Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Thực trạng sản xuất và xuất khẩu thủy sản việt nam thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.75 KB, 60 trang )

1
Phần một
Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản trong
quá trình phát triển kinh tê việt nam
I- Vai trò của ngành thuỷ sản đối với sự phát triển kinh tê Việt Nam.
Chúng ta biết, từ "thuỷ sản" xuất hiện từ lâu, từ khi ông cha ta mới
sinh ra chưa biết là cái gì, nhưng nó có thể đánh bắt giúp con người tồn tại,
dù dưới hình thức này hay hình thức khác. Ngày nay, nguồn thuỷ sản có vai
trò rất quan trọng, không những phục vụ nhu cầu sinh hoạt trong nước, mà
chúng ta còn áp dụng công nghệ hiện đại để chế biến xuất khẩu sang thị
trường thế giới. Vì vậy, thuỷ sản có vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội, nhất là trong điều kiện nước ta có điều kiện tự nhiên phát triển
thuỷ sản xuất khẩu, thúc đẩy ngành khác phát triển, tạo động lực phát triển
kinh tế đất nước.
1- Vai trò xuất khẩu, sự phát triển kỉnh tế - xã hội.
Hoạt động xuất khẩu không thể thiếu được đối với tất cả các quốc gia
trên thế giới. Nó đóng góp mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước đó.
Các hoạt động xuất khẩu phản ánh mối quan hệ xã hội giữa các quốc gia này
với các quốc gia khác. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, quan hệ giữa các tổ
chức hay những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Ngoài
ra thông qua xuất khẩu chúng ta tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân
thanh toán, tăng thu ngân sách, kích thích và đổi mới công nghệ, cải biến CO'
cấu, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.
Đối với nước ta, trình độ phát triển còn thấp, những yếu tố vốn, kỹ
thuật, trình độ quản lý còn yếu, vì vậy xuất khẩu là chiến lược rất cần thiết
để chúng ta có điều đó vào trong nước,nâng cao trình độ những yếu tố đó.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn tới.
Cần nâng cao hiệu quả của kinh doanh xuất khẩu, mở rộng ngoại
thương trên cơ sở "hợp tác bình đẳng, không phân biệt thể chế chính trị xã
2
hội, đôi bên cùng có lợi" như Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã khẳng


định.
Đối với quốc gia xuất khẩu như nước ta, hoạt động xuất khẩu có vai trò
sau:
* Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển. Đó là những kết quả của những thành tựu khoa học công
nghệ, công nghiệp hiện đại. Chuyển dịch cơ cấu ấy phù hợp với mỗi quốc gia
khác nhau, phù hợp với xu hướng tất yếu của thời đại.
Thường chúng ta có cái nhìn khác nhau về xuất khẩu và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế:
Một là: Do tiêu dùng trong nội địa những sản phẩm không hết thì mang
chúng ra thị trường nước ngoài bán, tạo điều kiện tiêu thụ được sản phẩm
trong nước. Nhưng ở nước ta, trong điều kiện ngành kinh tế còn lạc hậu và
chậm phát triển. Việc sản xuất để phục vụ bản thân chưa đủ, nên chúng ta
không nói gì việc thừa ra để xuất khẩu.
Hai là: Chính phủ mỗi nước có chiến lược hướng ngoại hay hướng xuất
khẩu là chủ yếu. Tạo điều kiện thông qua chất lượng hướng ngoại thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đó là quan điểm tích cực nhiều nước
NĨC
S
đã áp dụng chiến lược này và thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Cụ thể là: Chúng ta thực hiện việc xuất khẩu, nó tạo đà, động lực cho
các ngành khác phát triển. Như sự phát triển xuất khẩu thuỷ sản thì công
nghệ ngành này phát triển, trên cơ sở đó công nghệ cũng được ưng dụng sang
ngành khác như: gạo, ca phê
Xuất khẩu chúng ta ngày càng xu có xu hướng nâng cao hiệu quả ngành
xuất khẩu: như chất lượng, giá cả hay quan hệ kinh tế.
Xuất khẩu nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các ngành trong nước và
trên thế giới, vì vậy tạo sự chuyển dịch giữa các ngành nhanh hơn.
Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản
xuất phát triển và ổn định. Khi xuất khẩu phát triển thì công nghệ, kỹ thuật

từ thế giới bên ngoài chảy vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất
nước, đó là làm sự chuyển dịch cơ cấu nhanh nhất giữa các ngành.
Như vậy, thông qua hoạt động xuất khẩu thì hàng hoá của đất nước,
phải tham gia cạnh tranh thị trường thế giới về chất lượng và giá cả. Cuộc
3
cạnh tranh ấy đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất.
* Xuất khẩu có vai trò tích cực giải quyết công ăn, việc làm và đời
sống nhân dân.
Khi hoạt động xuất khẩu phát triển thì việc sản xuất ra những mặt hàng
đó ngày càng tăng, việc mở rộng sản xuất là điều tất yếu. Sẽ giải quyết công
ăn, việc làm cho hàng triệu lao động trong nước, nâng cao thu nhập cho
người lao động, tăng thu nhập quốc dân, tạo điều kiện ổn định xã hội.
Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu còn làm cho lao động con người chuyên
môn hoá hơn, việc làm con người ngày càng đa dạng hơn, khi công nghệ hiện
đại.
* Xuất khẩu có vai trò tích cực đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản
xuất.
Chúng ta biết, hoạt động xuất khẩu diễn ra toàn thế giới, vì vậy khi
hoạt động xuất khẩu diễn ra như vậy thì đòi hãng xuất khẩu chất lượng tốt,
mặt hàng xuất khẩu chứa nhiều chất xám, yếu tố công nghệ chứa trong nó
nhiều. Với điều kiện như nước ta hiện nay thì công nghệ kém, vì vậy chúng
ta nhập khẩu từ bên ngoài vào để tăng phần chất xám trong hàng hoá xuất
khẩu. Nhu vậy, trang thiết bị và công nghệ sản xuất đưa vào trong nước, mặt
khác với điều kiện xuất khẩu hàng hoá cạnh tranh, như vậy thúc đẩy các
doanh nghiệp trong nước luôn luôn đổi mới, luôn cải tiến máy móc sáng tạo
ra, nâng cao chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi người lao động nâng cao
trình độ tay nghề phục vụ hoạt động sản xuất.
* Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng thị trường và thúc đẩy quan hệ đối
ngoại của ta.
Chúng ta thấy rõ rằng, xuất khẩu sẽ tạo mối ràng buộc lẫn nhau, về kinh tế,

tạo điều kiện chúng ta xích lại gần nhau hơn. Nâng cao địa vị và vai trò của
đất nước trên trường quốc tế, Mở rộng xuất khẩu sẽ mở rộng hoạt động tín
dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế. Nhưng qua các quan hệ đối ngoại ấy
sẽ tạo cho chúng ta quan hệ đến việc mở rộng thị trường xuất khẩu, có nhiều
ban hàng hơn.
Nói chung, xuất khẩu ngày càng trở lên có vai trò quan trọng trong bất
cứ nước nào trên thế giới khi muốn phát triển. Không những tạo vốn, kỹ
thuật, công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề, mà chúng ta còn mở rộng quan
4
hệ, nâng cao vị thế của đất nước trên thị trường thế giới. Trong giai đoạn
hiện nay thì đất nước ta ngày càng mở rộng cánh cửa, để hoạt động xuất khẩu
phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn trước trước
mắt và lâu dài để hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
2- Vai trò ngành thuv sản với phát triển kinh tế.
2.1 Ngành thuỷ sản xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Từ lâu thuỷ sản đã được coi là hàng thiết yếu và nó là hàng tiêu dùng
được nhiều nươc ưa chuộng như; Nhật, Mỹ, Trung quốc Trong khi đó ở
nước ta ngành thuỷ sản có rất nhiều khả năng và triển vọng phát triển. Với vị
trí và điều kiện tự nhiên ưu đãi thuận lợi nuôi trồng và khai thác. Nước ta có
bờ biển kéo dài 3260 km, và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km
2
.
Ngoài ra nước ta còn có trên một triệu ha mặt nước ngọt, 40vạn ha mặt nước
lợ( bãi triêù đầm phá ) và 1.470.000 ha mặt nước sông ngòi. Với điều kiên
tự như vậy hàng năm chúng ta đánh bắt hàng triệu tấn thuỷ sản gồm: cá, tôm,
mực Ngoài ra chúng ta còn nuôi trồng với khối lượng thuỷ sản lớn.
Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn của đất nước, nhà nước ta xác
định ngành thuỷ sản là nghành có vài trò quan trọng, mũi nhọn cho hoạt động
xuất khẩu. Trong giai đoạn hiện nay xuất khẩu của ta tăng rất nhanh, quí ĩ

năm 2003 tăng trên 40%. Vì vây, ngành kinh tế thuỷ sản ngày càng xác định
rõ ràng là ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những ngành sẽ giúp thúc
các ngành khác phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Trong những năm gần đây hoạt động xuất khẩu thuỷ sản ngày càng phát
triển thì nguồn vốn bổ sung cho nền kinh tế quốc dân ngày càng tăng, tạo
điều kiện cho các ngành khác phát triển, thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất
nước.
Những năm vừa qua sự tiến bộ về kỹ thuật trong nghành thuỷ sản, đặc
biệt là công nghệ chế biến với các khâu ngày càng hiện đại. Với sự tiến bộ ấy
thì ngành khác về công nghệ cũng được phát triển.
Các kết quả trong quá khứ cho thấy nghề đánh bắt và nuôi trồng thuỷ
sản có vài trò quan trong như thế nào trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh
tế quốc dân, giải quyết công an việc làm cho người lao động, thực hiện chính
sách xã hội.
5
Với sự tăng trưởng liên tuc của nghành thuỷ sản trên moi mặt: tư khâu
nuôi trông đến khâu tiếp thị nên giá trị ngành thuỷ sản liên tuc tăng đóng góp
vào thu nhập cua đất nước. Năm 2002 giá trị nghành thuỷ sản đạt được 2.021
triệu USD với giá trị đạt được như vậy đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh
tế đất nước và đã thu hút khoảng 3-4 triệu lao độngtrong cả nước vào ngành
thuỷ sản.
Chúng ta xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu là tôm và một số lượng lớn mực
lang, mực đông và lưong cá tra, cá baxa. Là ngành xuất khẩu lớn thứ ba của
Việt Nam (Sau dầu và hàng may mặc) vì vậy với lượng xuất khẩu nó là lượng
đóng góp rất lớn tăng trưởng kinh tế. Và theo dự báo kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản sẽ còn tăng nữa trong
giai đoạn tới năm 2001 là 1,7 tỷ USD thì năm 2005 là 2,5 tỷ USD. Vậy nó sẽ
tiếp tục là bộ phận quan trọng xuất khẩu của Việt Nam. 2.2. Ngành thuỷ sản
xuất khẩu với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chúng ta hãy nhìn lại quá trình, lịch sử ngành thuỷ sản phát triển ngày

càng đa dạng của ngành thủy sản. Nó góp phần vào rất lớn vào quá trình
chuyển dịch cơ cấu của đất nước, với sự thay đổi cả về chất và về lượng.
Từ chỗ nghề thuỷ sản từ tự cung tự cấp, phục vụ nhu cầu cuộc sống
hàng ngày của mỗi gia đình thì ngày nay nó trở thành ngành nuôi trồng, khai
thác tự nhiên với sản lượng lớn như (cá, tôm ) phục vụ xuất khẩu phục vụ
thị trường các nước trong khu vực và thế giới và ngành thuỷ sản Việt Nam
chiếm cơ cấu ngày càng thay đổi trong GDP đất nước. Với năm 1991 - 1995
tăng với tốc độ 7,5%/năm; giai đoạn 1996 - 2000 tăng với tốc độ 9%/năm.
Trong khi đó mức tăng trưởng bình quân hàng năm của sản lượng thuỷ sản
xuất khẩu là 17,8%.
Với kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục, năm 1990 mới đạt 205 triệu
USD thì đến năm 2000 đạt 1478,6 triệu USD và năm 2002 đạt 2021 triệu
USD. Với tốc độ tăng trưởng như vậy góp phần rất lớn vào chuyển dịch cơ
cấu ngành thuỷ sản rất lớn trong tổng sản phẩm nền kinh tế quốc dân.
* Một điều quan trọng nữa, đóng góp rất lớn vào chuyển dịch cơ cấu
ngành thuỷ sản trong nền kinh tế. Công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu
hiện nay chúng ta đã dần hình thành một ngành doanh nghiệp chế biến thuỷ
sản xuất khẩu trong cả nước. Tính đến năm 2000 đã có hơn 200 nhà máy chế
biến đông lạnh có KNSX khoảng 300 nghìn tấn sản phẩm xuất khẩu/năm.
6
* Ngành thuỷ sản của ta hiện nay do việc mở rộng xuất khẩu, nên mở
rộng nuôi trồng chế biến.Việc lao động từ ngành khác chuyển sang để hoạt
động lao động sản xuất, nuôi trồng ngày càng tăng cả về số lượng và chất
lượng lao động, nên dẫn đến việc có sự chuyển dịch cơ cấu trong lao động
giữa các ngành đặc biệt là ngành thuỷ sản.
Tóm lại, khi ngành thuỷ sản, xuất khẩu ngày càng phát triển và mở
rộng thì cơ cấu ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân ngày càng chiếm
tỷ trọng lớn nó góp phần rất lớn vào công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
2.3. Ngành thuỷ sản xuất khẩu với vấn đề xã hội
Cũng như bất kỳ ngành khác, thì khi hoạt động xuất khẩu diễn ra thì có

tác động rất lớn các vấn đề xã hội khác nhau. Có thể tác động tích cực,
nhưng có thể tác động tiêu cực. Những vấn đề ấy tác động trực tiếp đời sống
nhân dân. Khi ngành thuỷ sản xuất khẩu thì liên quan vấn đề xã hội sau:
- Tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và mức sống của các cộng đồng
đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản.
- Góp phần nâng cao trình độ tay nghề người lao động trong
nước
- Tăng cường xuất khẩu thu ngoại tệ vào trong nước
- Tăng cường việc đóng góp của ngành thuỷ sản vào sự phát triển kinh
tế - xã hội trong nước,bao gồm ổn định xã hội và an ninh quốc gia.
- Đẩy mạnh qúa trình hiện đại hoá trong ngành thuỷ sản.
Chúng ta dự định rằng số người sống bằng nghề thuỷ sản tăng
từ 6,2 triệu người năm 1995 đến năm 2003 là 8,1 triệu người. Điều đó phản
ánh sự mở rộng không ngừng ngành thủy ngày càng tăng lên trung bình tăng
16% một năm. Đó là điều đáng mừng cho một ngành xuất khẩu phát triển
Chúng ta không thể quên được rằng ngành thuỷ sản ngoài việc xuất
khẩu, nó còn giúp cho mục tiêu dinh dưỡng của quốc gia tăng lồng độ cá,
tôm trong khẩu phần thức ăn. Dự kiến cung cấp cá và các sản phẩm thuỷ
sản toàn nước sẽ tư mức hiện nay là khoảng 11,5 kg lên 13,5kg/đầu người
vào năm 2005. Đó là điều thiết yếu, ngoài việc xuất khẩu giúp giải quyết vấn
đề đời sống xã hội người dân. Bảo đảm phát triển kinh tế xã hội, phát triển
bền vững hơn.
Nói tóm lại, chúng ta ngày nay đẩy mạnh việc xuất khẩu thuỷ sản có
vai trò rất lớn trong việc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Ngành
thuỷ sản - Không những thúc đẩy phát triển kinh tế tạo sự chuyển dịch co cấu
kinh tế mà nó còn góp phần rất lớn vào việc giải quyết vấn đề kinh tế xã hội.
Và với sự phát triển như hiện nay của ngành thủy sản thì vai trò của ngành,
ngày càng quan trọng hơn bao giờ hết, góp phần công nghiệp hoá đất nước.
II. Khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
1. Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển thuỷ sản Việt Nam

ỈA. Thuận lợi vê tự nhiên
Việt Nam có tiềm năng tài nguyên biến phong phú, dầu khí, thuỷ sản,
dịch vụ hàng hải, du lịch, tài nguyên khoáng sản ven biển, đặc biệt là thuỷ
sản đã, đang và sẽ có vai trò càng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Việt Nam có chiều dài, bờ biển 3.260 km, 112 cửa sông lạch, vùng
đặc quyền kinh tế biển khoảng hơn 1 triệu km
2
với 4000hòn đảo lớn nhỏ tạo
nên nhiều eo, vùng, vịnh, đầm phá và nhiều ngư trường, trữ lượng hải sản
gần 3 triệu tấn.
Theo số liệu điều tra thì hàng năm chúng ta có thể khai thác 1,2 - 1,4
triệu tấn hải sản các loại mà không ảnh hưởng đến tiềm năng nguồn lợi.
Ngoài ra có thể khai thác hàng trăm ngàn tấn nhuyễn, thế vỏ cứng có giá trị
cao: nghêu, sò, ốc,
Diện tích vùng biển Việt Nam bao gồm: nội thuỷ, lãnh hải 226.000
vùng đặc quyền kinh tế khoảng hơn 1 triệu km
2
. Có thể chia Việt Nam thành
vùng nhỏ.
- Vịnh Bắc bộ: tính từ vĩ tuyến 17°N trở lên phía Bắc là một vịnh nông,
đáy hình lòng chảo, độ dốc đáy biển nhỏ, độ sâu trung bình 38,5m, nơi sâu
nhất của vịnh không quá lOOm
- Vùng biển trung bộ: Giới hạn từ vĩ độ 1 1°30N đến 17+0
N
đáy biển có
độ dốc.
Ngoài ra với sự ưu đãi của tài nguyên thiên nhiên thì đất nước Việt
Nam còn có nhiều môi trường nước, nó tạo thêm phong phú thuỷ, hải sản
phong phú gồm:

8
* Môi trường nước lợ:
Bao gồm ùng nước cửa sông, ven biển và rừng ngập mặn đầm phá. Đây
là mồi trường, cư trú sinh sản, sinh trưởng của nhiều loại tôm, và cá giá trị
kinh tế cao và nhiều loại khác cũng tăng trưởng phát triển cao.
Các vùng nước lợ nước ta đặc biệt là những vùng rừng ngập mặn ven
biển, đã được khai thác sử dụng có hiệu quả kinh tế đạt được thành tựu,
nhưng bên cạnh đó là nó bị lạm dụng nhiều quá mức cho việc nuôi trồng thuỷ
sản, cao nhất như việc nuôi tôm ven vùng.
Chúng ta biết Việt Nam tổng diện tích nước lợ khoảng 619 nghìn ha với
diện tích này hàng năm nhân dân Việt Nam đã nuôi trồng và đánh bắt nhiều
loại thuỷ sản đặc sản có giá trị kinh tế cao như: tôm, rong , cá mặn, lợ Đặc
biệt khu rừng ngập mặn là nơi nuôi dưỡng chính cho ấu trùng giống hải
sản, Tuy nhiên, theo FAO (1978) thì diện tích rừng ngập mặn ven biển Việt
Nam giảm từ 400 nghìn ha xuống 250 nghìn ha do ảnh hưởng lớn của điều
kiện tự nhiên Việt Nam
Do vậy, để tăng diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở nuôi trồng nước mặn
thì biện pháp hiệu quả nhất là lựa chọn những vùng nuôi thích hợp với kỹ
thuật nuôi thâm canh song với việc này cần có quy hoạch và chỉ đạo sản xuất
từ phía Nhà nước.
Việt Nam còn nhiều vùng nước lợ, vẫn chưa được khai thác vẫn là con
số tiềm ẩn, chúng ta tập chung vào khai thác, hiệu quả vào nuôi trồng thuỷ
sản. Bên cạnh ấy ta phải duy trì tốt vùng nước lợ cũ đã được khai thác các
hiệu quả cao hơn.
Những vùng nước lợ vừa có ý nghĩa sản xuất lớn, vừa có ý nghĩa trong
việc bảo vệ và tái tạo nguồn thuỷ sản cho tương lai, tạo điều kiện ngành thuỷ
sản được nhân rộng, mở rộng thị trường xuất khẩu. Đây là môi trường tốt cho
việc phát triển, nuôi dưỡng ấu trùng giống hải sản và nhiều loại thuỷ sản có
gía trị như tôm, rong, cá nước mặn.
Tuy nhiên, Việt Nam về tiềm năng còn rất nhiều chúng ta chú chú ý

hơn việc khác thác và sử dụng hợp lý hơn: như quy hoạch nguồn nước lợ,
diện tích nuôi trồng, nâng cao kỹ thuật nuôi trồng, chọn giống tôm phù hợp
hơn và áp dụng kỹ thuật phù hợp hơn
*Môi trường nước mặn xa bờ:
Vùng này chiếm diện tích nhỏ gồm vùng nước ngoài khơi thuộc vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tuy vậy hàng năm Việt Nam đang tập trung
9
khai thác ngư dân vùng này khác bằng phương tiện hiện đại xa bờ cho với
lượng thuỷ sản tương đối cao. ở cả 4 vùng biển khơi xa bờ như: Vịnh Bắc bộ,
Duyên Hải Trung Bộ, Đông Nam bộ, Tây nam bộ và Vịnh Thái lan.
Nhưng nhìn chung, nguồn lợi thuỷ sản mà ta khai thác được vẫn mang
tính nhỏ bé, phân tán quần nhỏ, nên, kho cho việc tập trung khai thác chế
biến công nghiệp, chế biến đông lạnh xuất khẩu cho hiệu quả kinh tế cao
hơn. Chúng ta khai thác chủ yếu mang tính tự phát của một số ngư dân hoặc
một nhóm người tự chế tạo thuyền máy đánh bắt xa bờ. Vì vậy việc khai thác
nước mặn xa bờ của Việt Nam là kém. Khí hậu thủy văn của vùng này rất
khắc nghiệt, hay sóng, dông, bão nên khai thác là rất khó, rất nguy hiểm
trong quá trình khai thác. Vì vậy chúng ta tăng thêm chi phí về vật chất,
phương tiện kỹ thuật cho việc khai thác xa bờ vùng nước mặn xa bờ là cần
thiết.
*Môi trường nước mặn gần bờ:
Môi trường nước mặn gần bờ ở Việt Nam, rất quan trọng hàng năm cho
khai thác lượng rất lớn. Cho khối lượng thuỷ sản nước mặn cao. Như vùng
Đông Nam Bộ và vùng Tây Nam Bộ thuộc vùng sinh thái này có sản lượng
khai thác cao nhất, có khả năng đạt 67% tổng lượng hải sản khai thác của
Việt Nam.
Khi nghiên cứu về bờ biển Việt Nam có nhiều vùng vịnh kín, đặc biệt
là vùng Vịnh Bắc bộ, bờ biển, Kiên Giang với 4.000 hòn đảo tạo nên nhiều
bãi biển được che chắn và có dòng chảy thích hợp có thể nuôi các giống loài
hải sản có giá trị cao như các loại cá, các loại nhuyễn thể, giáp xác, cầu gai,

hải sâm,
Nguồn lợi hải sản Việt Nam có thể ước tính như sau: Cá có trên 2.100
loài, trong đó hơn 100 loài có giá trị kinh tế. Vịnh Bắc bộ có thành phần khu
hệ cá nghèo nhưng đến 10,7% số loài mang tính ổn đới thích nước ấm. Tôm
có 751oài mực, 650 loài dong biển, 12 loài rắn biển, 4 loài rùa biển. Ngoài ra
còn có nhiều loài đặc sản quý hiếm như: Yến sào, sò huyết, ngọc trai, diệp,
san hô đỏ,
Đặc tính nguồn lợi này cũng gây khó khăn cho các nhà khai thác khi
phải lựa chọn các thông số kỹ thuật ngư cu sao cho kinh tế vừa có tính chọn
lọc cao - Nghĩa là ngư cụ có khả năng đánh bắt một cách lựa chọn loài thuỷ
sản cần khai thác.
10
Với điều kiện kỹ thuật, công cụ đánh bắt của ta thấp kém, nên môi
trường nước. Gần bờ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vùng nước gần bờ (Vịnh
Bắc bộ và Đông, Tây Nam bộ) từ 30 mét nước sâu trở vào và Trung bộ 50
mét nước, sâu trở vào là vùng khai thác chủ yếu của ngư dân nghề cá có quy
mô nhỏ và vừa Việt Nam
Vậy trong ngành thuỷ sản thì môi trường gần bờ có ý nghĩa hết sức
quan trọng việc đánh bắt khai thác, đó là sự ưu đãi rất lớn mà tài nguyên
thiên nhiên Việt Nam có được góp phần rất lớn tăng thêm nguồn xuất khẩu
thuỷ sản Việt Nam.
7.2. Thuận lợi về lao động
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, trẻ, khéo tay, thông minh và chăm
chỉ vì vậy nguồn lao động của ta có thể tiếp thu nhanh chóng và áp dụng sáng
tạo công nghệ tiên tiến. Giá cả sức lao động Việt Nam trong lĩnh vực thuỷ
sản tương đối thấp so khu vực và thế giới. Đây là lợi thế cạnh tranh lớn nhất
của chúng ta hiện nay trong thị trường thuỷ sản thế giới. Hiện nay lao động
của chúng ta có xu hướng còn chuyên lao động từ ngành khác sang ngành
thủy sản như lao động nông nghiệp. Tuy nhiên, lao động thuỷ sản chủ yếu lao
động giản đơn, trình độ văn hoá thấp và phần lớn chưa được đào tạo nghề

phù hợp với nhu cầu phát triển mới. Do đó, để nâng cao cả chất lượng, nuôi
trồng thuỷ sản và khai thác thuỷ sản thì việc nâng cao trình độ người nuôi
trồng và đánh bắt là thiết yếu. Năm 1995, lao động ngành thuỷ sản là 3,03
triệu người, trong lao động nghề cá chiếm khoảng 420 nghìn người, Đến năm
2000 là 3,4 triệu người. Nhưng những người lao động này đa số không làm
chuyên canh trong khai thuỷ sản mà nhiều người lao động sen canh với lao
động đồng ruộng. Chúng ta tính toàn ngành hiện nay: hiện có 90 tiến sỹ ,
4200 cán bộ đại học, 14000 cán bộ kỹ thuật chuyên ngành, 5000 cán bộ trung
cấp. Nhưng giá lao động kỹ thuật cũng rất thấp so với khu vực và thế giới.
Như vậy nguồn lao động thông minh, năng động, giá rẻ với các nước
trong khu vực và thế giới. Nó là lợi thế lớn nhất cho Việt Nam cạnh tranh
xuất khẩu thuỷ sản với thế giới. Tuy vậy thu nhập ngành thuỷ sản hiện nay
tương đối ổn định và tăng cao đó là điều kiện để ngành thuỷ sản thu hút lao
động từ ngành khác tạo điều kiện ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.3. Lợi thế các ngư cu và tàu thuyền
Chúng ta biết Việt Nam điều kiện về đánh bắt vãn còn thô sơ lạc hậu.
Chủ yếu vẫn là ngư cư và tàu thuyền có khả năng khai thác, nhỏ thô sơ. Vì
11
vậy nó là điều kiện thuận lợi cho việc khai thác gần bờ đó là lợi thế dựa trên
sức lao động Việt Nam . Trong giai đoạn 1991 - 2000 số lượng tàu thuyền máy
nhỏ tăng nhanh, thuyền thủ công có xu hướng giảm đi. Năm 1991 tàu thuyền
máy có 44.347 chiếc, chiếm 59,6%; thuyền thủ công 30.284 chiếc, chiếm 40,4%
đến năm 2002, tổng số thuyền máy là 78978 chiếc chiếm đại bộ phận tàu
thuyền khai thác hải sản của Việt Nam. Trong giai đoạn 1991 - 2002 bình
quân hàng năm tàu thuyền tăng 8% tốc độ tăng về các loại tàu thuyền máy có
xu hướng chậm đi nhưng tổng công xuất tăng nhanh. Năm 2002 tổng công
suất đã đạt tới 3.722.577 cv lớn gấp trên 4 lần so năm 1991. Ước tính năm 2003
số lượng tàu có xu hướng giảm xuống tổng công suất toàn đối tàu là 3202453
cv. Tốc độ tăng bình quân hàng năm lên tới 33%. Công suất bình quân năm
1991 đạt 18CV/chiếc, đến năm 2001 đạt 42,2CV/ chiếc. Năm 2002 công suất

đạt 42,8CV.
Như vậy với xu hướng chuyển từ tàu thuyền đánh bắt thô sơ sang tàu
thuyền đánh bắt cá có mã lực lớn hơn tạo điều kiện đánh bắt xa bờ hơn, dó là
lợi thế Việt Nam dựa trên cơ sở số lao động thủ công. Nhằm tăng việc đánh
bắt cho năng suất cao hơn với Việt Nam cơ cấu chủng loại tàu thuyền đánh
bắt cho năng suất cao hơn với Việt Nam cơ cấu chủng loại tàu thuyền máy
như sau:
- Năm 1992 cơ cấu chủng loại tàu thuyền máy:
+ Dưới 20 CV: chiếm 58,0%
+ Dưới 45 CV: chiếm 32,0%
+ 46-75 cv: chiếm 9,0%
+ Trên 76: chiếm 0,7%
- Đến năm 2002 cơ cấu tàu thuyền máy như sau
+ Dưới 20CV: chiếm 41%
+ 20-45CV: chiếm 34%
+ Trên 76CV: chiếm 11,83%
+ Trên 90CV; chiếm 0,17%
Như vậy số tàu thuyền hiện đại dần có khả năng khai thác xa bờ ngày
một tăng nhanh. Nếu năm 1997 mới chỉ khoảng 5000 tàu đánh cá xa bờ thì
đến năm 2002đã có 78978 chiếc, ươc tính nam 2003 sẽ còn tăng.
Đó là điều kiện thuận lợi cho ta khai thác thuỷ sản Việt Nam, với điều
12
kiện tăng về hiệu quả đánh bắt tàu thuyền hàng nămg lượng thuỷ sản xuất
khẩu Việt Nam tăng nhanh trong thị trường khu vực và thế giới.
Tóm lại, Việt Nam là một nước không những có điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho việc phát triển ngành thuỷ sản xuất khẩu mà còn người Việt
Nam và điều kiện đánh bắt nước ta hiện nay cũng là điều kiện rất thuận lợi
cho việc phát triển ngành thuỷ sản xuất khẩu.Nhưng với tiềm năng của đất
nước ta hiện nay cũng là điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển ngành
xuất khẩu. Nhưng với tiềm năng của đất nước hiện nay thì chúng ta còn phải

nỗ lực hơn rất nhiều để khai thác nguồn tự nhiên thiên nhiên này.
2. Thị trường thuỷ sản thê giới
2.1. Đặc điểm thị trường thế giới
Đánh giá sơ bộ tình hình thuỷ sản thế giới: Theo thống kê của FAO,
hiện nay toàn thế giới có 179 quốc gia ở đó nhân dân sử dụng thuỷ sản làm
thực phẩm. Do điều kiện tự nhên, tình hình kinh tế, phong tục tập quán hay
tôn giáo mà mức độ sử dụng thủy sản làm thực phẩm của các quốc gia, các
dân tốc là khác nhau. Lượng tiêu thụ thuỷ sản được tính trung bình của người
dân trên thế giới giai đoạn 1991 - 1997 là 14 - 15 kg thuỷ sản/người/năm.
Nhưng nhu cầu này sẽ tăng lên 18 - 19kg/ người/năm 2015 - 2020 trên toàn
thế giới.
Trong thập niên 90 tổng sản lượng thuỷ sản thế giới tăng rất chậm trung
bình 0,23%/năm thấp hơn so mức bình quân 3% của năm trong thập niên
80%. Nhưng theo đánh giá sang đầu thập niên này lượng thuỷ sản sẽ tăng lên,
nhu cầu người dân trên thế giới ngày càng cao.Đó là điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển của ngành thủy sản Việt Nam.
Nhưnghiện nay, trên thế giới thuỷ sản vẫn chủ yếu khai thác tự biên. Năm
1993 hải sản chiếm 80,9% còn thủy sản nội địa chỉ chiếm 19,1%, năml991.
Khai thác 85% hải sản biển và 15% thuỷ sản nội địa và đến năm 2002 thì mức
này có xu hướng đổi khác là khai thác 75,6% hải sản biển là 24,4% thuỷ sản
nội địa. Hiện nay xu hướng đó ngày càng tăng, có sự chuyển từ sản phẩm
thuỷ sản nội địa ngày càng tăng lên do nuôi trồng chế biến xuất khẩu.
Trong giai đoạn 1991 - 1997 sản lượng thủy sản thế giới tăng ổn định
với mức tăng trung bình là 3,86%/năm. Sự thay đổi về vị trí (ngôi thứ) giữa
các quốc gia có tổng sản lượng thủy sản lớn nhất thế giới có sự thay đổi thể
hiện quabảng sau:
13
Như vậy Nhật Bản liên tục giữ số 1 thế giới, trong hai thập kỷ qua nay
tụt xuống xếp thứ 3 và khó có thể trở lại ngôi đầu bảng vì đã cách quá xa so
sản lượng của Trung Quốc, Liên bang Nga. Cũng hai thập niên quan luôn giữ

vị trí số hai (có một lần giữ vị trí số một năm 1980) nay đã trượt xuống vị trí
thứ sau:
Trong khi Nhật Bản và Nga xuống dốc thì Trung Quốc, Pêru. Chilê lại
nhanh chóng vươn lên dành vị trí cao nhất thế giới. Trung Quốc sau hơn 10
năm "cải cách, mở cửa" đã từ vị trí thứ nhất về tổng sản lượng thủy sản thế
giới. Hơn nữa, càng ngày họ càng bỏ xa các nước đứng dưới, tới năm 1990,
Trung Quốc đạt 12 triệu tấn, trong khi đó họ giám mạnh dạn đưa ra kế hoạch
1991 - 2000 là mục tiêu 20 triệu tấn thủy sản, điều bất ngờ 4 năm sau họ đã
đạt 20,7 triệu tấn 1994. Với mức tăng quá nhanh của khai thác thủy sản
Trung Quốc, trong khi đó các cường quốc lớn mạnh khác lại giảm xút nhanh
Như vậy tình hình thủy sản thế giới đã có rất nhiều thay đổi kể cả điều
kiện đánh bắt và khả năng khai thác, về ngôi thứ về khai thác thủy sản có
nhiều thay đổi đáng kể hiện nay Trung Quốc và Peru đagn là nước đứng đầu
thế giới về khai thác thủy sản. Đó là những biến động lớn về tình hình thủy
sản hiện nay
Bảng: Những nước có sản lượng thuỷ sản lớn nhất thế gioi.
STT Tên nước Tổng sản lượng
1 Trung Quốc 17,5
2 Pê ru 8,4
3 Nhật Bản 8,1
4 Chi Lê 6,0
5 Mỹ 5,9
6 Nga 4,4
7 Ấn Độ 4,1
8 Tndonexia 4,1
9 Thái Lan 3,4
10
Hàn Quốc
2,6
Nguồn :Bộ thuỷ sản

14
2.2. Tình hình nhu cầu thủy sản trên thị trường thế giới.
Theo nghiên cứu khoa học cho thấy đạm từ thủy sản không những đảm
bảo lượng calori cao mà còn có lợi cho sức khoẻ, tránh được bệnh tật thường
thấy do dùng quá nhiều đạm và mỡ từ động vật cạn như thịt, chứng, sữa
Thêm vào đó công nghệ bảo quản chế biến đã làm cho hương vị thực phẩm
thủy sản ngày càng cao thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng chính
những lý do đó dẫn đến nhu cầu thủy sản tăng mạnh. Nhu cầu thủy sản thế
giới ngày càng tăng trên phạm vi toàn cầu còn do nguyên nhân sau:
- Dân số tăng nhanh. Theo tổ chức dân số thế giới, thì dân sóo thế giới
hiện nay tăng trung bình 2%/năm. Đặc biệt dân số tăng nhanh ở các nước
chậm và đang phát triển (LDCs). Với dân số thế giới hiện nay khoảng trên 6
tỷ người thì nhu cầu thủy sản của thế giới ngày càng tăng nhanh
- Thu nhập bình quân đầu người tăng: thu nhập bình quân của người
dân thế giới tăng dẫn đến tiêu dùng cho thực phẩm thủy sản tăng. Nhưng
trong thực tế các nước đang phát triển khi thu nhập tăng thì tiêu thụ thủy sản
còn lớn hơn. So với mức tăng thu nhập, ở các nước đang phát triển, thủy sản
được xem như loại thức ăn lành mạnh hơn so với thịt lợn, gà, bò. Tại các
nước LDCs, đặc biệt châu á, thủy sản là một nguồn cung cấp protein chủ yếu.
Nhu cầu thủy sản ở các nước phát triển ngày càng tăng do họ cũng nhận thức
được điều đó về thực phẩm thủy sản.
- Tốc độ đô thị hoá trên phạm vi toàn cầu tăng: đô thị hoá sẽ nâng cao
đời sống của nhân dân lên một bước, xuhướng tiêu dùng người dân tăng lên,
nên thực phẩm lành mạnh ngày càng nhu cầu cao dễ chế biến như thủy sản.
Sự thay đổi thị hiếu người tiêu dùng: Hiện nay do trong các loại
thịt bò, thịt lợn có chứa các chất gây hại cho cơ thể người nên
có xu hướng thị hiếu chuyển đổi, chuyển từ tiêu thụ các loại thịt
sang tiêu thụ thủy sản. Khu vực đông nam á chiếm 50% tổng
lượng tiêu thụ của thế giới (trong đó Nhật Bản, Trung Quốc và
các nước NICs đều là các thị trường tiềm năng). Khu vực Tây

Âu, Nga và các nước Đông Âu với lượng tiêu thụ 1996 lần lượt
là 11%, 7% và 9% tổng lượng tiêu thụ thủy sản của thế giới.
Nhu cầu thủy sản phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau như dân số, thu
nhập bình quân đầu người, tốc độ đô thị hoá và trình độ phát triển từng
quốc gia, từng khu vực. Do đó cơ cấu tiêu dùng thủy sản còn chưa đồng đều,
nếu như vậy vẫn có khoảng cách chênh lệch đáng kể giữa các nước, các châu
15
lục với nhau, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2. Dự tính dân sô và tiêu thụ thủv sản ở các châu lục
Như vậy xét các châu lục thì châu á là nơi có mức tiêu thụ thủy sản
lớn nhất thế giới, đặc biệt là thủy sản, với ví dụ điển hình là Nhật Bản và
Trung Quốc dẫn đầu thế giới và nhập khẩu thủy sản. Sang thị trường EU tuy
có giảm đôi chút so với mấy năm trước, nhưng tiêu thụ thủy sản EU sẽ tăng
7% trong năm tới. Giữa các khu vực với nhau đã sự chênh lệch rất lớn về tiêu
thụ thủy sản. Nhưng, mức tiêu thụ ấy lại chủ yếu tập trung ở các nức trong
khu vực, các nước đang phát triển. Nhưng xét về kg/đầu người thì các nước
châu
Âu có bình quân đầu người sử dụng rất cao như 40,2kg/người. Nga lên tới 60
kg/người
Theo PAO (Tổ chức lương nông thế giới) thì nhu cầu tiêu thụ trung
bình của mỗi người dân thế giới giai đoạn 1991 - 1997 là 14- 15 kg/người/
năm,nhưng nhu cầu này sẽ tăng lên 18-19kg/người/năm vào năm 2015-2020.
Do vậy nhu cầu tăng cao, đây sẽ là cơ hội tốt cho Việt Nam trong thúc đẩy
năm 2002
Châu lục Dân số Tiêu thụ hải sản
Triệu
người
% so thế
giới
kg/đầu

người
Triệu tấn
Nam á 2.100 33,8 31,4 30,0
Đông á 4.470 24,0 32,6 21,8
Trung Quốc
1.260 20,6 20
11,5
Ấn Độ 962 15,7 7,0 3,1
Nhật Bản
128 2,1
140,0
8,1
Nơi khác ở châu á 82 1,3 50,0 2,2
Châu Phi 877 14,3 31,9 12,7
Châu Âu 513 8,4 42,9
10,0
Nga 315 5,1
60,0 8,6
Bắc Mỹ 298 4,9 47,2 6,4
Châu đại dương 330 <0,1 73,3 1,0
Nguồn: Thông tin ngoại thương thủy sản
16
xuất khẩu thuỷ sản.
2.3. Hoạt động trao đổi thuỷ sản thế giới
Khác với thị trường nhiều loại hàng thực phẩm trì trệ hay chạm phát
triển thời gian qua, thị trường thuỷ sản thế giới khá năng động. Điều này một
phần liên quan đến đặc điểm về tính chất quốc tế của hàng thuỷ sản. Nhưng
hàng thuỷ sản thế giới vô cùng phong phú và đa dạng với hàng trăm dạng sản
phẩm được trao đổi mua bán trên nhiều thị trường các nước và khu vực khác
nhau. Tuy nhiên có thể phân ra 7 nhóm sản phẩm buôn bán chính trên thị

trường thế giới là: có khoảng 75% dạng sản phẩm cá tươi, ướp đông, đông
lạnh, giáp xác, nhuyễn thể tươi, ướp đông và đông lạnh (riêng giáp xác và
nhuyễn thể chiếm 33 - 35%). Sản phẩm đồ hộp thuỷ sản chiếm hơn 15%, còn
dạng khô, muối hun khói chiếm hơn 5% đầu cá và bột cá cống lại chiếm xấp
xỉ 5%. Với sản phẩm này 3 khu vực lớn nhập khẩu là Mỹ, Nhật, Tây âu xuất
khẩu thuỷ sản tiếp tục phát triển vào đầu thập niên này
2.3.1. Tình hình xuất khẩu tìĩiiỷ sản thếsiới
xuất khẩu thuỷ sản của thế giới qua các năm từ năm 1980 trở về đây.
Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi điều kiện khai thác và chế biến ngày
càng hiện đại hoá thì thuỷ sản qua các khâu chế biến, ướp lạnh ngày càng
được các nước quan tâm và xu hướng xuất khẩu các nước trong khu vực và
thế giới ngày càng tăng lên thể hiện qua bảng sau:
17
Qua bảng trên ta thấy xuất khẩu thuỷ sản tăng không ngừng. Năm
1980, xuất khẩu thuỷ sản thế giới đạt 15.098 triệu USD thì đến năm 1995
đạt 5.2037 triệu USD, năm 1998 đạt 51200 . Như vậy xuất khẩu đã tăng
201,6% mức tăng trung bình hàng năm là trên 13% phản ánh phát triển
năng động của thị trường thuỷ sản thế giới.
Cũng qua bảng trên thì tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản của các nước phát
triển bao giờ cũng cao hơn so các nước phát triển. Đó là điều dễ hiểu bởi
do điều kiện đánh bắt ở các nước đang phát triển khó khăn hơn rất nhiều so
các nước phát triển. Mặt khác do điều kiện công ghệ chế biến ở các nước
đang phát triển rất khó khăn. Hiện nay trong nước đang phát triển cố gắng
thúc đẩy việc xuất khẩu hàng của họ cao hơn.
Thực tế tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản của các nước đang phát triển
ngày càng cao, từ chỗ chỉ khoảng 40-45 những năm đầu thập kỷ 80, đầu
năm 90 là 45-55 và xu hướng vẫn tiếp tục tăng trên thế
giới. Và sự đột phá về xuất khẩu lần đầu tiên vào năm 1994, đã
vuợt so với các nước phát triển 50,6/49,4. Vào đầo thế kỷ này xu
Bảng 3. Xuất khẩu thuv sản thế giới.

Khu vực/năm 1980 1985 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Thế 2Ìới 15098 17249 31820 32031 3571 38917 40215 41501 47418 52034 5880 55300 51200
% hàng năm
-
+12.5 445.8 40.7 +10.4 +8.2 +3.2 +3.1 + 12.5 +8.9
Các nước PT 9218 9862 17237 17131 2012 21186 21656 21181 23185
% trong tổng sô 57,2 57.2 54.2 53.2 56.3 54.4 53.9 51.0 49.4
Các nước đang PT 5879 7566 14583 14899 15599 17730 18558 20320 23782
% trong tổng số 43,9 43.9 45.8 46.5 43.7 456 46.2 49.0 50.6
Mỹ 993
1162
2441 25324 3019 3281 3582 3179 3229 3383 3100
2800
2400
Thái Lan 358 675 1631 1959 2264 2901 3071 3404 4190 4949 4100 4300 4400
Nauy 974 922 1608 1563 2059 2282 2436 2302 2718 3122
Canada
1088
1356 2219 2051 2269
2168
2085 2056 2782 2314 2300 2400 2900
Đài Loan - 1067 1311 1591 1517 1524 1803 2369 2213 2326 1700 1800 1600
Trung Quốc 308 445 1023 1039 1301 1 182 1560 1542 2320 2854 2800 2900 2600
Hàn Quốc 677 797 1784 1538 1363 1500 1365 1335 1411 1564
Anh 56,2 362,3 718,2 794,2 962 1121 1147 868 1180 1 195
Pháp 320.3 359 730.8 772.7 931,2 9256 955.4
821
909.7 983.4
Nga 300.7 3839 799.6 718.4 - - 1014 1560 1491 1628
Đan Mạch 999 953 1854 1745 2165 2302 2319 2050 2359 2459

2600 2600
2900
Nhật 3400 3500 3600
Nguồn: PAO FIsherry yearbook hàng năm
18
hướng xuất khẩu vẫn tăng hơn so nước, phát triển.
Nhưng không thể đánh giá thấp các nước, phát triển được.
Với 15 nước đứng ở tốp đầu về xuất khẩu thuỷ sản thế giới thì có
hơn một nửa là các nước phát triển. Hoa kỳ vẫn là nước xuất khẩu
thủy sản đứng hàng đầu thế giới đầu năm 1980 đạt 993 triệu USD
và đến năm 1998 là 2400 triệu USD, tuy có giảm với lượng đáng kể
so số năm về trước. Sau đó là Thái Lan đứng đầu năm 1980 là 358
nhưng đến nam 1998 đã tăng vọt lên và đứng đầu thế giới là
4400triệu USD. Và hiện nay nhịp độ vẫn tang và Thái Lan vẫn là
nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu thuỷ sản, các nước xuất khẩu
lớn tiếp theo là Na Uy, Đan Mạch, Trung Quốc, Canada, Đài
Loan
Nhìn chung các nước đều tăng trưởng về xuất khẩu thuỷ sản thời
gian qua và đóng gó rất lớn vào tăng trưởng nền kinh tế thế giới, tuy
vậy mức tăng khu vực khác nhau và mỗi nước khác nhau. 2.3.2. Tình
hình nhâp khẩu thuỷ sản thế

2 ÌỚỈ.
Bên cạnh đó nhiều nước còn nhập khẩu thuỷ sản khối lượng
rất lớn. Chủ yếu là các nước phát triển, nhập khẩu tỷ lệ tương đối
cao (85%-86%) nhập khẩu toàn thế giới thời gian qua. Nhập khẩu
thuỷ sản của các nước đang phát triển chri chiếm tỷ trọng nhỏ,
nhưng có xu hướng tăng trong giai đoạn gần đây, thể hiện bảng
sau:
Bảng 4: Nhập khẩu thuỷ sản.

(Đơn vị: Triệu USD)
Khu vực/năm
1980 1985 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Thế giới
15908 18327 35325 35886 39565 43546 45102 44607 51615 56025 57000 56.500 55000
% tăng giảm
15,21 92,75 1,59 10,25 10,06 3,57 -1,10 15,71
DCS
13519 16202 30554 30705 34224 37358 38606 37903 43730
% trong X số
85 88,4 86,5 85,6 86,5 85,8 85,6 85 84,7
NDCs
2389 2152 4708 5068 5341 6188 6496 6704 7786
%trongX số
15,0 11,6 13,3 14,1 13,5 14,2 14,4 15.0 15,1
Nhật Bản
31 14 4744 10657 10127 10668 12085 12832 14187 16141 17854 15420 13.00 12.500
% trong X số
19,6 25,9 30,2 28,2 27,0 27,8 28,5 312.8 31,3 31,9
Bắc Mỹ
2934 4407 5982 6416 6193 6674 6710 711 1 7956 8175
% trong TG
18,4 24,1 16,9 17,9 15,7 15,3 14,9 15,9 15,4 14,6
Hoa Kỳ
2366 4052 5389 5756 5573 5999 6024 6290 7043 7141 7000 8100 8500
EC
5251 5502 11584 11087 14974 16211 16499 14312 16834 18600
Châu Âu
8786 6418 12811 13044 16375 17693 18068 15658 18382 19646
% TG

42,7 35,0 36,3 36,3 41,4 40,6 40,1 35,1 35,6 35,1
Pháp
1131 1040 2242 2195 2809 2925 2534 2518 2796 3221 3200 3000 3500
Italia
332 985 1899 1986 2458 2690 2643 2131 2257 2281 2500 2600 2800
Hổng Kông
361 1030 988 1111 1232 1398 1377 1642 1827 200 2100 1600
Đan Mạch
23,1 370 852 864 1116 1149 1197 1094 1415 1577 1600 1600 1650 1700
Thai Lan
138.3 537,7 726,8 794.4 1052 942 830 815 824
T.Ọuốc
95,4 297,7 359,5 207,1 438,1 680,8 576,0 855,7 941,3
Canada
301,6 355,9 593,3 659,2 620,3 675,5 686,9 822 913.4 1034
Nguồn: FAO Fishery yearbook hàng năm
19
Vậy nhập khẩu thuỷ sản thế giới thời gian qua tăng nhanh từ
15,908 tỷ USD (năm 1980) tăng lên 51,200 tỷ USD (1998) tăng gấp
3,218 lần. Nhưng nhập khẩu ấy chủ yếu tăng ở các nước phát triển
(khoảng 85%), từ 13,519 tỷ USD năm 1980 đến năm 1995 là
43,730 tỷ USD. Còn các nước đang phát triển thì nhập khẩu nhỏ,
bé.
Các nước trên thế giới thì đất nước Nhật Bản vẫn là nước
truyền thống nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới từ trước tới nay.
Mức nhập khẩu tăng từ 4,7 tỷ USD, mức tăng trung bình hàng năm
là hơn 13%, lớn hơn mức nhập khẩu trung bình thế giới (12%).
Nhập khẩu thuỷ sản đứng thứ hai và trên thế giới là Hoa Kỳ. Hoa
Kỳ từ 2,366 tỷ USD (1992) đến năm 1995 là 7,41 tỷ USD (1995) và
tăng lên 8,500 tỷ USD (1998) chiếm khoảng 14% nhập khẩu của

thế giới. Ngoài ra các nước tuyền thống nhập khẩu thuỷ sản, như
các nước ở khu vực Châu Ây, EC, Bắc Mỹ. Sau Hoa Kỳ còn có các
nước thường xuyên nhập khảu thuỷ sản Pháp, Anh, Hồng Kông,
Thái Lan, Đan Mạch
Các nước nhập khẩu thủy sản trên thế giới chủ yếu nhập các
mặt hàng thuỷ sản tươi và đông lạnh chiếm tỷ trọng áp đảo và ngày
càng tăng (73,6%) voà năm 1995 sau đó là đồ hộp thuỷ sản (15,9%)
thủy sản khô, muối, hun khói chỉ chiếm 5,4% ngoài ra còn laọi khác
diễn ra hoạt động nhập khẩu trên toàn thế giới.
2.3.3.

Kim ngách xuất khẩu, thuỷ sản thế xi ới.
Hoạt động kim ngạch xuất khẩu của thế giới diễn biến tăng
khá nhanh, do sản lượng thuỷ sản tăng. Nhưng theo đánh giá hiện
nay thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng do sản lượng giai đoạn trước
tăng quá châm. Hiên nay thì thực chất do công nghệ chế biến xuất
khẩu, do công nghệ được ứng dụng vào chế biến các sản phẩm đó,
thể hiện qua bảng.
Bảng 5: Kim ngạch XNK thuỷ sản thê giới.
Đơn vị: tỷ USD
Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
KNXNKTST
G
66,0
75,2
82,2
85,4
86
98,4
108,1

109,9 107,6
20
Ta thấy rõ ràng từ 1995 KNXNK TSTG tăng vọt do áp dụng
khoa học kỹ thuật vào chế biến nên giá trị đó đạt rất cao trong hoạt
động. Nhưng nhìn chung KNXNKTS tăng khá nhanh ổn định từ
1989 là 66 tỷ USD đến năm 1996 là 1097 tỷ USD nhưng sang năm
1997 giảm do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, nên kim
ngạch xuất nhập khẩu giảm. Và qua năm 1997 có ảnh hưởng những
năm sau nhưng tình hình hiện nay KNXNK lại tăng nhịp độ cao tạo
điều kiện phát triển kinh tế thế giới.
2.4. Tình hình giá cả thuỷ sản thế giới.
Khỏi nói giá cả thì ai cũng hiểu và phức tạp về thuỷ sản giá
cả luôn nhạy cảm. Giá kết quả của sự tác động qua lại giữa cung
và cầu trên thế giới thuỷ sản thế giới thế giới. Trong yếu tố đó thì
có rất nhiều yếu tố tác động gián tiếp tới nó. Có thể nói là vô cùng
phức tạp như gồm:
- Giá cả trên thị trường thủy sản thế giới tăng liên tục theo
chu kỳ, sở dĩ do cung thuỷ sản phụ thuộc nhiều yếu tố tự nhiên
điều kiện
thời tiết bão, gió đánh bắt ở biển cả. Có mùa tăng rất cao có mùa
tăng thấp.
- Ngoài ra còn phục thuộc vào nước nhập khẩu thuỷ sản có
nền kinh tế ổn định hay không nếu nền kinh tế suy thoái thì tiêu
thụ giảm mạnh dẫn đến giá giảm.
- Năng lực côg nghệ chế biến có phát triển không hay chỉ chế
ở dạng thô thì giá tất yếu sẽ rất rẻ mạt.
- Ngoài ra giá còn chi phố bởi điều kiện chính trị, văn hoá,
hay sự áp đặt kinh tế của nước lớn.
Nhưng diễn biến giá thuỷ sản thể hiện rất rõ qua chỉ số giá
tổng hợp của FAO là chỉ số giá xuất khẩu (export price indices of

fish). Từ năm 1993 tới nay, giá xuất khẩu thủ sản diễn biến khá
hợp lý thuật lợi cho các nước xuất khẩu thuỷ sản. Hàng năm, giá
tăng xấp xỉ 6% trong khi nhu cầu thị trường thế giới là không
giảm. Nếu coi giá thuỷ sản xuất khẩu 1993 là 100, giá xuất khẩu
thuỷ sản của các năm sẽ như sau.
21
Sơ với chỉ số giá cả của sản phẩm khác như thịt, trứng, sữa
thì chỉ rõ giá thuỷ sản xuất khẩu tăng với tốc độ cao hơn nhiều
(năm 1997, chỉ số giá thịt xuất khẩu tăng 1% năm 1998 không
tăng, chỉ số giá sản phẩm làm từ sữa giảm 2% năm 1999).
Như vậy với biến động giá tăng lên như vậy của ngành thuỷ
sản thì tạo cơ hội và điều kiện cho ngành thuỷ sản Việt Nam.
Nhưng nó phục thuộc rất lớn vào điều kiện công nghệ ở nước ta về
chế biến thuỷ hải sản phục vụ xuất khẩu.
Tóm lại: thị trường thuỷ sản thế giới luôn biến động cả về
cung lẫn cầu, kéo theo nó là giá cũng luôn thay đổi theo. Sự biến
động luôn diễn ra phức tạp, xu hướng cũng tăng và cầu cung tăng
và nó càng ngày càng đòi hỏi chất lượng cao hơn về khâu chế biến,
về giá cả rẻ hơn. Với hoạt động như vậy giá thuỷ sản thế giới, thì
tạo kẽ hở trên thị trường để đáp ứng những nhu cầu đó. Ngành thuỷ
sản Việt Nam đã và đang làm gì.
3. Khả năng tham gia thị trường thuỷ sản Việt Nam vào thị trường thê giới.
Với sơ lược thị trường xuất khẩu thuỷ sản thế giới cho thấy
tiềm năng rất lớn đối với ngành chế biến thuỷ sản Việt Nam. Khả
năng tham gia xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường thế giới
đầy hứa hẹn.
Không phải ngẫu nhiên mà mặt hàng thuỷ sản lại được đánh
giá là một trong số những mặt hàng xuất khẩu có nhiều triển vọng
của nước ta trong thời gian qua và trong thời gian tới, với hyvọng
kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt tới con số 1 tỷ USD trong năm 2000

nvà 2 tỷ USD vào năm 2005.
Trong vòng 10 năm từ 1986-1996 kim ngạch xuất khẩu thuỷ
sản Việt Nam đã tăng lên gấp 5,13 lần, năm 1997 đạt 760 triệu
USD năm 1998, 850 triệu USD và năm 1999 kim ngạch xuất khẩu
hàng thuỷ sản đã lên tới 979 triệu USD, đứng sau dầu thô 2017
Bảng 6: Chỉ sô giá thuv sản xuất khẩu.
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Chỉ sô p

thuỷ sản
xuất khẩu
100 106 113 120 131 138 149 167 185 198,7
Nguồn: FAO comodies review and Outlook 93/98
22
triệu USD dệtmay 1682 triệu, dày dép 1406 triệu USD gạo 1035
triệu.
Theo thống kê của tổ chức nông nghiệp và lương thực thế
giới (FAO) hiện nay Việt Nam là một trong số 20 nước có sản
lượng đánh bắt thuỷ sản lớn và đứng trong hàng ngũ 25 nước xuất
khẩu thuỷ sản lớn trên thế giới. Trong khu vực, Việt Nam đứng thứ
4 về sản lượng sau Thái Lan, ĩnđonêxia, Maĩaixia và cũng đứng thư
tư về xuất khẩu sau Thái Lan, Inđônêxia, Singapo.
Ngoài ra công nghệ chế biến của Việt Nam có rất nhiều thay
đổi đã dần có công nghệ tiên tiến. Chúng ta đã hình thành một
ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu trong cả nước.
Tính thời điểm năm 2000 đã có hơn 200 nhà máy chế biến đông
lạnh, có khả năng sản xuất khoảng 300 nghìn tấn sản phẩm xuất
khẩu/năm.
Tiềm năng và điều kiện khai thác như vậy thì khả năng tham
gia của thị trường thuỷ sản Việt Nam sang thị trường thế giới là rất

lớn. Trong năm qua. Sự nỗ lực tăng cường và mở rộng thị trường
xuất khẩu thuỷ sản là nguyên nhân làm kim ngạch xuất khẩu tăng
theo báo cáo của Bộ thuỷ sản, Việt Nam từ chỗ chỉ xuất khẩu qua
hai thị trường trung gian là Hồng Kông và Singapo thì hiện nay có
5 thị trường chính là Nhật, Mỹ, Eu, Trung Quốc và khu vực Đông
Nam á. Thị trường Nhật bản trong năm đầu của thập kỷ 90 chiếm
65-75% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam,
song do sự biến động trong khu vực và đồng tiền yên mất giá nên
thị trường này đã giảm xuống, nhưng đến thời điểm này vẫn là thị
trường lớn nhất, chiếm 40,70% với kim ngạch xuất khẩu đạt 381,3
triệu USD. Đứng sau nhật là Mỹ, thị trường này đang dần được cải
thiện từ 7-8% thị phần này tăng lên, 13,8%. Tuy nhiên sức cạnh
tranh thị trường này còn rất thấp, chỉ ít doanh nghiệp bán được
hàng sang Mỹ, tiếp đến là thị trường T. Quốc, Hồng Kông với 117
triệu USD chiếm USD chiếm 12,5%. Ngược lại thị trường Đông Âu
đang nguy cơ giảm xuống từ 12,05% xuống 9,6% (1999). Ngoài ra
thị trường Đông Nam á có nhiều biến chuyển cải thiện dần.
Như vậy trong năm qua thì khả năng tham gia của thị trường
23
thuỷ sản Việt Nam là rất lớn trên thị trường thế giới. Đặc biệt có
sự biến chuyển lớn tỏng những năm gần đây, từ thị trường nhỏ bế
nay đã vươn lên tầm khu vực và thế giới. Với cơ hội mở của hội
nhập khu vực, Việt Nam tham gia vào hiệp hội các nước ASEAN
quan hệ thương mại Việt Mỹ, vùng quan hệ khác mở rộng thì khả
năng hoạt động buôn bán thuỷ sản ngày càng mở rộng và ngang
tầm cao mới.
III. Các nhản tô ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Bất cứ hoạt động kinh doanh xuất khẩu nào của một nước thì
luôn ảnh hưởng chi phối yếu tố khác nhau ở đây gọi các yếu tố bên
trong và yếu tố bên ngoài. Những yếu tố này tác động rất rõ dệt và

kim ngạch xuất khẩu, cũng như giá cả ở đây gồm yếu tố ảnh
hưởng sau.
24

Yếu tố khủng hoảng
3.1. Yếu tổ, giá cả.
Yếu tố giá cả luôn được quan tâm trong bất cứ hoạt động xuất
khẩu nào. Đối ngành thuỷ sản thì giá cả vẫn là, yếu tố hàng đầu để
cạnh tranh với chính mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của nước khác
trong khu vực và thế giới. Mà nó còn, cạnh tranh những sản phẩm
thay thế nó, như thịt lợn, thịt bò Yếu tố giá luôn tác động trực
tiếp tới cầu của mặt hàng trên thị trường thế giới. Khi những mặt
hàng thay thế nó mà quá cao dẫn tình trạng người tiêu dùng sẽ
chuyển sang tiêu dùng hàng thuỷ sản và ngược lại. Nhưng đối Việt
Nam do điều kiện về đầu vào thường rẻ hơn so nước khác (lao
động, vốn ) nên việc đầu ra, giá rẻ là điều tất nhiên. Chính những
yếu tố giá rẻ là điều kiện để cạnh tranh mặt hàng thuỷ sản xuất
khẩu của Việt Nam hiện nay.
Như vậy yếu tố giá là yếu tố mà ảnh hưởng trực tiếp hoạt
động xuất khẩu thuỷ sản thế giới. Nhưng hiện nay việc giá cả sản
phẩm thuỷ sản phụ thuộc rất lớn vào công nghệ chế biến. Nếu sản
phẩm qua chế biến thì giá cả rất cao, hơn so khi xuất khẩu ở dạng
thô. Vì vậy hoạt động giá cả luôn yếu tố quan tâm cung cầu của thị
trường
Yếu tố giá
cả
Môi
trường
địa lý
Yếu tố chính

trị
pháp luật
Yếu tố
công
nghệ
Yếu tố
thuế hạn
ngạch
XKT
S
Môi trường quốc
tế
Môi
trường
xã hội
25
3.2. Yếu tố thuế, Hạn ngạch.
Hạn ngạch và thuế, cũng là yếu tố cản trở rất lớn việc xuất
khẩu thuỷ sản thế giới. Nó tạo ra rào cản để hàng nhập khẩu của các
nước khác không vào được. Hoặc trường hợp đánh thuế quá cao làm
giảm mặt hàng xuất khẩu của nướ khác, vào trong nước, dẫn tình
trạng làm tăng giá cả mặt hàng xuất khẩu. Thì khi đó những mặt
hàng xuất khẩu đó do giá qua cao khả năng cạnh tranh mặt hàng
trong tưong lai là không có, hay đối với hạn ngạch chỉ nhập lượng
nhất định sẽ giảm tình trạng xuất khẩu nước khác vào trong nước.
Đó là tình trạng của nhiều nước nhập khẩu thuỷ sản trên thế giới
hiện nay như: Mỹ, nhiều nước EU. Họ tạo ra hàng rào, thuế quan
mức rất cao, làm hàng thuỷ sản nước khác không vào được hoặc vào
được thì không có khả năng cạnh tranh được.
Như vậy, yếu tố thuế quan và hạn ngạch ảnh hưởng rất lớ tới

xuất khẩu thuỷ sản trên thị trường, thế giới. Nó làm tình trạng hàng
thuỷ sản xuất khẩu giảm đi hoặc không khả năng cạnh tranh những
mặt hàng thuỷ sản của họ.
3.3. Yếu tô môi trường quốc tế.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và toàn diện đến
xu hướn phát triển thị trường thuỷ sản thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng là xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá. Việt Nam đã
tham gia các tổ chức: ASEAN, AFTA, APEC điều này cho thấy
Việt Nam đã bước đầu hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với nước ta. Trong thời
gian qua ngành thuỷ sản đạt được kim ngạch xuất khẩu là 1,4786 tỷ
USD, do một phần có sự đóng góp của việc đẩy mạnh hợp tác quốc
tế và thu hút được nhiều nàh đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Việt
Nam cũng gặp nhiều thách thức như: khi gia nhập AFTA để hưởng
được ưu đãi thuế quan CEPT, Việt Nam cần phải tăng cường sản
xuất hàng xuất khẩu chế biến thay vì hàng xuất khẩu thô. Thị
trường EU và Mỹ cũng đặt ra các điều kiện cho Việt Nam như
HACCP (điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm).
Thị trường thuỷ sản thế giới trong những năm gần đây có

×