia ra và tiếp tục nhân lên. Thực hiện thao tác cấy chuyền
như sau:
- Dùng que cấy lấy hết cụm chồi trong bình nuôi ra đĩa petri sạch vô trùng,
dùng dao cấy phân cắt cụm chồi thành các cụm nhỏ, trung bình cứ 1 cụm chồi ta
chia được 6 phần nhỏ.
+ Lấy 1 phần nhỏ đem đi nuôi cấy trong bình có chứa môi trường MS bổ
sung để sau có thể nhân tiếp.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 20 -
Lớp: 09SHLT
Hình 2.3. Thể protocom
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
+ 5 phần còn lại ta nuôi trong bình nuôi cấy có chứa môi trường
Knudson C để tái sinh cây. Như vâỵ, hệ số nhân chôì ở đây là 5. Cứ 1 phần nhỏ sẽ
cấy trong một bình môi trường tái sinh cây.
Các bình sau khi nuôi cấy, đem nuôi trong giàn nuôi cấy với điều kiện nhiệt
độ 22-27
0
C, cường độ chiếu sáng là 2000 - 4000 lux.
2.2.5. Tái sinh thành cây hoàn chỉnh
Sau khi nhân nhanh ta tiến hành tái sinh thành cây hoàn chỉnh có đầy đủ các
bộ phận dinh dưỡng bằng cách cấy chuyền vào môi trường Knudson C để tái sinh
cây. Quá trình tái sinh cây phụ thuộc rất lớn vào thành phần môi trường, thông
thường chúng ta có thể dùng môi trường Knudson C bình thường nhưng để quá
trình này nhanh hơn thì thường bổ sung thêm BA (1mg/l) vào môi trường này.
Bảng 2.2. Thành phần 1 lít môi trường Knudson C
Thành phần
Hàm lượng trong 1 lít
môi trường
Ca(NO
3
)
2
.4H
2
O 1 g
KH
2
PO
4
0,25 g
FeSO
4
.7H
2
O 0,025 g
MgSO
4
.7H
2
O 0,25 g
(NH
4
)
2
SO
4
0,50 g
Đường saccharose 20 g
Agar 10 g
Nước cất vừa đủ 1 lít
Lan có khả năng tái sinh thành cây hoàn chỉnh trong điều kiện invitro khá lâu
ở nhiệt độ 22- 27
0
C, cường độ chiếu sáng 2000 - 4000 lux, quang kỳ là 14 giờ, thời
gian khoảng 4-6 tháng.
2.2.6. Tạo cây con hoàn chỉnh
Sau khoảng 6 tháng cây lan nuôi cấy mô sẽ đạt kích thước khoảng 8-10 cm
có đầy đủ các bộ phận dinh dưỡng thì có thể được xuất ra thị trường tiêu thụ ở
những nơi có yêu cầu. Vì cây nuôi cấy mô nằm trong bình nên rất dễ vận chuyển đi
xa.
2.2.7. Huấn luyện lan nuôi cấy mô hoàn chỉnh
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 21 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Trước khi đưa cây lan ra nhà kính nuôi lan chúng ta cần huấn luyện nhằm
mục đích để cây lan quen dần với nhiệt độ bên ngoài vườn ươm bằng cách: chuyển
các bình chứa lan ra nhiệt độ bình thường bên ngoài, tránh nắng trực tiếp chiếu rọi
vào các bình nuôi cây lan, thời gian để ở ngoài có thể từ 1 đến 2 tuần.
Chai hoặc hộp nuôi cấy mô lấy ra từ phòng thí nghiệm được đặt vào kệ vườn
ươm cho thích nghi dần điều kiện vườn ươm.
- Lấy lan con ra khỏi chai hoặc hộp mô bằng cách cho nước sạch vào chai hoặc
hộp lắc nhẹ để tách lớp thạch và cây ra. Sau đó dốc ngược vào thau nước sạch cho
thạch và cây tuột ra khỏi chai/hộp.
- Rửa sạch môi trường bám trên lan con bằng cách rửa nhiều lần nước sạch
trong thau nhựa. Tránh làm tổn hại đến lá, rễ… và loại bỏ các lá bị hư thối. Không nên
để cây con quá lâu trong môi trường nước vì lá, rễ có bị thương thì dễ bị úng, thối chết.
- Ngâm lan con vào thau nhựa chứa nước pha thuốc nấm nồng độ1‰ trong
vòng 2 phút, sau đó vớt ra cho vào rổ nhựa, sắp xếp các cây theo thứ tự lớn nhỏ để cho
ráo nước.
2.2.8. Chuẩn bị chậu và giá thể
Chuẩn bị chậu
Chậu trồng bằng nhựa hay đất nung, có lỗ xung quanh đều khắp, kích cỡ tuỳ
loại và độ tuổi. Chọn chậu không sâu, nhỏ, màu trắng hoặc trong suốt thì thuận lợi
cho bộ rễ phát triển.
Thường chọn chậu có nhiều lỗ thoáng để dễ thoát nước và lưu thông
khí...Tuỳ theo giai đoạn và tuổi cây mà thay dần các chậu lớn hơn cho phù hợp. Các
châụ lan cần chọn cùng kích cỡ, cùng giống, cùng độ tuổi, bố trí theo từng khu vực
để dễ chăm sóc.
Chuẩn bị giá thể
Sử dụng than gỗ, xơ dừa, mụn dừa, vỏ dừa, rêu nước, than gỗ, gạch non, đá
bọt bazan, dớn cọng, dớn mềm, rêu Chi Lê, một số loại đá khoáng tự nhiên...làm giá
thể để trồng lan.
- Than gỗ cần chặt khúc, kích thước 1 × 2 × 3 cm, than phải ngâm, rửa sạch,
phơi khô.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 22 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
- Cám dừa được sàng sạch, loại bỏ tạp chất, ngâm trong nước vôi 5% trong 3
ngày, vớt ra rồi ngâm rửa sạch nước vôi, phơi khô và bảo quản nơi khô ráo
- Xơ dừa xé cho tơi ngâm khoảng 1 tuần cho bớt tanin rồi đem phơi khô.
Mụn dừa cũng cần rửa sạch phơi khô. Vỏ dừa chặt khúc 1 × 2 × 3 cm xử lý bằng
nước vôi 5%.
Tỷ lệ phối trộn giá thể cho lan Hồ điệp
Lan từ 0 - 6 tháng tuổi: dùng giá thể là 100% cám dừa hay dớn trắng . Các
giá thể trước khi trồng phải được ngâm và xả nước nhiều lần và phải xử lý thuốc
nấm để phòng bệnh.
- Tiến hành trồng cây ra vỉ nhựa, bên dưới mỗi đáy ly ta lót một miếng xốp
để giúp hút nước và thoát nước. Cách trồng: quấn quanh lớp rễ bằng miếng xơ dưa
hoặc là dớn trắng . Sau đó cho vào vỉ hoặc chậu.
- Cho vỉ trồng ra nơi thuần dưỡng. Dùng bình xịt tưới nước 2-4 lần/ngày tuỳ
theo mùa nắng hay mùa mưa. Chú ý chỉ tưới nước ướt lá.
Hình2.4. Vỉ trồng lan
Lan từ 6 tháng tuổi trở lên: 60% than củi +20% vỏ dừa chặt khúc +20% rêu
nước (nếu là rêu Chi Lê thì càng tốt).
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 23 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Hình2.5. Vỏ dừa chặt khúc
2.2.9. Kỹ thuật chuyển chậu
Sau khi đưa từ bình thủy tinh ra trồng trong khay nhựa, khoảng 3-4 tháng có
thể chuyển chậu 1 lần. Đối với Lan Hồ điệp, thời gian từ khi trồng cây cấy mô đến
lúc ra hoa là khoảng hơn 1 năm.
Từ cây con, sau khoảng 3- 4 tháng trồng, chúng ta sẽ chuyển chậu và cây
con sẽ phát triển thành cây trung. Cứ thế sau khoảng 3- 4 tháng trồng, chúng ta tiếp
tục chuyển chậu, cây trung sẽ phát triển thành cây đại rồi thành cây vòi mang nụ
hoa và bắt đầu trổ bông. Bên cạnh đó, chế độ dinh dưỡng, nhu cầu nước tưới, ánh
sáng, độ ẩm… cần được cung cấp và điều chỉnh hợp lí theo từng giai đoạn.
+ Kỹ thuật chuyển chậu lần thứ nhất
Sau khi trồng được từ 4 - 6 tháng, lan được chuyển sang chậu có đường kính
8,3cm. Lấy cây ra khỏi bầu, tách bỏ giá thể cũ và thay bằng giá thể mới rồi trồng lại
vào chậu mới nhẹ nhàng tránh làm tổn thương đến rễ. Dưới đáy chậu nên lót 1 - 2
miếng xốp giúp chậu thoát nước tốt, tránh làm cây bị úng.
Để chăm sóc cho cây sau khi thay chậu lần 1 phải phun dung dịch diệt
khuẩn. Trong từ 3 - 5 ngày đầu không cần tưới nước nhưng vẫn phải giữ ẩm cho
cây cũng như môi trường xung quanh.
+ Kỹ thuật chuyển chậu lần thứ hai
Lúc này cây được từ 16 - 20 tháng, đường kính chậu chuyển sang phải đạt
12 cm. Cách thay chậu lần này tương tự như lần đầu nhưng chú ý dùng dao, kéo sắc
cắt bớt các rễ già trước khi trồng lại.
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 24 -
Lớp: 09SHLT
ĐACN 2:“ Thiết kế trung tâm nhân giống, GVHD: Tạ Ngọc Ly
sản xuất cây con, hoa phong lan cắt cành”
Chú ý trong giai đoạn này chế độ che sáng như sau: ánh sáng mùa hè giảm
từ 60-70%, mùa đông giảm 40-50%, nhiệt độ từ 20 – 28
0
C, độ ẩm từ 70 - 85%.
Sau khi chuyển chậu lần thứ 2: từ 5-6 tháng cây có từ 4 lá và bắt đầu phân
hoá mầm hoa. Trong thời gian này cần duy trì nhiệt độ thấp từ 18 – 25
0
C hoặc nhiệt
độ chênh lệch ngày đêm từ 8 – 10
0
C. Lan Hồ điệp có hoa liên tục do đó xử lý nhiệt
độ thấp càng dài thì hoa càng nhiều, khoảng cách giữa các hoa càng ngắn. Nếu
nhiệt độ trên 25
0
C thì không thể phân hoá hoa và dưới 15
0
C thì không ra nụ, ra
hoa.
2.2.10. Chăm sóc lan
Yêu cầu về ánh sáng và nhiệt độ
Lan hồ điệp cần ánh sáng để phát triển tốt. Lan hồ điệp ưa thích một vị trí
gần nơi có ánh sáng nhưng ánh sáng mặt trời trực tiếp thì không nên, đặc biệt
hướng mặt trời chiếu vào lúc sáng sớm hoặc chiều muộn là lý tưởng. Ta có thể cho
đèn chiếu sáng nhân tạo. Các đèn chiếu sáng nên đặt ở phía trên của cây và nên
chiếu ít nhất 12 đến 16 giờ hàng ngày. Trường hợp ở trong nhà kính, ta nên che
bằng tấm vải, nhất là trong mùa hè.
Loài lan này cần nhiệt độ ban ngày là 18-29
0
C và nhiệt độ ban đêm là 13-
18
0
C. Trong suốt mùa thu, nhiệt độ nên duy trì dưới 16
0
C liên tục trong 3 tuần khi
cụm hoa bắt đầu xuất hiện. Thông thường sự thay đổi bất thường về nhiệt độ và độ
ẩm có thể là nguyên nhân làm rụng nụ.
Ẩm độ và nước tưới
Lan hồ điệp cần 50-80% độ ẩm. Nếu độ ẩm thấp hơn bạn có thể dùng màn
che, nhưng thỉnh thoảng việc làm này có thể gây ra nấm bệnh.
Mùa hè tưới nước 7 ngày/lần; mùa đông tưới nước 10 ngày một lần.
Nước tưới cho lan phải là nước sạch, nếu nước giếng khoan phải qua hệ
thống lọc. Lan Hồ điệp có đặc điểm chịu ẩm, nhưng không chịu nước do đó chúng
ta chỉ nên tưới nước cho lan ở gốc. Nếu nước nhiễu từng giọt trên lá, lá sẽ dễ bị
thối. Khi có nước đọng trên lá, lá sẽ có nhiều đốm đen rồi thối nhũn. Cho nên nhà
kính trồng Lan Hồ điệp thường có mái che làm bằng tấm lợp nylon trong, vừa có đủ
sáng vừa che được nước mưa nhỏ giọt đồng thời tránh vi khuẩn, mầm bệnh có thể
SVTH: Hồ Hoàng Thiên Phú - Trang 25 -
Lớp: 09SHLT