Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Hồ Dzếnh và tập Chân trời cũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.66 KB, 37 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong trần thuật học hiện nay, người đọc không còn quá chú
trọng đến cách xây dựng nhân vật, cách nhà văn giải quyết các biến cố
trong truyện mà người ta quan tâm nhiều hơn đến việc nhà văn nói gì và
nói như thế nào? Bởi vậy mà nghệ thuật kể chuyện được nhiều nhà phê
bình tập trung nghiên cứu và trở thành một con đường để độc giả đi tìm ý
nghĩa nội dung tư tưởng mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Nhìn chung,
nghệ thuật kể chuyện là một khái niệm rất rộng, bao gồm tất cả các phương
tiện mà người nghệ sĩ sử dụng để viết lên tác phẩm như người kể chuyện,
điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu,...
Truyện ngắn là một thể loại thuộc phương thức trần thuật. Về
phương diện nội dung, nó được xem là một lát cắt ngang của cuộc sống.
Với dung lượng nhỏ, thể loại này là sự kết tinh cao nhất của ngôn từ. Bởi
nhà văn khi viết vừa phải đáp ứng được yêu cầu về dung lượng mà vẫn
phải tái hiện cuộc sống một cách chân thực, khách quan đồng thời biểu hiện
được những suy nghĩ chủ quan của mình. Có thể khẳng định rằng truyện
ngắn là sự kết tinh cao nhất của nghệ thuật văn xuôi. Một truyện ngắn
thành công không thể thiếu sự nỗ lực, cố gắng của nhà văn trong nghệ thuật
kể chuyện. Cách kể chuyện trong truyện ngắn cũng khó hơn, phức tạp hơn
nhiều so với tiểu thuyết bởi tính cô đọng, súc tích mà thể loại này yêu cầu.
1
Trong văn đàn văn học Việt Nam, cái tên Hồ Dzếnh xuất hiện
đã lâu nhưng lại không được nhiều nhà phê bình tập trung nhắc đến có lẽ
bởi tác phẩm ông để lại cho đời không nhiều. Song, văn xuôi Hồ Dzếnh lại
ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa, thể hiện cái nhìn về cuộc đời của con người
mang hai dòng máu, thuộc về hai quê hương. Truyện ngắn của ông được
viết bằng một chất giọng man mác buồn, đầy ắp những suy tư, những trăn
trở về cuộc sống và con người.
Chân trời cũ được xem là một truyện ngắn xuất sắc của Hồ
Dzếnh. Chỉ với mười ba truyện ngắn mang hình thức tự truyện, ông đã mở


ra trước mắt người đọc một chân trời kí ức xa xôi mà đậm sâu, mang lại
những rung cảm sâu sắc. Ở đây, nhà văn đã chọn cho mình một phong cách
kể chuyện rất riêng, rất mới lạ và độc đáo. Ngôn ngữ khá trong sáng, mạch
lạc, mang đậm chất thơ, đậm tính nhạc và tính họa. Có lẽ nhờ cách kể
chuyện đầy hấp dẫn này mà ngày nay, bạn đọc biết đến Hồ Dzếnh như một
cây bút viết truyện ngắn trữ tình xuất sắc của văn học Việt Nam.
Vì những lí do đó mà trong bài niên luận này, tôi xin tập trung
đi sâu vào việc nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện trong tập truyện Chân trời
cũ với mục đích đóng góp thêm ý kiến đánh giá của mình vào quá trình
đánh giá toàn bộ sự nghiệp văn học của Hồ Dzếnh trong tiến trình văn học
Việt Nam.
2. Phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu:
Hồ Dzếnh là một cây bút tài năng trên cả hai lĩnh vực thơ ca và
văn xuôi. Nhưng có lẽ thứ làm nên tên tuổi của nhà văn không thể không
nhắc đến các truyện ngắn của ông. Mặc dù bút lực chỉ thực sự phát triển
trong giai đoạn tiền khởi nghĩa nhưng nhà văn cũng kịp để lại cho đời
nhiều tác phẩm xuất sắc mà Chân trời cũ là một tác phẩm điển hình.
2
Bài nghiên cứu tập trung đi sâu vào việc nghiên cứu tập truyện
Chân trời cũ của Hồ Dzếnh dưới ánh sáng của trần thuật học. Bài viết sẽ đi
vào phân tích những nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của nhà văn,
rút ra những cách tân độc đáo của Hồ Dzếnh so với văn xuôi giai đoạn tiền
chiến.
Nghiên cứu theo hướng khai thác về cách kể chuyện của ông
qua tập truyện Chân trời cũ, trong quy mô bài viết, tôi muốn đưa ra một cái
nhìn khách quan, tổng thể và thấu đáo về nghệ thuật kể chuyện, về cách
nhà văn nói gì và nói như thế nào về cuộc đời. Trên cơ sơ đó để nêu lên
những đặc điểm riêng biệt trong văn phong Hồ Dzếnh so với các tác giả
khác đương thời. Qua đó giúp người đọc có một cái nhìn khách quan về
chính xác về những tác phẩm của Hồ Dzếnh.

3. Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành bài viết này, tôi áp dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau:
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học
Các phương pháp này đều được tiến hành dựa trên ánh sáng của
các lí thuyết về trần thuật học, tự sự học mà cụ thể là các nghiên cứu về
phương diện người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ, giọng
điệu,...
3
4. Cấu trúc của bài viết:
Ngoài phần mở đầu và kết luận. bài viết này bao gồm ba
chương:
Chương I: Hồ Dzếnh và tập Chân trời cũ
Chương II: Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
Chương III: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật
4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. HỒ DZẾNH VÀ TẬP TRUYỆN CHÂN
TRỜI CŨ:
1.1. Nhà văn Hồ Dzếnh :
Hồ Dzếnh được xem là một trong những cây bút xuất sắc của
văn học Việt Nam thời kì tiền chiến. Trong cuộc đời của mình, nhà văn viết
không nhiều và chủ yếu là các sáng tác trước Cách mạng song những tác
phẩm mà Hồ Dzếnh để lại cho đời đủ khiến người đọc biết đến tên tuổi của
nhà văn như một cây bút viết truyện trữ tình xuất sắc.
Nhà văn Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh, sinh năm 1916 mất
năm 1991. Ông là một nhà văn khá đặc biệt khi mang trong mình hai dòng
máu – sự kết hợp giữa chất Trung Hoa và cái hồn đất Việt. Cha ông là Hà

Kiến Huân chạy loạn từ Quảng Đông, Trung Quốc sang Việt Nam mà “linh
hồn phát lộ ra trong từng bước đi, điệu đứng, sự trầm mặc”. Mẹ là cô lái đò
trên bến sông Ghép. Có lẽ chính sự kết hợp này đã tạo nên ở con người nhà
văn những phẩm chất, đức tính tốt đẹp và độc đáo. Đồng thời hiện lên trong
các sáng tác của nhà văn không chỉ có những con người Việt sống chân
chất hiền lành mà còn xuất hiện con người Hoa mang cái buồn sâu sắc của
thời đại. Đó là hình ảnh của người mẹ vất vả, cực khổ mà nặng tình thương
con, là hình ảnh người cha luôn gò mình trong đức tính kiên nhẫn và cần
5
kiệm... Chính điều này đã tạo lên một lối viết rất riêng, mang lại một hơi
thở mới cho các sáng tác của Hồ Dzếnh.
Hồ Dzếnh trưởng thành trong lúc Hán học đã suy tàn, tân học
đang được phát triển. Văn minh Phương Tây mới mẻ tràn vào Việt Nam
làm thay đổi cách sống, cách tư duy của người thanh niên trẻ. Trong các
sáng tác của Hồ Dzếnh nhờ đó mà vừa có chất truyền thống lại được đan
xen nhiều yếu tố mới mẻ. Ẩn hiện trong các tác phẩm của ông là không
gian của một miền quê xưa cũ, của những khung cảnh thanh bình yên ả,
“chim rừng quên cất cánh, gió say tình ngây ngây”. Song cái đề tài quen
thuộc ấy lại được nhà văn thể hiện qua những cách viết khá mới mẻ, bằng
thứ ngôn từ bóng bẩy, chau chuốt hơn rất nhiều. Nhà văn tiếp thu lối viết
mới, thể hiện tình cảm cá nhân một cách trực tiếp, xóa bỏ những khuôn sáo
khô cứng của văn học cũ. Chât truyền thống và chất hiện đại được kết hợp
hài hòa, tạo nên những trang viết giàu giá trị và mang tình hình tượng cao.
Sự nghiệp văn học của Hồ Dzếnh bao gồm cả văn xuôi và thơ
ca. Ở cả hai lĩnh vực này, người đọc đều dễ dàng nhận ra một tâm hồn giàu
cảm xúc, tràn ngập yêu thương với những con người nghèo khổ trong xã
hội.
Được viết trong hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh, đời sống
nhân dân khổ cực nhưng văn xuôi Hồ Dzếnh không mang cái nhìn sắc lạnh
và bi quan như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, cũng không mải miết chạy theo

những cuộc tình gió mưa như Nhất Linh, Khái Hưng. Những tác phẩm của
Hồ Dzếnh chủ yếu đề cập đến những con người nghèo khổ trong xã hội
bằng một giọng văn nhẹ nhàng, ấm áp hơi thở của tình người. Phong cách
văn xuôi của Hồ Dzếnh có phần giống với Thạch Lam, Thanh Tịnh. Nó
vừa mang tính hiện thực xã hội mà vẫn thấm đẫm tình người, mang tính
6
nhân đạo sâu sắc. Chất hiện thực và chất trữ tình được lồng ghép một cách
quyện hòa tạo nên dòng cảm xúc mênh mang, man mác buồn.
Sự nghiệp văn học mà nhà văn kịp để lại cho đời chỉ gồm hai
tập thơ, hai cuốn tiểu thuyết cùng với một tập truyện ngắn. Nhưng nó cũng
đủ để người đọc biết đến tên tuổi của Hồ Dzếnh như một nhà văn xuất sắc
của văn học Việt Nam giai đoạn tiền chiến.
- Tập truyện ngắn Chân trời cũ (1942)
- Tiểu thuyết Một truyện tình mươi năm năm về trước (1942)
- Tập thơ Quê ngoại (1943)
- Tiểu thuyết Cô gái Bình Xuyên (1946)
- Tập thơ Hoa xuân đất Việt (1946)
1.2. Tập truyện ngắn Chân trời cũ :
Chân trời cũ được xem là một trong những tác phẩm đầu tay,
đánh dấu tên tuổi của Hồ Dzếnh trên văn đàn Văn học Việt Nam. Tập
truyện bao gồm mười ba truyện ngắn, là một sự ngoái nhìn về tuổi thơ, về
những kỉ niệm ngày thơ ấu. Mỗi câu chuyện là bức chân dung một người
thân trong gia đình: bố, mẹ, anh, chị,... và những người hàng xóm nghèo
khổ. Tất cả đều được dựng lên bằng kỉ niệm, từ hiện tại ngoái nhìn lại quá
khứ, nhìn lại dĩ vãng. Tập truyện được xem như một tiếng chuông buồn bã,
thê lương, tiếng này chưa dứt thì tiếng khác đã hồi lên. Cả một vùng không
gian tâm tưởng ông tràn ngập tiếng ngân nga của hoài niệm, xót xa cho
những cuộc đời đã đi qua tuổi thơ ông. Nhà văn đặc biệt nhạy cảm với
những buồn đau của người phụ nữ nông thôn, hiện thân của những định
mệnh khắt khe, của duyên phận tăm tối và buồn rầu, những con người luôn

chịu thương, chịu khó mà đời chỉ là một chuỗi ngày đau khổ. Đó là những
câu chuyện buồn sẽ theo nhà văn suốt cả cuộc đời.
7
Có thể thấy Chân trời cũ là một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng
tác của Hồ Dzếnh đồng thời cũng in đậm dấu ấn trong dòng chảy của văn
học. Bên cạnh những tác phẩm đề cập đến tình yêu như Hồn bướm mơ tiên,
Lạnh lùng, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió hay cái lạnh lùng, tàn nhẫn của xã hội
như trong các sáng tác của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan thì
tập truyện này được xem như một thứ cỏ lạ trong văn học. Mặc dù không
trực tiếp cất lên tiếng nói đấu tranh, chống lại xã hội nhưng thông qua
những kiếp người nhọc nhằn trong xã hội, tác phẩm đã phơi bày được đầy
đủ những xấu xa mà người dân phải hứng chịu. Song Chân trời cũ lại mang
chút gì đó của trào lưu lãng mạn khi đan xen nhiều đoạn văn trữ tình sâu
lắng. Vừa mang tình lãng mạn lại ẩn chứa những triết lí về hiện thực, Chân
trời cũ được xem như một sự giao thoa giữa hai dòng văn học đang tồn tại
một cách độc lập lúc bấy giờ. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng tác
phẩm là một sự cách tân mới lạ trong nghệ thuật viết truyện của nhà văn
Hồ Dzếnh.
8
CHƯƠNG II. NGƯỜI TRẦN THUẬT VÀ ĐIỂM
NHÌN TRẦN THUẬT
2.1. Người trần thuật và điểm nhìn trần thuật theo lí thuyết tự sự học:
2.1.1. Người trần thuật (narrator):
Người trần thuật (narrator) là một phạm trù quan trọng của trần
thuật học, một thuật ngữ công cụ của tự sự học. Người trần thuật là người
kể lại, dẫn dắt và điều khiển mạch truyện. Theo Từ điển thuật ngữ văn học
thì người trần thuật là “một nhân vật hư cấu hoặc có thật mà văn bản tự sự
là do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành” [221, y]. Trước đây, khái
niệm người kể chuyện thường bị bỏ qua, người đọc chỉ chú ý vào nhân vật,
các sư kiện, biến cố, các biện pháp tu từ,... Cho đến những năm gần đây,

khi ngành nghiên cứu tự sự học, trần thuật học phát triển mạnh thì thuật
ngữ này mới thực sự được chú ý. Người ta không còn quá đề cao cách xây
dựng nhân vật, tạo ra các kịch tính, biến cố lớn mà quan tâm nhiều đến
cách kể chuyện của tác phẩm, cách nhìn nhận và đánh giá thế giới khách
quan của nhà văn. Người kể chuyện không còn là một yếu tố của truyện kể
mà nó tồn tại với tư cách như một phạm trù nghệ thuật có những đặc điểm
và quy luật phát triển riêng biệt.
Trước đây, nhiều người thường đồng nhất người kể chuyện và
tác giả. Tuy nhiên, đây là một quan niệm hết sức sai lầm. “Trong kể miệng,
người trần thuật là một người sống sinh động. Trong trần thuật viết phi văn
học, người trần thuật nói chung đồng nhất với tác giả. Nhưng trong tác
phẩm trần thuật mang tính chất văn học, thì người trần thuật lại khác, nó bị
trừu tượng hóa đi, trở thành một nhân vật ẩn hoặc hiện trong tác phẩm tự
sự” [223, y]. Về mặt bản chất, người kể chuyện chính là hình tượng do nhà
văn sáng tạo lên, mang nhiệm vụ trần thuật và chỉ im lặng khi nhân vật lên
9
tiếng. Người kể chuyện có thể mang tư tưởng của nhà văn, thể hiện cách
nhìn nhận, đánh giá của người nghệ sĩ về thế giới khách quan nhưng tuyệt
đối không bao giờ được đồng nhất hai khái niệm này. Trong một tự sự
thông thường, người kể chuyện mang năm chức năng cơ bản là chức năng
kể chuyện, trần thuật; chức năng truyền đạt, đóng vai một yếu tố của tổ
chức tự sự; chức năng chỉ dẫn; chức năng bình luận; chức năng nhân vật
hóa. Thực hiện năm chức năng này, người trần thuật đã thể hiện được ý đồ
tư tưởng nghệ thuật của nhà văn một cách thành công.
Có khá nhiều nhà lí luận tập trung vào việc nghiên cứu về phạm
trù người trần thuật trong tự sự như R. Scholes và R. Kellogy, Bathkhin,
W. Booth,.. Họ đưa ra nhiều quan điểm cũng như cách phân loại người kể
chuyện. Hai nhà nghiên cứu R. Scholes và R. Kellogy cho rằng phải đặt
người kể chuyện trong mối quan hệ với thế giới được kể, quan hệ với các
sự kiện và nhân vật được kể. Từ đó hai ông phân loại người kể chuyện ra

làm bốn kiểu là người kể chuyện truyền thống, sử quan, người kể chuyện
nhân chứng và người kể chuyện toàn tri. Qua cách phân loại này có thể
nhận thấy họ đã đặt người kể truyện trong tiến trình phát triển của lịch sử
văn học từ cổ đại đến hiện đại và đặc biệt chú ý đến cấp độ giao tiếp. Trong
khi đó, W. Booth lại nghiên cứu người kể chuyện trong giới hạn của tác
phẩm hư cấu. Trên cơ sở nghiên cứu về sự im lặng của tác giả, ông đã phân
tách thành hai kiểu người kể chuyện ẩn tàng và người kể chuyện tường
minh, đồng thời cho chúng ta những hiểu biết về từng kiểu người kể
chuyện.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của G. Genette được mọi
người chấp nhận và ủng hộ nhiều hơn cả. Genette nghiên cứu người trần
thuật trong mối tương quan với các yếu tố nội cấu trúc như tiêu cự (focus),
tiêu điểm (focalization), thức (mood), giọng điệu (voice) và tần suất. Từ đó,
ông nêu ra bốn kiểu kể chuyện tương ứng với bốn kiểu người kể chuyện
10
khác nhau. Nếu dựa vào việc xác định nơi truyện kể bắt đầu thì có hai kiểu
người kể chuyện là người kể chuyện bên trong (intradiegetic narrator) và
người kể chuyện bên ngoài (extradiegetic narrator). Còn dựa vào mức độ
liên quan vào cốt truyện thì có người kể chuyện đồng sự (homodiegetic
narrator) và người kể chuyện dị sự (heterodiegetic narrator). Đồng thời,
ông nhận thấy rằng người kể chuyện bên trong tương đối rõ ràng, là một
nhân vật trong truyện kể lại câu chuyện do anh ta trực tiếp tham gia hay
được chứng kiến. Còn kiểu người kể chuyện bên ngoài khá nhập nhằng,
phức tạp. Bởi vậy cần phải gắn người kể chuyện với các tiêu cự, tiêu điểm,
điểm nhìn và trả lời được các câu hỏi Ai kể? Đứng ở đâu để kể? Từ đó,
Genette đã phân biệt người kể chuyện thành ba kiểu cơ bản là người kể
chuyện toàn tri, người kể chuyện bên trong và người kể chuyện bên ngoài.
2.1.2. Điểm nhìn trần thuật (point of view):
Điểm nhìn (point of view) là một trong những vấn đề cơ bản,
then chốt của trần thuật. Điểm nhìn được hiểu là vị trí, chỗ đứng của người

kể chuyện để xem xét, bình luận, miêu tả các sự việc hiện tượng trong tác
phẩm. Nó được xem như một chiếc camera dẫn dắt người đọc vào thế giới
nghệ thuật mà nhà văn xây dựng lên. “Không thể có nghệ thuật nếu như
không có điểm nhìn vì nó thể hiện sự chú ý quan tâm và đặc điểm của chủ
thể trong việc tái tạo ra cái nhìn nghệ thuật” [113, y]. Đồng thời điểm nhìn
cũng chính là cơ sở để phân biệt người kể chuyện với tác giả. Người kể
chuyện có thể mang điểm nhìn của tác giả song tác giả lại không có vai trò
đáng kể trong việc sắp xếp, tổ chức truyện kể. Bởi vậy mà điểm nhìn và
người kể chuyện là hai phạm trù không thể tách rời. Truyện bao giờ cũng
được kể từ một điểm nhìn nhất định và bởi một người kể chuyện nào đó.
Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần thuật trong tác
phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa các
11
nhân vật với chủ thể trần thuật, hay, nói cách khác, điểm nhìn của người
trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả”.
Theo lí thuyết của tự sự học, có ba kiểu điểm nhìn gắn với ba
kiểu người kể chuyện. Đó là điểm nhìn từ đằng sau - Zero, điểm nhìn từ
bên trong và điểm nhìn từ bên ngoài.
Người kể chuyện toàn tri ứng với điểm nhìn zero, nhìn từ đằng
sau. Khi đó tiêu cự bằng không hay còn gọi là phi tiêu điểm (zero
focalization). Người kể chuyện mang sức mạnh toàn năng, thông suốt,
tường tận hết mọi chuyện không chỉ ở hiện tại mà còn có khả năng tái hiện
lại quá khứ và dự báo trước tương lai. Với vai trò như thượng đế, chúa trời,
người kể chuyện biết hết mọi chuyện nhân sinh, vũ trụ. Ngay cả đời sống
nội tâm phức tạp và thầm kín của con người cũng được anh ta thâu tóm và
kể lại một cách trung thực. Độ bao quát hiện thực của người kể chuyện bao
giờ cũng lớn hơn hết thảy mọi nhân vật. Con mắt của người trần thuật có
mặt ở mọi nơi, mọi lúc, xoáy sâu vào từng chi tiết nhỏ của đời sống để kể
lại cho độc giả. Nhờ vậy mà mọi hiện thực đều được phơi bày một cách rõ
nét. Điều này dường như đang trở thành một hạn chế lớn của kiểu người kể

chuyện toàn tri và điểm nhìn zero. Ngày nay, dạng người kể chuyện này
không được nhiều nhà văn sử dụng vì nó tạo ra tâm lí nhàm chán cho độc
giả. Con người hiện đại luôn được xem là một thực thể phức tạp và khó
hiểu. Bởi vậy, mọi câu chuyện được viết ra đều phải tạo cho người đọc
hứng thú khám phá, một thái độ biết hoài nghi, phủ nhận. Nhưng kiểu
người kể chuyện toàn tri với điểm nhìn zero lại không thể thực hiện được
điều đó khi mọi chỗ trống đều được lấp đầy, mọi hiện thực đều được phơi
bày khiến độc giả rơi vào cảm giác tẻ nhạt, thiếu hứng thú, nó tạo ra một
lớp độc giả lười biếng.
12
Người kể chuyện bên trong gắn với điểm nhìn bên trong, điểm
nhìn của nhân vật, nội tiêu điểm (internal focalization). Ở đây, nhà văn thôi
không nói nữa mà xây dựng lên kiểu nhân vật tự nhìn, nhân vật tự nói và tự
chiêm nghiệm, tự đánh giá. Bởi vậy nó mang tính chân thực và gần gũi
hơn. Tầm bao quát hiện thực, sự hiểu biết của người kể chuyện tương ứng
với của nhân vật trong truyện. Ở kiểu người kể chuyện bên trong này có thể
chia làm ba dạng nhỏ hơn, ứng với ba điểm nhìn bên trong của nhân vật.
Điểm nhìn bên trong cố định là một nhân vật cảm nhận, đánh
giá và kể lại các sự việc từ đầu đến cuối. Thông thường, ở dạng này, người
kể chuyện thường xưng hô theo ngôi thứ nhất để kể lại sự việc. Độc giả qua
đó cũng chỉ biết sự việc qua cái nhìn của một nhân vật – những sự việc mà
nhân vật tham gia hoặc được chứng kiến. Tuy nhiên, hạn chế của điểm nhìn
bên trong cố định này là lượng sự việc được nêu ra không nhiều, yêu cầu
tính tái hiện và tưởng tượng cao ở độc giả thì mới có thể nắm bắt được toàn
bộ câu chuyện. Bên cạnh đó, các sự kiện, biến cố được kể đều bị nhuốm
màu sắc chủ quan của nhân vật trong quá trình phát triển tính cách.
Điểm nhìn bên trong biến đổi là nhiều nhân vật kể lại nhiều
chuyện khác nhau trong cung một thời điểm. Nhờ đó, độc giả có thể nắm
bắt nhiều sự kiện hơn qua cách cảm nhận của nhiều nhân vật hơn.
Điểm nhìn bên trong đa bội là một câu chuyện được kể lại qua

cái nhìn của nhiều nhân vật. Sự thay đổi điểm nhìn giữa các nhân vật một
cách linh hoạt sẽ tạo nên tính chân thực và khách quan cho câu chuyện
được kể. Đồng thời độc giả sẽ có một cái nhìn tổng quan hơn về câu
chuyện, cái nhìn của nhân vật này sẽ có vai trò lấp đầy, bổ sung cho cái
nhìn của nhân vật khác, tạo nên tính chỉnh thể cho cốt truyện.
Người kể chuyện bên ngoài thường gắn với điểm nhìn bên
ngoài, ngoại tiêu điểm (external focalization). Trong những văn bản tự sự
13
sử dụng kiểu người kể chuyện này, độc giả dường như không hề cảm nhận
được sự tồn tại của kiểu người kể chuyện. Bởi vì khi đó người kể chuyện
giấu mình, đứng ngoài câu chuyện để miêu tả, trần thuật lại một cách khách
quan và chân thực. Đặc biệt, nội tâm của nhân vật không được đi sâu khám
phá mà chỉ chủ yếu là ghi lại lời nói và hành động của nhân vật. Vai trò của
người kể chuyện cho phép truyện kể được đọc như một cái gì đó đã biết
hơn là một cái gì đó tưởng tượng ra, một cái gì đó tường thuật hơn là một
cái gì đó hư cấu.
Trong các tác phẩm tự sự, chọn cách xuất phát từ điểm nhìn nào
để người kể chuyện kể lại chuyện cũng chính là dụng ý nghệ thuật của nhà
văn. Có những tác phẩm từ đầu đến cuối đều nhất mực tuân thủ theo một
kiểu người kể chuyện, một điểm nhìn duy nhất. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp, đó lại là sự phối ghép của nhiều điểm nhìn khác nhau mà người
ta gọi đó là lối kể chuyện phân mảnh. Ở lối kể chuyện này xuất hiện nhiều
kiểu người kể chuyện trong cùng một tự sự, kể lại sự việc bằng nhiều điểm
nhìn khác nhau. Có thể mở đầu, người kể chuyện giấu mình để kể, sau đó,
chức năng trần thuật có thể được chuyển cho một hay nhiều nhân vật trong
truyện, từ điểm nhìn chúa trời chuyển tiếp sang điểm nhìn bên trong,... Với
lối viết phân mảnh như vậy sẽ tạo lên cái nhìn đa diện, đa chiều cho tác
phẩm, và đặc biệt là nó không gây cảm giác nhàm chán cho độc giả mà
luôn luôn là sự hào hứng muốn khám phá tiếp câu chuyện.
2.2. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong tập Chân trời cũ :

2.2.1. Người kể chuyện bên trong với cái nhìn chủ quan:
Chân trời cũ được xem như một dòng tự truyện của Hồ Dzếnh.
Hiện lên qua mười ba truyện ngắn của ông là những cảm xúc mơn man,
nhẹ nhàng mà sâu lắng, tinh tế về những kỉ niệm ngày thơ ấu, về gia đình
và những người thân yêu. Mặc dù các chi tiết, sự kiện trong truyện đã được
14

×