Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Vai trò của phụ nữ mường ở quý hòa, lạc sơn, hòa bình với việc sản xuất và sử dụng y phục truyền thống (full)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 76 trang )

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
KHOA VĂN HOÁ DÂN TỘC THIỂU SỐ





KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN VĂN HOÁ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HOÁ DÂN TỘC THIỂU SỐ

VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ MƯỜNG Ở QUÝ HÒA,
LẠC SƠN, HÒA BÌNH VỚI NGHỀ LÀM Y PHỤC
TRUYỀN THỐNG



Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS TRẦN BÌNH
Sinh viên thực hiện
: BÙI THỊ THANH THỦY
Lớp : VHDT


HÀ NỘI - 2015

2

LỜI CẢM ƠN


Đề tài “Vai trò của phụ nữ Mường ở Quý Hòa, Lạc Sơn, Hòa
Bình với việc xản xuất và sử dụng y phục truyền thống” được hoàn
thành với sự giúp đỡ tận tình, của PGS.Ts Trần Bình, chính quyền xã
Quý Hòa, chú Bùi Văn Dát – Chủ tịch UBND xã Quý Hòa; Bác Bùi
Văn Chiến – Phó chủ tịch UBND xã Quý Hòa; Cô Bùi Thị Bư – Chủ
tịch hội phụ nữ xã Quý Hòa; Chị Bùi Thị Nhương – Phó chủ tịch hội
phụ nữ xã Qúy Hòa; chị
Bùi Thị Diễm – Chi hội trưởng chi hội phụ
nữ xóm Cáo, xã Qúy Hòa cùng toàn thể các Phòng, Ban thuộc UBND
xã Qúy Hòa, gia đình chú Bùi Văn Thương xóm Khả 1, các cán bộ
Thư viện Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, cô Bùi Thị Thủy – Phó
phòng Văn hóa Huyện Lạc Sơn( Hòa Bình), nhân dân xã Quý Hòa
(Lạc sơn, Hòa Bình),… Nhân đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến tất cả!
Do khả năng có hạn, chăc chắn khóa luận sẽ không thể tránh
khỏi những hạ
n chế, thiếu sót, em mong nhận được những ý kiến đóng
góp quý báu từ Thầy cô và những người quan tâm tới Khóa luận.
Em xin trân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015.
Bùi Thị Thanh Thủy

3


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 2
MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG 1. 10
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI MƯỜNG 10

Ở QUÝ HÒA, LẠC SƠN, HÒA BÌNH 10
1.1. Đặc điểm địa bàn cư trú. 10
1.2. Nguồn gốc, tên gọi tộc người 11
1.3. Đặc đ
iểm mưu sinh, xã hội truyền thống 12
1.4. Đặc điểm văn hóa 14
1.4.1. Văn hóa vật chất 14
1.4.2. Văn hóa tinh thần 23
CHƯƠNG 2. 33
PHỤ NỮ MƯỜNG Ở QUÝ HÒA VỚI SẢN XUẤT 33
VÀ SỬ DỤNG Y PHỤC TRONG XÃ HỘI TRUYỀN THỐNG 33
2.1. Phụ
nữ với việc làm sợi, nhuộm và dệt. 34
2.1.1. Làm sợi 34
2.1.3. Kỹ thuật dệt vải 39
2.1.4. Kỹ thuật dệt cạp váy 40
2.1.5. Lựa chọn hoa văn dệt. 40
2.2. Vai trò của phụ nữ trong nhuộm sợi, vải. 42
2.3. Cắt may và thiết kế
kiểu dáng y phục 43
4

2.4. Vai trò của phụ nữ Mường trong trang trí y phục 44
2.4.1. Các thao tác trang trí 44
CHƯƠNG 3. 47
PHỤ NỮ MƯỜNG Ở QUÝ HÒA VỚI BẢO TỒN 47
Y PHỤC DÂN TỘC HIỆN NAY 47
3.1. Thực trạng y phục dân tộc Mường ở Quý Hòa hiện nay 47
3.1.1. Đặc điểm chung 47
Nghệ nhân làm y phục truyền th

ống 48
Kỹ thuật sản xuất y phục 48
Vai trò của phụ nữ Mường trong sử dụng y phục Mường hiện nay 51
3.2. Vai trò của phụ nữ trong truyền dạy nghề làm y phục truyền
thống. 54
3.2.1. Phụ nữ với việc truyền dạy. 54
3.2.2. Phụ nữ với việc ti
ếp nhận nghề làm y phục truyền thống. 55
3.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của phụ nữ trong cắt may và
sử dụng y phục truyền thống hiện nay 57
Yếu tố văn hóa 57
Chính sách của Đảng, Nhà nước 58
Nhu cầu của phát triển du lịch 59
3.4. Vấn đề đặt ra và một số
giải pháp khắc phục 59
3.4.1. Vấn đề đặt ra 59
3.4.2. Một số giải pháp khắc phục 60
3.5. Câu chuyện văn hóa 61
KẾT LUẬN 66
5

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
PHỤ LỤC ẢNH 70

6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự biến đổi văn hóa luôn là vấn đề nóng và được nhiều nhà nghiên cứu
cũng như giới truyền thông quan tâm sâu sắc bởi biến đổi văn hóa không chỉ

ảnh hưởng đến cả một nền văn hóa đất nước mà còn tác động tới cả một nền
kinh tế hiện đại, đặc biệt là kinh tế du lịch. Quan trọng hơn, nó còn có một s

ảnh hưởng không nhỏ tới cả một hệ thống con người về mặt nhân cách, ứng
xử…
Trong đó, y phục dân tộc Mường là một thành tố văn hóa vật thể quan
trọng nhất. Không chỉ có chức năng bảo vệ, che đậy cơ thể con người về thể
chất mà y phục còn phản ánh một nền văn hóa, nếp sống tộc người, quan
điểm thẩ
m mĩ của tộc người và trình độ phát triển thủ công nghiệp của tộc
người đó. Thông qua y phục chúng ta còn có thể đoán biết được môi trường
sinh sống của họ ở đồng bằng hay miền núi, thậm chí có thể đoán biết được
họ sinh sống xen kẽ với những tộc người nào rồi nhận diện được tộc người
này với tộc người khác. Chính vì vậy, y phục hay trang ph
ục là một trong
những đối tượng nghiên cứu phổ biến của nhân học văn hóa.
Bên cạnh đó, y phục Mường hiện nay ở xã Quý Hòa mặc dù vẫn còn
khá phổ biến nhưng đã thay đổi nhiều về hình thức, cách thức sử dụng và tác
động lớn nhất đến sự thay đổi này là sự biến đổi về vai trò của phụ nữ
Mường đối với việc làm và sử dụ
ng y phục.
Chính vì những lí do trên chúng tôi lựa chọn: Vai trò của phụ nữ
Mường ở Quý Hòa, Lạc Sơn, Hòa Bình với nghề làm y phục truyền thống
làm đề tài Khóa luận Tốt nghiệp cử nhân ngành Văn hóa Dân tộc Thiểu số.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích: Khẳng định vai trò của phụ nữ Mường ở Quý Hòa đối với
bải tồn v
ăn hóa Mường truyền thống
Nhiệm vụ:
7


Khái quát về người Mường ở Quý Hòa, văn hóa Mường ở Quý Hòa.
Tìm hiểu các đặc điểm y phục Mường truyền thống, và thay đổi của
nó hiện nay.
Tìm hiểu vai trò của phụ nữ Mường ở Quý Hòa đối với việc sáng tạo
và sử dụng y phục truyền thồng.
Tìm kiếm một số giải pháp bước đầu, với mong muốn góp phần bảo
tồn y phục truyền thống M
ường ở xã Quý Hòa.
3. Lịch sử nghiên cứu
Trang phục của người Mường đã được rất nhiều nhà nghiên cứu nổi
tiếng đề cập đến trong các công trình của mình như Người Mường – Địa lí
nhân văn và xã hội của Jean Cusinier (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa
tộc người của Nguyễn Từ Chi (1995), Người Mường ở Hòa Bình của Trần
Từ (1996), Người Mường ở Việt Nam của Vũ
Tuyết Mai và Bùi Đức Tân
(1999), Tang lễ của người Mường ở Hòa Bình của Nguyễn Thị Song Hà
(2009)…Tuy nhiên những tác phẩm này mới chỉ đề cập đến các khía cạnh
khác nhau của trang phục Mường mà chưa nêu được rõ nhất vai trò của phụ
nữ trong làm trang phục cũng như sử dụng và bảo tồn trang phục truyền
thống của dân tộc.
Bên cạnh đó, tôi còn muốn thể hiên rõ hơn sự biến đổi vai trò c
ủa phụ
nữ làm ảnh hưởng đến việc bảo tồn trang phục dân tộc như thế nào để từ đó
có phương pháp giải quyết hoặc hạn chế sự mai một văn hóa trang phục
Mường ở xã Quý Hòa.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : Vai trò của phụ nữ Mường trong việc làm y
phục truyền thống. Trong đó, trọng tâm nghiên cứu là y phục phụ
nữ.

Phạm vi thời gian: Truyền thống từ năm 1990 trở về trước và hiện tại
là đầu năm 2015.
8

Phạm vi không gian : Xã Quý Hòa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Trong đó tập chung nghiên cứu chủ yếu ở Xóm Khả 1, Xóm Cốc, Xóm Cáo
và xóm Thung 1, Thung 2 là những thôn điển hình về dệt thổ cẩm và có
nhiều nghệ nhân giỏi dệt may trang phục truyền thống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình hoàn thành khóa luận, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ được tuyệt đối tuân thủ.
Đó là sự nhìn nhận y ph
ục Mường ở Quý Hào và vai trò của phụ nữ Mường
ở đây đối với việc sản xuất và sử dụng y phục truyền thống, trong sự tương
tác tất yếu của của các yếu tố: tộc người (phong tục tập quán); đặc điểm môi
trường cư trú, giao tiếp văn hóa; cũng như các chương trình kinh tế - xã
hội khác, muốn bảo tồn y phục truyền thống M
ường ở Quý Hòa buộc phải
thỏa mãn các mối quan hệ trên.
- Nghiên cứu thực địa là phương pháp tiếp cận chủ đạo của bài khóa
luận này. Các kỹ thuật chủ yếu bao gồm: Tham dự, quan sát, phỏng vấn, hỏi
chuyện, ghi chép,… được sử dụng trong quá trình điều tra, nghiên cứu thu
thập tư liệu ở các xóm Mường Quý Hòa. Để thu thập tư liệu, tác giả đã
nghiên cứu thực địa ở
Quý Hòa nhiều đợt. Trong thời gian trên, tôi gặp gỡ
các vị lãnh đạo, cán bộ các ban ngành, các cụ bà người cao tuổi, các cán bộ
chi hội phụ nữ, các thợ dệt may giỏi và phụ nữ ở Quý Hòa, cũng như huyện
Lạc Sơn,… Kết quả thu được từ các đợt nghiên cứu thực địa là nguồn tư liệu
chính, để xem xét nghiên cứu, thực hiện khóa luận này.
- Để bổ sung tư liệu, nghiên cứu tài liệ

u thứ cấp, trong các tài liệu đã
công bố, cũng được chú trọng thực hiện. Đó là những công trình nghiên cứu
về trang phục, y phục, tổ chức xã hội, ma chay, cưới xin, tín ngưỡng, thờ
cúng, cách thức tổ chức sản xuất, tổ chức cộng đồng, của người Mường và
Quý Hòa nói riêng và ở Lạc Sơn nói chung; Những tài liệu liên quan đến
9

tình hình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động của các chi hội phụ nữ ở địa
phương;
- Để xử lý, phân tích các dữ liệu, phương pháp thống kê, so sánh,
đã được sử dụng trong quá trình thực hiện trong báo cáo này.
6. Đóng góp của Khóa luận
Khóa luận sẽ góp phần bổ sung tài liệu về trang phục Mường truyền
thống, và vai trò của phụ nữ Mường trong dệt may trang phục truyền thống,
ở Quý Hòa nói riêng và cuả ng
ười Mường ở Hòa Bình nói chung.
Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích đối với các cơ
quan, cá nhân đang thực hiện công tác bảo tồn trang phục, văn hóa truyền
thống Mường ở Quý Hóa, Lạc Sơn và ở Hòa Bình.
7. Nội dung và bố cục của Khóa luận
Ngoài phần Mở Đầu, Kết Luận và Phụ lục ảnh. Khóa luận được trình
bày trong 3 chương chính:
Chương 1:
Khái quát về người Mường ở Quý Hòa.
Chương 2: Phụ nữ Mường ở Quý Hòa với việc sản xuất và sử dụng y
phục trong xã hội truyền thống.
Chương 3: Phụ nữ Mường ở Quý Hòa với sản xuất và sử dụng y phục
dân tộc hiện nay ở Quý Hòa










10



CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI MƯỜNG
Ở QUÝ HÒA, LẠC SƠN, HÒA BÌNH

1.1. Đặc điểm địa bàn cư trú.
Xã Quý Hòa được thành lập vào năm 1956, là xã đặc biệt khó khăn
(xã 135 giai đoạn II theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ). Xã Quý
Hòa nằm ở phía Bắc của huyện Lạc Sơn, là xã vùng cao của Huyện, cách
trung tâm huyện 20 km.
 Về vị trí địa lý
Phía Đông củ
a xã tiếp giáp với xã Cuối Hạ của huyện Kim Bôi, xã
Mỹ Thành, xã Văn Nghĩa của huyện Lạc Sơn;
Phía Tây tiếp giáp xã Thượng Tiến của huyện Kim Bôi, và xã Miền
Đồi của huyện Lạc Sơn;
Phía Bắc giáp xã Kim Tiến của huyện Kim Bôi;
Phía Nam giáp xã Tuân Đạo huyện Lạc Sơn.
 Khí hậu
Xã Quý Hòa cũng như các xã khác trong toàn huyện nằm ở đới khí

hậu nhiệt đới gió mùa, chính vì vậy có phân thành mùa mưa và mùa khô rõ
rệ
t. Mùa mưa lượng mưa trung bình hàng năm là 1.900 mm, nhiệt độ bình
quân tháng từ 23 - 25
0
c, ngày nóng lên đến 36-40
0
c, mùa đông ngày rét
xuống đến dưới 10
0
c. Độ ẩm không khí trung bình 84%, cao nhất 100%,
thấp nhất 24%. Chế độ gió, hướng gió thịnh hành theo hai hướng Đông Nam
và Đông Bắc. Số giờ nắng trung bình mùa hè 6-7giờ/ngày, mùa đông 3-
4giờ/ngày.
 Về thổ nhưỡng
11

Quý Hòa có nhiều loại đất, phù hợp với nhiều loại cây trồng, trong đó chủ
yếu là đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét, loại đất này phân bố chủ
yếu ở vùng đồi, phù hợp với cây ăn quả, cây công nghiệp, trồng rừng và đất
trồng lúa, bao gồm đất đồng ruộng, đất ven suối, đất thung lũng, đất đồi núi.
 Tài nguyên nước
Xã Quý Hòa hiện nay sử d
ụng nguồn nước chính từ hồ trữ nước ( Hồ
Khả ) thuộc địa phận của xã, hồ trữ nước này có diện tích rất lớn khoảng 30
nghìn mét vuông, điểm sâu nhất tới gần 20m. Nguồn nước này chịu trách
nhiệm cho toàn bộ dân số trong khu vực xã sinh hoạt và sử dụng làm nguồn
tới tiêu cho các loại cây lương thực, hoa màu hay chăn nuôi.
Ngoài ra do địa hình chia cắt, gồ ghề nên xã Quý Hoà còn có hệ thống
suố

i nhỏ cũng góp phần vào nguồn cung cấp nước sinh hoạt, nước tưới cho
phát triển nông nghiệp.
 Hạ tầng giao thông
Nhìn chung giao thông trên địa bàn xã Quý Hòa đã được quy hoạch
cụ thể và thuận tiện, đã có đường đổ bê tông từ trung tâm xã đến các thôn,
làng. Tuy nhiên, còn rất nhiều các con đường liên thôn hoặc đường nằm trên
các thôn vùng cao hơn gần như còn rất khó khăn, nhiều đá mấp mô lởm
chởm, đường lại dốc và tr
ơn trượt vào ngày mưa nên gây nhiều nguy hiểm
cho người qua lại, cũng gây khó khăn trong việc giao lưu, trao đổi buôn bán.
Đặc biệt đoạn đường dẫn lên thôn Thung 1 và Thung 2 dài 8km, hay
thôn Rọi 1, Rọi 2 và Xóm Thêu là đoạn đường có độ dốc lớn, nhiều đá, vô
cùng khó khăn khi di chuyển. Có lẽ cũng vì sự khó khăn về mặt giao thông
mà văn hóa Mường ở các thôn Thung 1 và Thung 2 còn rất đậm nét, nơi đây
giống như một thế gi
ới Mường cổ xưa độc lập vậy.
1.2. Nguồn gốc, tên gọi tộc người
Tài liệu về ngôn ngữ học, nhân chủng học, dân tộc học, khảo cổ
học… chứng minh rằng người Mường ở Việt Nam có nguồn gốc là người
12

Việt cổ, hay nói cách khác người Mường và người Việt hiện nay có cùng
nguồn gốc.
Các nhà ngôn ngữ học xếp người Mường vào nhóm các dân tộc có
tiếng nói thuộc ngôn ngữ Việt – Mường (Việt, Mường, Thổ và Chứt). Tộc
danh Mường nay đã được sử dụng phổ biến và rộng rãi. Tuy vậy, một số
nhóm địa phương còn có tên tự gọi là: Mon, Moi và Ao Tá. Cùng với người
Việt (Kinh), cộng đồng ng
ười Mường thuộc khối cư dân Lạc - Việt cổ, có
mặt sớm nhất ở Việt Nam. Trong quá trình phát triển, do những điều kiện

lịch sử nhất định, vào khoảng thế kỷ IX- X, cộng đồng Việt - Mường cổ đã
tách ra thành hai tộc người riêng biệt như ngày nay. Trong khi tộc người
Việt cư trú tập trung ở đồng bằng châu thổ và vùng duyên hải ven biển, thì
cộng đồng ng
ười Mường cư trú tập trung ở vùng núi Hòa Bình, Thanh Hóa,
Phú Thọ và một số khu vực miền núi, trung du khác.
Người Mường tự nhận là Mol, Mual, Mon, Muan, Mó…có nghĩa là
“người”. Ngày nay, Mường là tên gọi chính thức được Nhà nước công nhận,
và sử dụng trong các văn bản hành chính. Hiện nay, Hòa Bình với bốn
mường cổ: Bi, Vang, Thành, Động, vẫn được coi là cái nôi gìn giữ văn hóa
truyền thống của dân tộc Mường.
1.3. Đặc điể
m mưu sinh, xã hội truyền thống
Xã Quý Hoà có 1.300 hộ với 6.015 nhân khẩu. Trong đó, người
Mường chiếm 99,8%. Toàn xã có 17 xóm, được phân chia thành hai vùng
khác nhau, có 8 xóm ở vùng cao và 9 xóm ở vùng thấp hơn. Cao nhất là hai
xóm Đồi Thung 1 và Đồi Thung 2, có độ cao 1.070m so với mực nước biển,
cách trung tâm xã 9km về phía Bắc.
 Đặc điểm mưu sinh
Trong hoạt động kinh tế, từ bao đời nay người Mường sống dựa chủ
yếu vào sản xuất nông nghiệp, khai thác ruộng nươ
ng để trồng trọt và chăn
nuôi. Sống ở khu vực miền núi, họ đã biết khai thác tự nhiên để có đất canh
13

tác, tận dụng những khu đất có bề mặt tương đối bằng phẳng trong thung
lũng và ở khắp mọi nơi để làm ruộng. Với kinh nghiệm làm thủy lợi được
tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác, dựa vào những nguồn nước ven sông
và suối, họ đã thiết lập hệ thống mương, phai, xe nước, ống dẫn nước tự tạo
chạy ngang dọc trên các cánh

đồng, nhằm đưa nước đến các chân ruộng cao,
phục vụ cho việc trồng lúa nước.
Hiện nay người Mường ở Quý Hòa trồng lúa là loại cây nông nghiệp
chính, bên cạnh đó thì ngô và sắn là hai loại cây trồng chiếm vị trí thứ hai
trong đời sống kinh tế người Mường. Ngoài ra thì còn có các loại cây trồng
như Vừng, lạc, đậu, dưa chuột và các loại cây rau ăn thường ngày…Có hai
loại cây ăn quả rất phổ biế
n trong mỗi gia đình người Mường đó là Cau và
Bưởi, có thể có thêm Na, Mít… nhưng số lượng ít, chỉ nhằm phục vụ nhu
cầu của gia đình. Ở một số khu vực như thôn Thung một, Thung hai … các
hộ dân còn trồng và buôn bán măng đắng, măng bương – loại hình kinh tế
này dần dần trở thành nguồn thu nhập lớn nhất trong các nghề của họ.
Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi cũng là một nguồ
n thu nhập đáng kể.
Ngoài các con vật nuôi truyền thống như trâu, bò, gà, lợn thì ngày nay nhiều
hộ gia đình người Mường đã nuôi dê, bò lai, bò sữa, ong… Họ biết tận dụng
cây cỏ tự nhiên để kết hợp cả hình thức nuôi thả rông lẫn nuôi nhốt trong
chuồng trại.
Ngoài sản xuất nông nghiệp, người Mường hiện nay còn có hàng loạt
các nghề khác cũng chiếm một vị trí kinh tế nhất định trong mỗi gia
đình.
Đó là các nghề thủ công như dệt thổ cẩm, đan lát, bốc thuốc Nam, hay buôn
bán các loại hàng hóa như bánh kẹo, các đồ dùng sinh hoạt.
 Đặc điểm xã hội
Người Mường từ xưa sinh sống trong một lãnh địa riêng, ranh giới
mang tính ước lệ được đánh dấu bằng các gốc cây, tảng đá, con sông, con
suối… ranh giới ấy không chỉ để phân chia giữa khu vực sinh sống của
14

người Mường với các dân tộc khác mà còn phân chia giữa các Bản Mường

với nhau.
Về tổ chức xã hội người Mường truyền thống ở Quý Hòa nói riêng,
cũng như nhiều nơi ở Hòa Bình nói chung, thiết chế xã hội tự quản, có
nguồn gốc sinh sống từ lâu đời theo chế độ Hương quản, tương đương với
chức vụ trưởng thôn như trong làng, bản bây giờ, thực hiện việ
c quán xuyến,
quản lý mọi việc trong thôn về kinh tế, trật tự xã hội, văn hóa… chính chế
độ Hương quản ấy là “chất keo dính” ràng buộc tất cả các gia đình, các cá
nhân từng người có những mối quan hệ nhất định với nhau, tạo nên sự cố kết
cộng đồng vô cùng chặt chẽ nếu không muốn nói rằng đôi khi trở nên bảo
thủ.
Nhân tố để tạo nên “chất keo dính” cộ
ng đồng ấy không chỉ có chế độ
Hương quản là được, bởi còn một yếu tố quan trọng không kém là mối quan
hệ huyết thống gia đình, dòng họ. Người Mường theo chế độ phụ hệ, mỗi
gia đình, dòng họ đều có một người đàn ông lớn tuổi, có vai vế nhất đứng
đầu và quyết định mọi vấn đề quan trọng của gia tộc. Mỗi gia tộc cũ
ng đều
có những gia quy riêng mà mọi thành viên đều phải tuân thủ nghiêm ngặt.
Chính vì thế, trong các làng bản, các thôn xóm của người Mường luôn luôn
có sự kết nối vô cùng chặt chẽ giữa lớp này chồng lên lớp khác, tỉ lệ cơ bản
cho sự kết nối chung này vào khoảng 3 trong 1. Sự kết nối thứ ba ở đây là
dựa trên quan hệ hợp tác trong các tổ chức hoạt động về phát triển kinh tế,
xóa đói giảm nghèo, các Chi h
ội phụ nữ trong các thôn, Hội phụ nữ Xã Quý
Hòa…hiện nay.
Hiện nay ranh giới, địa phận các thôn, làng, xã đều được phân chia
theo địa giới hành chính, lấy số lượng dân số và diện tích đất đai làm căn cứ
phân chia.
1.4. Đặc điểm văn hóa

1.4.1. Văn hóa vật chất
15

 Nhà ở
Cách nay nhiều năm về trước, người Mường ở Quý Hòa đều ở nhà
sàn. Nhà của họ đều được làm bằng gỗ, tre, nứa, lợp bằng cỏ tranh hay lá cọ.
Ngôi nhà cổ xưa thường chôn cột xuống đất, nay chân cột đều kê tảng. Thiết
kế theo kiểu vì kèo, liên kết chủ yếu là buộc, gá hoặc dùng ngoẵm; có một
hoặc ba gian chính, hai chái, hai mái chính hình thang cân và phẳng, hai mái
đầu hồi nhỏ và thấp. Nh
ững ngôi nhà cổ của họ thường nhỏ và thấp, vách
làm bằng phên nứa, mái chảy xuống gần hết cửa sổ. Cửa sổ thường được
thiết kế ở đầu hồi và vách phía sau. Đối với người Mường ở Quý Hòa, cửa
sổ ở gian thờ tổ tiên (voóng tông) rất linh thiêng, thường ngày họ kiêng đưa
đồ vật và ngồi dựa vào cửa sổ này. Tại hai đầu hồi người ta
đặt hai cầu thang
lên, xuống, có số bậc lẻ, bằng gỗ hoặc tre. Cầu thang phía gian ngoài (voóng
tôông) dành cho nam giới, cầu thang phía gian trong (voóng khựa) dành cho
nữ giới. Cách bố trí nơi ăn ở trong nhà của họ tương đối thống nhất. Nửa sàn
phía trên (giáp voóng tôông) thường dùng để làm nơi ngủ, nghỉ, nửa phía
dưới đặt bếp, là nơi sinh hoạt của gia đình. Nếu tính theo chiều ngang sàn
nhà, phần bên ngoài (voóng tôông) dành cho nam giới, phầ
n bên trong
(voóng khựa) là khu vực của phụ nữ. Bên ngoài, liền với phần dành cho phụ
nữ là sàn phơi và để nước ăn.
Xưa kia gầm sàn nhà người Mường ở Quý Hòa thường được dàng
phần lớn làm nơi nhốt trâu, bò, lợn và các loại gia cầm khác. Phần còn lại là
nơi đặt các loại cối giã, để nông cụ, và các đồ dùng khác. Xung quanh khuôn
viên cư trú của họ thường bao bọc bằng hàng rào tre, nứa hoặc các loại cây
gai (dứa, xương rồng, găng, ), có cổng ra vào. Trong khuôn viên cư trú của

người Mường ở Quý Hòa, ngoài nhà ở thường là vườn trồng các loại cây ăn
quả lưu niên, chè, mía, và các loại rau, đậu khác.
Ngày nay, làng xóm và nhà ở của người Mường ở Quý Hòa đã thay
đổi rất nhiều. Đa số các gia đình người Mường ở Quý Hòa ở gần đường
16

giao thông chính, các thị trấn, thị xã, đều đã ở trong các ngôi nhà xây lợp
ngói, hoặc mái bê tông. Tổ hợp kiến trúc nhà ở của họ có nhiều thay đổi.
Nhà ở, nhà bếp và chuồng trại gia súc dược thiết kế, xây dựng thành khu
riêng biệt. Khuôn viên cư trú đều được thu hẹp lại, đa số được xây hàng rào
bao quanh. Cổng ra vào được xây dựng chắc chắn, có cánh để khóa. Làng
xóm của họ cũng được bố trí, quy hoạch lại theo kiểu nông thôn mớ
i, đường
đi trong làng, xóm phần lớn đã dược làm bằng bê tông, lát đá hoặc gạch.
Tôi cảm thấy vui mừng khi nhìn thấy có tới hơn 70% số ngôi nhà ở
xã mang tổng thể vẫn là dạng nhà sàn truyền thống. Trong đó một số chi tiết
có thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn để thích nghi với sự biến đổi của
môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội như dùng sơn để làm
đẹp
hơn cho ngôi nhà; nhiều gia đình thường tận dụng luôn không gian gầm sàn
để dựng thêm phòng bếp, phòng ngủ; hay một số gia đình đã chuyển đổi từ
dạng thức nhà sàn gỗ sang nhà sàn bê tông cốt thép bởi phải phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế và các chính sách hạn chế khai thác rừng hiện nay.
 Y phục, trang sức
Y phục và trang sức của người Mường ở Quý Hòa cũng có nhiều nét
độc đáo. Nữ
phục thường bảo lưu được nhiều nét truyền thống của dân tộc
hơn y phục nam giới. Một bộ y phục cổ truyền của phụ nữ Mường thường
bao gồm: khăn đội đầu (mu), áo cánh (ạo pắn), áo dài (ạo chụng), khăn thắt
áo (đẹt ạo), yếm (yệm/áo báng), váy (kloốc), thắt lưng (tênh). Vào những

ngày hội, ngày lễ
, ngày tết phụ nữ Mường mặc áo chùng (ạo chụng). Ngày
cưới cô dâu Mường thường mặc áo chùng màu xanh, phù dâu mặc áo dài
màu trắng. Tất cả đều đội khăn trắng, đeo xà tích, vòng và nhẫn bằng bạc.
Bộ tang phục (đồ tem) của phụ nữ Mường bao gồm: mũ mấn (như
chiếc phễu úp), áo cánh ngắn (ạo pắn) màu trắng, váy không cạp, thắt lưng
trắng bằng v
ải mộc. Tất cả đều may theo kiểu lộn trái, sổ gấu. Tang phục
của các nàng dâu trong đám tang bố mẹ chồng thường là váy đen mới, bên
17

trong là áo pắn, áo báng, ngoài vận thêm áo gấm màu đỏ, có đính nhiều hạt
cườm (tem quạt ma), cài khuy nách phải. Người Mường ở Quý Hòa có câu
ví: Diện như nàng dâu đi quạt (quạt ma là nghi thức trong tám tang do các
nàng dâu thực hiện). Bố mẹ đẻ còn sống, nàng dâu mang tang phục như trên,
trừ áo pắn màu trắng; nếu bố mẹ đẻ đã qua đời thì mặc đồ tem như bình
thường.
Xét về
nhiều mặt, cũng như đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu văn
hóa thì chiếc váy của phụ nữ Mường thực sự đóng vai trò trung tâm của hệ
thống trang phục dân tộc. Nó phủ không chỉ từ thắt lung trở xuống mà còn
che cả phần ngực. Hơn thế nữa trên phần cạp váy che ngực là nơi duy nhất
phụ nữ Mường dụng công trang trí, là một mảng quan trọng còn lại của ngh

thuật tạo hình cổ truyền dân tộc.
Y phục truyền thống của nam giới người Mường ở Quý Hòa chủ yếu
gồm áo cánh và quần, gần giống y phục truyền thống của nam giới người
Việt. Áo cánh nam giới Mường may bằng vải mộc trắng, theo kiểu áo bà ba,
bốn thân, hai thân sau ghép lại với nhau thành sống ở giữa lưng, cổ đứng
tròn cao khoảng 1,5cm, thân dài trùm mông, hai vai có miếng vải đệm hình

bán nguy
ệt (lá môn). Phía dưới hai thân trước có túi, ở ngực phía thân trái
may một túi, tay áo dài. Quần truyền thống của nam giới Mường may bằng
vải mộc trắng, hoặc nhuộm nâu, chàm. Đũng và ống quần rộng, không may
cạp, khi mặc người ta thắt dây lưng (tênh) bên ngoài. Gần đây, loại quần này
được may cạp to và luồn dây rút để thắt cho chặt khi vận. Cổ xưa, nam giới
người Mường ở Quý Hòa thường để tóc dài, búi tó và quấ
n khăn ba trồng
trên đầu. Cũng có người quấn khăn kiểu búi tó củ hành (đầu rìu) như người
Việt xưa kia. Tang phục của nam giới Mường gồm quần, áo chùng, khăn vải
mộc trắng, lộn sống và sổ gấu. Con trai cả của người quá cố khi chịu tang bố
mẹ phải đeo thêm một con dao.
18

Trong truyền thống, phụ nữ cũng như đàn ông Mường ở Quý Hòa
không đi giầy, dép mà đi chân đất. Bởi vốn họ cũng không thể tự tạo ra được
giày dép cho mình, vậy nên họ luôn có nước ở trên sân sàn sau nhà để làm
sạch chân trước khi bước vào không gian trong nhà.
Đối với trẻ em, người Mường cho rằng trẻ sơ sinh sẽ ốm đau nếu như
chúng được mặc quần áo, vì vậy người ta sẽ không m
ặc quần áo cho nó cho
tới sáu, bảy tuổi. Quá tuổi đó, và cho tới lúc lớn lên, người ta mặc cho trẻ
con là gái một chiếc váy theo tầm vóc của nó, giống hệt chiếc váy của những
người đàn bà và một chiếc áo ngắn cho trẻ con trai.
Trong các gia đình giàu có, người ta bắt đầu cho trẻ sơ sinh ăn mặc
chút ít, và người ta mua cho nó đồ tã lót, không bao giờ tìm chọn những thứ
che phần dưới thân thể đứa bé.
Ở nhà nghèo hơ
n, người ta không nghĩ đến việc sẽ bỏ tiền ra may quần áo
cho đứa trẻ mà sẽ dùng tiền đó để mua cho nó một cái vòng bạc hoặc vòng đồng.

Đối với trẻ con là nam, khi chúng mặc chiếc quần đầu tiên, thông
thường có nghĩa là từ bỏ không đeo vòng cổ nữa.
 Trang phục ngày cưới
Trang phục trong ngày cưới của cô dâu là một bộ trang phục mới và
đẹp nhất, do chính tay cô dâu làm ra. Trên đầu cô dâu chùm một chiếc khăn
vuông trắng khổ 30 x 30 cm, được buộc thắt nút sau gáy. Váy mặc dài chấm
mắt cá chân, thắt lưng lụa màu xanh lá cây. Cạp váy ( tlôốk wặl; Cại wặl )
được dệt công phu hình rồng, hoa sen, nổi bật những màu sắc tươi sáng.
Trang phục của chú rể Mường thường là áo chùng trắng mặc trong, áo
chùng đen mặc ngoài, Cả hai áo đều dài quá đầu gối – kiểu “mớ hai” hay
còn gọi là đóng đôi. Các phù rể mặc quần l
ụa tơ tằm, đầu đội nón lá dứa,
chân đi giầy Gia Định.
Ngày nay hầu như không còn kiểu trang phục này, chàng rể và các chàng
trai Mường đều mặc quần âu, áo trắng và áo com lê giống như người Kinh.
19

 Trang phục trong đám tang ( đám Hiếu)
Tang phục của người Mường gọi chung là đồ tem. Toàn bộ thân nhân
của người quá cố đều phải mặc đồ tang.
Với phụ nữ: váy không có cạp hoa, áo cánh, áo chùng, khăn, thắt lưng,
tất cả những thứ đó đều bằng vải bông tự dệt, màu trắng, may kiểu lộn trái ra
ngoài. Việc mặc đồ tang của người Mường còn tùy thuộc vào hoàn cảnh
t
ừng gia đình, từng gia tộc. Nếu con dâu mà bố mẹ đẻ của mình còn sống thì
chỉ mặc váy, tênh và khăn trắng để tang bố mẹ chồng. Nếu một trong hai bố
mẹ đẻ đã mất thì mặc thêm áo cánh trắng, còn đã mất cả thì mặc đủ tang
phục như đã nêu trên.
Trong tang lễ Mường có người phải đóng vai trò quạt ma, những
người này có trang phục riêng trong khi thầy mo làm lễ mời mời c

ơm, mời bánh
cho hồn người quá cố. Người được chọn mặc đồ tang quạt ma thường là em dâu,
con dâu, cháu dâu thuộc bên nội hay bên ngoại. Bộ tang phục này thường rất
đẹp, lộng lẫy. Váy đen có cạp hoa đẹp, yếm đỏ, áo cánh mới, áo chùng trắng bên
ngoài, khoác thêm áo thụng may bằng vải màu đỏ, cài kuy cúc ở bên trái. Trên
tay đeo nhiều vòng, nhẫn đẹp, tay phải cầm quạt múa, tay trái cầm một cành cây
vót tròn, trên treo chiếc kéo và mảnh lá hình bàn tay gọi là “bàn tay ma”.
Người quạ
t ma đội khăn bên trong và mũ ở bên ngoài, các góc mũ có
treo những dây tua rủ thấp, trên đó treo những mảnh vải nhiều màu, hạt
cườm… bộ tang phục này đẹp tới mức mà phương ngôn Mường có câu
“Diện như nàng dâu đi quạt”. Đây cũng là hình ảnh tương phản với bộ tang
phục bình thường toàn màu trắng, không trang trí và lộn trái ra ngoài.
Tang phục của nam giới, Gồm: Quần, áo cánh ngắn, áo chùng, khăn
bịt đầu, đượ
c làm bằng vải bông màu trắng, may kiểu lộn trái ra ngoài để
mặc. Các con ttrai của người quá cố phải mặc đầy đủ bộ tang phục, riêng
con trai cả thì phải đeo thêm vỏ dao. Những người khác chỉ phải mặc một
vài bộ phận như em trai, con rể, cháu trai chỉ phải mặc quần và chit khăn
20

tang. Những người họ hàng thân thích tới dự cũng được phát khăn tang để
đội.
Sau đám tang, thường thì người Mường sẽ không giữ lại bộ tang phục
để dự các đám tang sau này, mà thay vào đó họ đợi sau một trăm ngày rồi
đem quần áo trắng đi nhuộm đen để có thể sử dụng làm trang phục khác, trừ
có cái Yếm của phụ nữ. Tuy nhiên ở Quý Hòa cũng có nhiều trường hợp ph

nữ sau khi dự tang lễ vẫn giữ lại váy tang để dùng cho các lần sau để tiết
kiệm vải và tiện sử dụng.

Ngoài số vải làm đồ tang, còn dùng khâm liệm cho người chết. Người
Mường có tục quấn rất nhiều lớp vải cho người chết. Khi bố mẹ qua đời,
mỗi người con phải có 6 mét vải để bọc ngoài quan tài, lượt vải ngoài cùng
là của người con út, dùng vải bọc như
vậy còn gọi là áo quan tài (áo tròn).
Tất cả số vải được dùng làm áo quan tài đó hầu hết đều là của các con gái,
con dâu tự dệt. Số vải này gần như đã được họ chuẩn bị từ trước để dành cho
bất những trường hợp tang ma có thể xảy ra.
Trong đám tang, thầy mo giữ vai trò rất quan trọng và có trang phục
riêng. Thầy mo mặc áo chùng xanh, may kiểu cài cúc bên nách phải, gấu áo
phủ gót, gấu đáp thêm v
ải đỏ phía trong, tay rộng, áo may rộng, không xẻ tà,
đội mũ xanh hình chóp. Còn có loại mũ khung cứng, phía trước và sau trang
trí hình hai nửa vòng tròn khép lại. Tay trái cầm quạt lông hay quạt giấy vẽ
hình rồng, tay phải cầm chuông nhỏ, lắc điểm nhịp cho bài mo đưa hồn. Khi
đưa ma, thầy mo đi trước tay cầm kiếm, dẫn hồn người quá cố đi tới huyệt,
chỉ cho hồn ở đó, rồi cởi tang phục, quay về b
ản theo con đường khác.
 Ẩm thực
Người Mường ở Quý Hòa xưa, nay vẫn tự hào về ẩm thực của họ.
Các loại đồ ăn truyền thống chế biến từ lương thực của họ gồm: cơm nếp
(cơm đếp/ cơm rếp) đồ chín bằng chõ (hông); cơm tẻ (cơm tưởi) xưa kia
cũng được đồ b
ằng hông, nay họ dùng xoong để nấu; củ mài (cú đếp/cú
21

dãng) đồ. Ngoài làm cơm họ còn dùng các loại lương thực chế biến các loại
bánh. Đáng chú ý nhất là bánh chưng (pẻng chưng), loại bánh to dùng để
cúng tổ tiên, các loại thần linh, vua mỡi, vua bếp vào dịp tết, loại nhỏ (bánh
bò, bánh trâu) dùng để cúng vía trâu, vía các loại nông cụ; bánh uôi dùng

trong các tang lễ; bánh bắng dùng trong cưới xin; bánh chì (gần giống bánh
dày của người Việt); bánh chay dùng trong lễ cầu mát hàng năm trong các gia
đình, l
ễ cúng vía cho người ốm; bánh ống (pẻng tồng khiu) có hình dáng tương
tự chiếc bánh tày, bánh tét (hình trụ), dùng trong lễ ăn hỏi (ti nòm), hoặc làm
quà khi đi thăm thân.
Đồ ăn chế biến từ các loại thịt của người Mường ở Quý Hòa khá
phong phú. Chế từ thịt lợn có: giò lụa (gio lua) làm bằng thịt nạc, giò đầu
(gio trlốc) làm bằng thịt thủ, giò chân (gio bỏi) làm b
ằng thịt nạc ở chân lợn,
chả thịt nạc (chá nạc), chả lá bưởi, chả sườn (chá khành), chả rang (chá
rang), mọc luộc (rác moọc), mọc đồ (moọc tồ), Chế từ thịt gà có: gà luộc,
gà nấu gừng, gà nấu măng chua, gà gói lá chuối nướng, Chế từ thịt trâu có:
trâu xào tiêu rừng, thịt và da chân trâu hầm lá lồm (lá chua)/món ăn nổi tiếng
ở vùng Mường. Ch
ế từ các loại thủy sản có: cua xiên que nướng (cua náng)
chấm với muối xả, ớt; cua luộc (cua luốc), ăn cùng khế chua, rau thơm,
vừng; cua rán (cua rản); cá rán; cá nướng (cá náng); cá đồ (cá ốch) ăn trong
dịp tết, hoặc biếu bố vợ; ruột cá nấu rau đắng; ếch rán, nấu măng chua, băm
viên gói lá lốt và rán, ướp gia vị gói lá nướng qua rồi mang đồ; nòng nọc đồ
l
ẫn với nõn khoai môn; ốc vặn chặt đuôi, để cả vỏ nấu với lá lốt (chố hoi nổ
tắc lốt); ốc nấu với lá môn rừng, măng chua.
Đồ ăn chế biến từ các loại rau, măng của họ cũng không kém phong
phú về chủng loại. Trước tiên phải kể tới món măng vầu hoặc măng bương
luộc; sau đó là các món măng
đắng đồ (măng mu, măng lènh enh, măng
chảu), hỗn hợp các loại rau pheo, móng nai, tai rề, khìu, bò, dốm, chuối, bẹ,
téng tẻ, tèng gai, lá mít non, lá sung non, lá ắn, lá đu đủ non, quả cà gai, lá
22


sắn non, đồ chín bằng chõ (tắc đồ); rau éo (rau ấp bợ) luộc với măng vầu;
rau sắng nấu canh,
Để cất trữ thực phẩm, theo tập quán cổ truyền họ thường phơi khô
(khổ khưa) các loại thịt bò, thịt trâu, thịt lợn, thịt chuột và các loại măng,
mộc nhĩ, nấm. Phương pháp cất trữ khá nổi tiếng của họ là muố
i chua các
loại thịt, cá, tiết trâu, tiết bò, măng, rau cải (muối dưa), làm mắm tôm tép.
Đồ uống nổi tiếng của họ có rượu trắng (rảo chai) và rượu cần (rảo
khòe). Các loại rượu này họ thường dùng vào các dịp lễ tết, cưới xin, ma
chay hoặc thết khách. Thường ngày, theo tập quán người Mường ở Quý
Hòa uống nước nấu bằng lá hoặc rễ pạng. Hiện nay hàng ngày họ c
ũng uống
nước chè tươi, chè khô, và các loại nước giải khát có ga khác.
Cổ truyền người Mường ở Quý Hòa đã có tập quán hút thuốc lào.
Không chỉ nam giới mà phụ nữ người Mường ở Quý Hòa cũng nghiện
thuốc lào. Điếu cày hút thuốc lào của họ làm bằng ống bương, ống nứa dài
tới 60-70 cm, lõ dài tới 15- 20 cm. Loại điếu này to, dài nên khi hút phải kéo
vài hơi mới được. Phụ nữ Mườ
ng thường hút thuốc lào ở cạnh bếp và dùng
loại điếu to (tiểu khuổng). Họ hay hút theo kiểu chuyền tay nhau, dùng than
hồng hoặc củi cháy dở để châm thuốc.
Cung cách ứng xử trong ăn, uống và hút của họ cũng có nhiều nét đặc
biệt. Nấu nướng và lo bữa ăn hàng ngày trong các gia đình do phụ nữ đảm
trách. Chế biến và chuẩn bị cỗ bàn trong các đám lớn do nam giới đảm
nhi
ệm. Hàng ngày họ thường ăn ba bữa, bữa phụ (cơm ngày) ăn vào buổi
sáng sớm, bữa chính thứ nhất ăn vào buổi trưa (cơm trưa), bữa chính thứ hai
ăn vào buổi tối (cơm hôm). Bình thường họ ăn cơm tại gian giữa nhà, khi ăn
họ dùng tay nắm cơm đồ, theo thói quen họ thường rửa tay trước khi ăn. Khi

thết khách, cỗ thường đặt ở
vóng tông, người cao niên nhất trong nhà và
khách sẽ ngồi gần cửa voóng, sau đó là người ít tuổi hơn. Theo phong tục
Mường, khi mổ gà, phao câu nhất thiết phải dành cho cụ già, đùi (tỏi) dành
23

cho trẻ nhỏ. Khi ăn cỗ đám cưới, đám ma, theo tập quán Mường, đàn ông và
đàn bà không ngồi ăn chung mâm với nhau, mà ngồi thành mâm riêng. Cỗ
đám cưới bao giờ cũng có mâm riêng dành tiếp thông gia (tiếp khỏa). Họ có
tập quán uống rượu cần (rảo khòe) sau khi ăn cỗ họ hoặc uống rượu trắng.
Đối với người Mường ở Quý Hòa, ăn uống cũng có một số kiêng kỵ
nh
ất định. Ví dụ, sau khi sinh con phụ nữ không ăn các loại cá, ếch, nhái,
thịt vịt, thịt trâu, trứng gà, vì sợ bị hậu sản; nhà đang còn gạo thì kiêng ăn
củ mài, vì sợ vía lúa tự ái bỏ đi; trẻ con không ăn mề, phao câu gà vịt (côi
ca, côi wít), sợ ăn sẽ tối dạ và mồ côi cha mẹ;
1.4.2. Văn hóa tinh thần
 Phong tục, tập quán
- Sinh đẻ, nuôi con
Theo tập quán của người M
ường ở Quý Hòa, con gái đã có chồng
nghiêm cấm sinh nở ở nhà bố mẹ đẻ. Trường hợp bất khả kháng họ chỉ được
phép sinh con ở gầm sàn nhà bố mẹ đẻ. Trong thời gian mang thai phụ nữ
Mường tuyệt đối không được tham gia vào các nghi lễ mang tính tôn giáo,
đặc biệt là các lễ hội của làng xóm; kiêng không tham gia và chứng kiến
những sự việc không hay như đánh cãi nhau, tai nạn, cháy nhà; Đối với họ,
thai phụ kiêng đánh r
ắn, sợ sau này lúc nào con họ cũng thè lưỡi dài như
rắn; kiêng dẫm chân lên vỏ cây làm quan tài, sợ sẩy thai; không bước qua
thừng buộc trâu, Về ăn uống, thời gian mang thai họ kiêng ăn các loại quả

sinh đôi, sợ đẻ sinh đôi; kiêng ăn ốc, kiêng ăn các con vật bị chết, kiêng ăn
cá nướng, cá nấu canh, kiêng uống nước đựng trong ống bương, Cũng
trong thời gian vợ mang thai, các ông chồng kiêng khiêng quan tài trong các
đám ma, kiêng lợp phầ
n nóc nhà,
Theo tập quán, thai phụ Mường Quý Hòa đẻ cạnh bếp lửa, ở tư thế
ngồi, hai tay đu bám vào dây thừng buộc từ xà nhà thõng xuống. Mẹ chồng
sẽ là người đỡ đẻ cho con dâu, nếu đẻ khó họ mời bà đỡ vườn đến giúp thai
24

phụ vượt cạn. Xưa kia, người ta dùng dao làm bằng cật nứa lấy trên mái nhà
để cắt rốn cho hài nhi. Con trai thì lấy nứa ở mái phía trước nhà, con gái lấy
nứa ở mái phía sau. Sau khi cắt rốn cho trẻ, họ giắt dao cật nứa lên mái nhà.
Sau khi cắt rốn, hài nhi được tắm rửa, đặt tong chiếc nia lót lá chuối tươi đã
hơ lửa (rùng cúm). Tiếp theo, nếu là con trai họ cầm chài đánh cá dập nhẹ
xuống sàn nhà và gọi vài l
ần: con trai yêu quý ơi, hãy mau dậy mà đi đánh
chài kiếm cá, ; nếu là con gái lấy chiếc hông đồ xôi dập xuống sàn nhà và
gọi: con gái quý ơi, hãy mau lớn mà đi chăn tằm, kéo tơ, dệt lụa, Sau đó
họ quấn tã, mặc áo cho hài nhi và trao đứa trẻ cho mẹ nó. Nhau thai, cho vào
ống bương, hoặc chiếc giỏ (ớp) nút kín, mang treo lên cây trong rừng hoặc
ven suối. Khi treo tuyệt đối không được để cho người khác nhìn thấy. Khi
cuống r
ốn đứa trẻ rụng, cho vào ống nứa đựng cuống rốn của anh chị của nó,
giắt trên mái gianh, phía trên cầu thang lên sàn.
Sau khi sinh nở, sản phụ Mường được nằm cạnh bếp lửa vài ba chục
ngày liền. Sản phụ được uống nước nấu với lá trầm, lá thánh mẫu, rễ khúc
khắc, củ lù lù, củ lục chạc. Một vài nơi, khi nhà có người sinh nở, người
Mường ở Quý Hòa th
ường rào cầu thang chính bằng phên nứa, chỉ để một

lối nhỏ lên sàn; các cửa voóng đều đóng kín. Thời gian cữ của sản phụ là bảy
hoặc chín ngày, tùy theo sinh con trai hay gái. Hết cữ, họ làm lễ thả ổ tạ ơn
vua bếp và bà mụ. Trẻ được một tháng, họ làm lễ mừng xóm (mừng quêl).
Đối với người Mường ở Quý Hòa, đây là một trong những nghi lễ
được tổ
chức khá khá thịnh soạn để thết xóm. Tất cả những người tới mừng quêl đều
cầu chúc cho đứa trẻ thốt như cách, mách như đác (tốt như cát, mắt như
nước) và không quên mang theo gà, vải làm quà tặng cho đứa trẻ. Sau khi
làm lễ mừng quêl họ chọn tên không trùng với tên ông bà, tổ tiên nội ngoại,
đặt cho đứa trẻ.
Việc nuôi con của người Mường ở
Quý Hòa cũng có nhiều tập quán
lý thú. Khi trẻ còn nhỏ các bà mẹ Mường đều lấy sợi hoặc sợi vải ở váy của
25

mình buộc vào cổ tay của con, để ngăn ma tà. Khi có việc phải đưa con ra
khỏi nhà, họ lấy nhọ nồi bôi lên trán đứa trẻ để đánh dấu (tanh dâu). Nếu trẻ
quấy, khóc, không chịu ăn, họ mang cơm nếp, trứng gà luộc, vợt xúc cá ra
ngã ba đường làm lễ gọi vía (hóc wía). Trẻ hay khóc đêm, họ lấy áo của nó
chùm lên hông đồ cơm, mang đặt ở gian trong (voóng khựa), dùng trứng gà,
cơm,
đũa, bát nước, trầu cau, làm lễ cầu vía. Các cặp vợ chồng muộn con
thường lập bàn thờ bà mụ (trúc đài) ở vườn. Khi con được đủ một giáp (12
tuổi), họ làm lễ trả ơn mụ và hạ trúc đài.
- Cưới xin
Cưới xin của người Mường ở Quý Hòa phải thực hiện đầy đủ các nghi
thức theo trình tự: chọn mối (chọn m
ờ), ướm hỏi (kháo tiếng), dạm ngõ (mờ
miệng), ăn hỏi (ti nòm / ti nòm bánh), nhận rể, đón dâu (ti cháu / ti du), lại
mặt (ti môộng).

Người làm mối (mờ) đứng ra giao dịch với nhà gái, lo liệu xắp xếp
việc tiến hành tổ chức các nghi thức cưới xin cho đôi trẻ. Mối thường là
người nhiều phúc đức, con cháu đông đúc, thạo đường ăn nói, giao tiếp. Xưa
kia ở Mường Vang, quan lang sẽ g
ọi mối tới để trách cứ, nếu các cặp vợ
chồng họ làm mối ăn ở không hòa thuận.
Ướm hỏi (kháo tiếng): ngày cây trong (theo lịch Mường, ngày cây là
những ngày tốt), vào buổi tối, mối thay mặt nhà trai sang thưa chuyện, đánh
tiếng ướm hỏi với nhà gái. Thông thường, ngày kháo tiếng nhà gái không trả
lời ngay, mà xin nhà trai đợi vài hôm. Ước chừng vài hôm sau đó, nhà trai
nhờ mối sang thụ nhận hối ý của nhà gái.
Dạm ngõ (mờ
miệng): Mối thay mặt nhà trai mang trầu cau, chè,
rượu, bánh, sang nhà gái chính thức ngỏ lời với nhà gái. Nhà gái đồng
thuận, hai bên cùng nhau trọn giờ, ngày chính thức làm lễ ăn hỏi (ti nòm
bánh) cho đôi con trẻ.

×