Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Chi ngân sách nhà nước với thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.63 KB, 23 trang )

NS cân bằng
Thặng dư NS
T = 0,25Y
1000
Thâm hụt NS
0
Y
T, G
LỜI MỞ ĐẦU
Phúc lợi vật chất được đo bằng giá trị hàng hoá và dich vụ mà nền kinh
tế sản xuất ra. Nghiên cứu tăng trưởng kinh tế là nghiên cứu về khả năng của
các nền kinh tế sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ.
Những câu hỏi thường được đặt ra như: vì sao một số nền kinh tế giàu
có về vật chất trong khi các nền kinh tế khác lại nghèo? Vì sao một số nền
kinh tế lại nhanh chóng giàu lên trong khi các nền kinh tế khác vẫn cứ nghèo.
Chẳng hạn những người dân trung lưu ở các nước giàu như Mỹ, Nhật lại có
mức sống cao hơn những người dân trung lưu ở các nước nghèo. Mức chênh
lệch cuộc sống. Người dân ở nước giàu tiện nghi nhiều cho cuộc sống, được
chăm sóc y tế tốt hơn và có tuổi thọ cao hơn.
Xét theo thời gian, ngay cả trong 1 nước mức sống cũng thay đổi rất
nhiều. Và tất cả là do yếu tố tăng trưởng kinh tế tác động lên.
Nghĩa là vấn đề tăng trưởng kinh tế là một vấn đề quan trọng tác động
lên cuộc sống của người dân. Nó có vai trò quan trọng trong việc thực hiện
các chính sách của nhà nước.
1
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - MỘT MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ QUAN TRỌNG
1. Khái quát chung về tăng trưởng kinh tế
Mục tiêp phát triển kinh tế của một quốc gia luôn là mục tiêu quan
trọng hàng đầu. Hiện nay, lại có một thực tế rằng tỷ lệ tăng trưởng của các
nước cũng rất khác nhau. Tại một số nước Đông Á như Singapor hay Hàn
Quốc, thu nhập bình quân đầu người đã tăng 7% mỗi năm trong mấy thập kỷ


qua. Trái lại, tại một số nước như Etiopia và Nigiêria, thu nhập bình quân
không thay đổi trong thời gian dài.
Vậy đâu là nguyên nhân của sự khác biệt ấy.
Để đánh giá thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia, người ta sử dụng
một trong những thước đo quan trọng nhất đó là tổng sản phẩm trong nước
(GDP). Qui mô GDP thực tế là chỉ tiêu tốt nhất để phản ánh sự thịnh vượng
của nền kinh tế và mức tăng trưởng của GDP thực tế là chỉ tiêu tốt nhất về
tiến bộ kinh tế.
Khi một nước có tăng trưởng kinh tế, thì dân cư trong nước nhìn chung
sẽ có cuộc sống sung túc hơn. Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia
tăng mức sản xuất mà nền kinh tế tạo ra theo thời gian. Nghiên cứu tăng
trưởng kinh tế là nghiên cứu về khả năng của các nền kinh tế sản xuất ra hàng
hoá - dịch vụ.
Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần trăm thay đổi của
mức sản lượng quốc dân:
g = x 100%
Trong đó: g
t
là tốc độ tăng trưởng của thời kỳ t
Y là GDP thực tế của thời kỳ t
Thước đo trên có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số tăng lên rất nhanh
trong khi GDP thực tế lại tăng trưởng chậm. Do đó các nhà kinh tế đã xây
dựng một định nghĩa khác có thể thích hợp hơn về tăng trưởng kinh tế theo
mức sản lượng bình quân đầu người. Theo đó, tăng trưởng kinh tế tính bằng
2
phần trăm thay đổi của GDP thực tế bình quân đầu người của thời kỳ nghiên
cứu so với kì trước - thông thường tính cho 1 năm
g
pc
t

= x 100%
g
pc
t
là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người của thời kì t
Y là GDP thực tế BQ đầu người
2. Các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế
Thực tế cho thấy có sự khác biệt rất lớn trong tỉ lệ tăng trưởng, vị trí
xếp hạng của các nước theo thu nhập thay đổi mạnh mẽ theo thời gian. Như
chúng ta đã biết Nhật - đất nước chịu hậu quả nặng nề sau chiến tranh thế giới
thứ II- đã vươn lên trên nhiều nước khác. Một nước tụt lại phía sau là Anh.
Vào những năm 1870, Anh là nước giàu nhất thế giới và thu nhập bình quân
đầu người cao hơn Mỹ khoảng 20%.
Nhưng điều gì lý giải cho sự thay đổi ấy? Vì sao một số nước tăng
trưởng rất nhanh trong khi một số khác lại tụt hậu?
Các nhà kinh tế học đã chứng minh rằng: tăng trưởng kinh tế được
quyết định bởi các yếu tố sau:
a) Mục tiêu của tăng trưởng kinh tế
Chúng ta không có gì phải nghi ngờ về tầm quan trọng của sự tăng
trưởng với tư cách là một mục tiêu chính sách của mọi quốc gia. Sự tăng
trưởng tạo điều kiện để nâng cao mức sống và đẩy mạnh an ninh quốc gia. Nó
kích thích kinh doanh táo bạo, khuyến khích sự đổi mới và mang lại một sự
khích lệ thường xuyên đối với hiệu quả kĩ thuật và quản lý. Hơn nữa một nền
kinh tế đang tăng trưởng tạo thuận lợi cho tính năng động về mặt kinh tế và
xã hội.
Vào những năm 70, mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã bị chỉ trích. Sự chỉ
trích có 2 cơ sở chủ yếu. Thứ nhất, sự tăng trưởng kinh tế liên tục chắc chắn
sẽ khiến cho tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng và sự phá huỷ môi
trường không thể sửa chữa được. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến sự
suy yếu của "các nguồn lực không thể tái tạo"

3
Tuy nhiên trong quá trình phát triển đến nay, các tiến bộ khoa học công
nghệ đã chứng tỏ sự ngần ngại trên là không cần thiết và con người có khả
năng khắc phục điều đó.
b) Năng suất - yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định tăng trưởng
Ta đã thấy được tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế và hoạt động đó
là mục tiêu của các chính phủ. Nhưng một câu hỏi đặt ra là vậy điều gì quyết
định tăng trưởng.
Lời giải thích có thể gói gọn trong 1 từ duy nhất "Năng suất"
Thuật ngữ "năng suất" phản ánh lượng hàng hoá - dịch vụ mà một công
nhân sản xuất ra trong mỗi giờ lao động. Năng suất cũng đóng vai trò quyết
định mức sống của một nước.
Hãy nhớ rằng tổng sản lượng trong 1 nước phản ánh đồng thời tổng thu
nhập của tất cả các thành phần trong nền kinh tế và tổng chi tiêu cho sản
lượng hàng hoá - dịch vụ của nền kinh tế.
Đất nước chỉ có thể hưởng thụ cuộc sống tốt đẹp hơn khi nó sản xuất
được lượng hàng hoá - dịch vụ lớn hơn. Người Mỹ sống sung túc hơn người
Nigiêria vì công nhân Mĩ có năng suất cao hơn công nhân Nigiêria. Nghĩa là
mức sống của một nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hoá và dịch vụ
của nước đó.
c) Các nguồn lực của tăng trưởng kinh tế
Sau khi đã nghiên cứu mục tiêu của tăng trưởng và yếu tố năng suất,
người ta lại đặt ra một câu hỏi: Vì sao một số nền kinh tế lại có khả năng sản
xuất ra nhiều hàng hoá - dịch vụ hơn các nền kinh tế khác?
Để trả lời được câu hỏi đó ta cần xem xét về các nguồn lực của tăng
trưởng. Nguồn lực hay chính là các nhân tố quyết định tăng trưởng, gồm:
nguồn nhân lực, tích lũy tư bản, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công nghệ.
Các nhân tố này cũng tồn tại và quyết định năng suất của các nền kinh tế hiện
thực nhưng phức tạp hơn.
4

Vốn nhân lực là yếu tố đầu tiên quyết định đến tăng trưởng kinh tế của
một nước.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng chất lượng đầu vào lao động - kỹ năng, kiến
thức và kỷ luật của lực lượng lao động - là yếu tố quan trọng nhất của tăng
trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác của sản xuất như tư bản hiện vật,
nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay được trong nền kinh tế
thế giới. Một nước có thể nhập khẩu các thiết bị thông tin viễn thông, máy
tính, máy phát điện, các loại máy móc hiện đại nhất. Nhưng những hãng tư
bản này chỉ có thể được sử dụng một cách hiệu quả nhất nếu như người công
nhân có kỹ năng và được đào tạo, có trình độ văn hoá, kỷ luật lao động cao
làm cho năng suất lao động tăng, và người quản lý có tri thức và khả năng
quản lý những quy trình công nghệ hiện đại một cách có hiệu quả.
Công nhân làm việc với năng suất cao hơn nếu họ có nhiều công cụ lao
động hơn khối lượng trang thiết bị và cơ sở vật chất dùng trong quá trình sản
xuất ra hàng hoá và dịch vụ được gọi là tư bản hiện vật hay viết gọn là tư bản.
Ví như khi người thợ mộc làm việc, anh ta có cưa, bào, đục, máy tiện… Việc
có nhiều công cụ hơn cho phép người thợ làm việc nhanh và chính xác hơn.
Nghĩa là trong một tuần người thợ mộc với dụng cụ thô sơ sẽ làm ra ít sản
phẩm hơn so với người có công cụ tinh vi, chuyên cho nghề mộc. Tư bản hiện
vật biểu thị yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất mà trước đó đã từng là đầu
ra của nó. Tư bản hiện vật là nhân tố sản xuất được dùng để sản xuất ra tất cả
các loại hàng hoá và dịch vụ, trong đó có bản thân tư bản.
Bản thân tư bản hiện vật của một nước tăng trưởng theo thời gian
nhưng tăng nhanh hoặc chậm phụ thuộc vào quá trình tích luỹ tư bản. Nhưng
như chúng ta biết tích luỹ tư bản cần có sự hy sinh tiêu dùng hiện tại trong
nhiều năm. Nhưng nó tăng trưởng nhanh có xu hướng đầu tư mạnh vào hàng
hoá tư bản mới, ở những nước tăng trưởng nhanh nhất, 10 → 20 % thu nhập
dành cho tích luỹ tư bản - yếu tố tác động đến tăng trưởng. Khi bàn đến tư
bản chúng ta không chỉ đề cập đến nhà xưởng, máy móc. Nhiều đầu tư do
5

chính phủ tiến hành và đặt nền móng cho sự phát triển của khu vực tư nhân.
Những đầu tư này được gọi là tư bản cố định xã hội và bao gồm dự án lớn
như mở đường cho các hoạt động thương mại. Đường sá và các dự án về nước
và thuỷ lợi, các biện pháp yếu tố cộng đồng là những ví dụ quan trọng. Tất cả
những dự án này gồm những khoản đầu tư lớn thường không thể chia nhỏ
được hay đầu tư trọn gói và nhiều khi có lợi tức tăng dần theo quy mô. Và các
khoản đầu tư này ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế - chính phủ phải tham
gia vào để đảm bảo những đầu tư cơ sở hạ tầng hay tư bản xã hội được thực
hiện.
Tài nguyên thiên nhiên một trong những yếu tố sản xuất quan trọng của
nền kinh tế. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất
do thiên nhiên mang lại như đất đai, sông ngòi và khoáng sản. Có 2 loại tài
nguyên thiên nhiên: loại tái tạo được và loại không tái tạo được. Dầu mỏ là tài
nguyên thiên nhiên thuộc loại không tái tạo được; rừng cây là ví dụ về tài
nguyên tái tạo được.
Sự khác biệt về nguồn tài nguyên thiên nhiên gây ra một số khác biệt về
mức sống trên thế giới. Sự thành công có ý nghĩa lịch sử của Mỹ bắt nguồn từ
cung đất đai mênh mông, thích hợp cho ngành nông nghiệp. Ngày nay một số
nước ở vùng Trung Đông như Cô-oét và Ả rập Xêút rất giàu chỉ vì họ sống
trên những giếng dầu lớn nhất thế giới.
Mặc dù nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa quan trọng, nhưng đó
không nhất thiết là nguyên nhân làm cho nền kinh tế có năng suất cao trong
việc sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Ví dụ, Nhật là một trong những quốc gia
giàu nhất thế giới mặc dù không có tài nguyên thiên nhiên. Thương mại quốc
tế là nguyên nhân thành công của nước Nhật. Nhật nhập khẩu rất nhiều tài
nguyên thiên nhiên cần thiết, chẳng hạn dầu mỏ, rồi xuất khẩu hàng công
nghiệp sang các nước có nhiều tài nguyên.
Cùng với ba nhân tố sản xuất đã thảo luận ở trên, tăng trưởng kinh tế
còn phụ thuộc vào nhân tố hết sức quan trọng là tri thức công nghệ. Trong
6

lịch sử, tăng trưởng của các nước trên thế giới có hình mẫu khác nhau không
phải là quá trình sáng chế và thay đổi công nghệ không ngừng đem lại một
bước tiến xa về khả năng sản xuất của các nước châu Âu, Mỹ, Nhật và các
nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Singapor…
Nhân tố cuối cùng quyết định năng suất là tiến bộ công nghệ. Cách đây
một thế kỷ, đa số người Mỹ là nông dân, bởi vì kỹ thuật trồng trọt hồi ấy đòi
hỏi nhiều lao động để làm ra lượng lương thực cần thiết cho mọi người. Ngày
nay nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật trồng trọt, chỉ một phần nhỏ dân số làm
việc trong nông nghiệp cũng đủ nuôi sống toàn xã hội. Sự thay đổi về công
nghệ như thế cho phép chuyển lao động sang các ngành sản xuất ra hàng hoá
và dịch vụ khác.
Thay đổi công nghệ là những thay đổi trong quá trình sản xuất hoặc đưa
ra những sản phẩm mới sao cho có thể tạo ra được sản lượng nhiều hơn và cải
tiến hơn cùng với một lượng đầu vào. Những phát minh đã làm năng suất tăng
nhanh là động cơ hơi nước, máy phát điện, bóng đèn, động cơ đốt trong, và
máy bay phản lực hạng nặng chở khách. Những thay đổi công nghệ cơ bản là
những phát minh ra sản phẩm mới như điện thoại, máy thu thanh, máy bay,
máy ảnh, vô tuyến truyền hình và máy tính. Những phát minh này là những
phát minh nổ bật nhất trong kỷ nguyên hiện đại đang diễn ra trong ngành điện
và tin học mà một máy tính xách tay nhỏ bé ngày nay có công suất vượt xa
máy tính nhanh nhất của những năm 1960. Những phát minh này là những ví
dụ đặc sắc nhất về thay đổi công nghệ. Tuy nhiên thay đổi công nghệ trên
thực tế là một quá trình liên tục bao gồm những cải tiến lớn, nhỏ. Những cải
tiến nhỏ là bộ phận của sự tiến bộ đều đặn của nền kinh tế.
Tiến bộ công nghệ có tầm quan trọng lớn trong việc nâng cao mức
sống, các nhà kinh tế từ lâu đã suy nghĩ làm thế nào để khuyến khích tiến bộ
công nghệ. Rõ ràng rằng thay đổi công nghệ khhông phải là quá trình cơ học
đơn giản của việc đi tìm những sản phẩm và quá trình sản xuất tốt hơn. Thay
vì thế, sáng kiến nhanh đòi hỏi phải nuôi dưỡng một tinh thần kinh doanh.
7

Trên đây là 4 nguồn của tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên các nhân tố đó
có thể khác nhau rất nhiều giữa các nước và một số nước có thể kết hợp
chúng hiệu quả hơn các nước khác.
8
3. Vấn đề về chi ngân sách nhà nước
Trong hệ thống tài chính thống nhất, ngân sách nhà nước là khâu tài
chính tập trung giữ vị trí chủ đạo. Ngân sách nhà nước cũng là khâu tài chính
được hình thành sớm nhất, nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra
đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tiền
tệ. Cho đến nay thật ngữ "ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong
đời sống kinh tế xã hội của mọi quốc gia. Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê
các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của nhà nước. Nó
có vai trò rất quan trọng trong mọi mô hình, là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền
kinh tế xã hội và là vai trò quan trọng của ngân sách nhà nước trong cơ chế thị
trường.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối sử dụng quỹ ngân sách
nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ
của nhà nước.
Thực chất chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương
tiện tài chính cho các nhiệm vụ của nhà nước. Song việc cung cấp này có
những đặc thù riêng.
Thứ nhất chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ
kinh tế, chính trị, xã hội mà chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia.
Mức độ phạm vi chi tiêu ngân sách nhà nước phụ thuộc vào tính chất nhiệm
vụ của Chính phủ trong mỗi thời kỳ.
Thứ hai là tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được thể
hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu
quả về mặt xã hội và chính trị, ngoại giao. Chính vì vậy, trong công tác quản
lý tài chính, một yêu cầu đặt ra là: Khi xem xét, đánh giá về các khoản chi
ngân sách nhà nước, cần sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu định tính và các chỉ

tiêu định lượng, đồng thời phải có quan điểm toàn diện và đánh giá tác dụng,
ảnh hưởng của các khoản chi ở tầm vĩ mô.
9

×