Hc vin Bỏo chớ v Tuyờn truyn
Khoa Quan H Cụng Chỳng v Qung Cỏo
Tiểu luận
Nhaọp moõn baựo chớ
*****
ti: ngôn ngữ trên báo chí
H tờn: Vũ Hoàng Phong
Lp : Quaỷng Caựo_K28
GVHD: Th.s Phạm Hải Chung
H Ni, thỏng 4 nm 2008
M U
Trong thời đại hiện nay, báo chí thế giới đang phát triển với một tốc độ
chóng mặt. Bắt đầu với tờ báo chỉ là bản chép tay, đến những bản báo in đầu
tiên; sau đó đã xuất hiện thêm các loại hình báo chí mới như: báo phát thanh,
truyền hình, báo mạng điện tử
Mỗi loại hình báo chí đưa đến cho công chúng một cách tiếp cận thông tin
khác nhau: báo in đưa thông tin qua chữ viết và hình ảnh trên mặt giấy; báo phát
thanh truyền thông tin đến tai người nghe; truyền hình đưa tin bằng cả hình ảnh
lẫn âm thanh; còn báo mạng có thể đăng được những thông tin bằng cả chữ viết,
âm thanh, hình ảnh tĩnh và động nhờ vào Internet. Chính cách đưa thông tin đa
chiều này đã giúp báo chí dần trở thành “quyền lực thứ tư” trong xã hội, sau
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Chúng ta có thể khẳng định rằng ảnh hưởng của báo chí trong xã hội hiện
đại là vô cùng lớn. Chính vì vậy, trách nhiệm của nó cũng không hề nhỏ. Ngoài
khả năng cung cấp thông tin và định hướng dư luận, báo chí còn có trách nhiệm
góp phần định hình ngôn ngữ, đặc biệt là những tờ báo được viết cho giới trẻ.
Ngôn ngữ báo chí không phải là một vấn đề mới, nó đã được đào sâu
nghiên cứu theo từng góc cạnh, từng thời kỳ phát triển. Nhưng trong thời đại
bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, đây lại là một vấn đề nóng cần có
quan tâm của toàn xã hội. Tiếng Việt đang dần bị ăn mòn bởi thứ ngôn ngữ lai
căng, thiếu trong sáng, pha tạp của một bộ phận người trẻ. Do đó, báo chí phải
đóng vai trò như một người dẫn đường trong công cuộc bảo tồn vào phát triển
tiếng Việt ngày càng giàu đẹp hơn. Chúng ta sẽ đi sâu phân tích vấn đề ngôn
ngữ báo chí ở phần sau.
MỤC LỤC
I - TÍNH CHẤT CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ trang 3
2
1. Tính chính xác trang 3
2. Tính cụ thể trang 3
3. Tính đại chúng trang 4
4. Tính ngắn gọn trang 4
5. Tính định hướng trang 4
6. Tính biểu cảm trang 5
7. Tính khuôn mẫu trang 5
II - HAI LOẠI HÌNH BÁO CHÍ TIÊU BIỂU trang 6
1. Báo in trang 6
2. Báo mạng điện tử trang 6
3. Kết cấu chung của một bài báo trang 7
4. Các lỗi sai thường thấy trang 8
a) Viết sai phụ âm hoặc nguyên âm trang 8
b) Lỗi sai về dấu thanh điệu trang 10
c) Lỗi về diễn đạt trang 10
5. Một số điểm cần chú ý trong ngôn ngữ báo chí trang 12
a) Viết tắt trang 12
b) Viết hoa trang 14
c) Dấu câu trong tiếng Việt trang 15
III - GÌN GIỮ SỰ TRONG SÁNG CỦA
TIẾNG VIỆT TRÊN BÁO CHÍ trang 19
*Trách nhiệm của người làm báo trang 20
IV - KẾT LUẬN trang 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO trang 22
I - CÁC TÍNH CHẤT CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
3
Như chúng ta đã biết, chức năng cơ bản, có vai trong quan trọng hàng đầu
của báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập đến
các sự kiện. Nếu không có sự kiện thì không thể có tin tức báo chí. Do vậy, nét
đặc trưng nhất của ngôn ngữ báo chí chính là có tính sự kiện. Chính nó đã tạo
nên ở ngôn ngữ báo chí những tính chất cụ thể sau:
1) Tính chính xác:
Đối với ngôn ngữ báo chí, đây là tính chất đặc biệt quan trọng. Vì báo
chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất nhỏ nhất
cũng có thể làm cho độc giả hiểu sai thông tin, nghĩa là có thể gây ra những
hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được. Có thể đưa ra dẫn
chứng: Sau chuyến tháp tùng một quan chức cao cấp sang thăm Trung Quốc,
một nhà báo đã viết một bài phóng sự, trong đó có câu: “Chúng tôi chia tay
với tình hữu nghị dạt dào của hai nước Việt - Trung”. Rõ ràng từ “với” ở đây
được dùng sai (vì cụm từ “chia tay với…” biểu đạt ý nghĩa “từ bỏ, từ giã”),
cần phải thay nó bằng từ “trong”.
2) Tính cụ thể:
Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí được hiểu là khi nhà báo miêu tả, tường
thuật sự việc, phải cụ thể, cặn kẽ đến từng chi tiết nhỏ. Có như vậy người đọc,
người nghe mới có cảm giác mình là người trong cuộc, đang trực tiếp được
chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong bài báo.
Mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí phải gắn liền với một
không gian, thời gian xác định; với những con người xác định (có tên tuổi, nghề
nghiệp, chức vụ, giới tính…cụ thể). Do đó, trong ngôn ngữ báo chí nên hạn chế
tối đa việc dùng từ có tính chất mơ hồ như: “một người nào đó”, “ở một nơi nào
đó”, “vào khoảng”, “hình như”,…
3) Tính đại chúng
4
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội,
không phụ thuộc nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi,…đều
là đối tượng phục vụ của báo chí. Đây vừa là nơi để họ tiếp nhận thông tin, vừa
là nơi để bày tỏ ý kiến. Chính vì thế, ngôn ngữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ
dành cho đại chúng, có tính phổ cập rộng rãi như theo nhà nghiên cứu ngôn ngữ
báo chí nổi tiếng người Nga V.G.Kostomarov đã từng nói: “Ngôn ngữ báo chí
phải thích ứng với mọi tầng lớp công chúng sao cho một nhà bác học với kiến
thức uyên thâm nhất cũng không cảm thấy chán và một em bé có trình độ còn
non nớt cũng không thấy khó hiểu”.
4) Tính ngắn gọn:
Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn và súc tích. Sự dài dòng có thể làm loãng
thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Thêm
vào đó, nó còn làm tốn thời gian của cả người viết lẫn người đọc, dễ dẫn đến các
lỗi sai về mặt ngôn từ.
5) Tính định lượng:
Các tác phẩm báo chí thường bị giới hạn về mặt thời gian hay diện tích
xuất hiện trên báo, đó là tính định lượng. Vì thế, việc lựa chọn và sắp xếp các
thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh đầy đủ lượng sự kiện mà
không vượt quá khung cho phép về thời gian và không gian.
Theo bài: “Đặt tít ngắn có dễ?” trên trang web Nghề báo (nghebao.com),
có những tít báo rất dài, như: “Hội thảo đổi mới giáo dục đại học Việt Nam -
Hội nhập và thách thức” (tít này dài 64 ký tự), sau khi được sửa lại là: “Hội
thảo đổi mới giáo dục đại học” (chỉ còn 33 ký tự). Chúng ta có thể nhận ra tít
sau khi sửa chỉ dài gần bằng phân nửa tít trước nhưng nội dung chính vẫn được
giữ nguyên. Vậy tại sao lại bắt độc giả ngồi đọc những dòng chữ dài lê thê và
khiến cho họ cảm thấy “tức mắt” như vậy ?!
Bài viết trên cũng đã đưa ra chuẩn mực cho một tít báo là khoảng dưới 50
ký tự, theo đó là một vài gợi ý nhỏ khi viết tít:
5
- Bỏ những từ thừa
- Bỏ những từ “có cũng như không” như “của”, “về”, “được”,
- Bỏ “các”, “những” nếu có thể
- “Chặt” chữ trong từ nếu được: “thành lập”, “sang thăm”, “phòng chống”,
“tham dự”,
- Tránh câu bị động
- Không nhất thiết lúc nào cũng phải nói là Việt Nam
6) Tính biểu cảm:
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ gắn liền với việc sử dụng những từ ngữ mới
lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân…Ví dụ như:
“Sông Tô mà không lịch”. (Báo Văn Hoá, 17/05/1999)
Nếu ngôn ngữ báo chí không có tính biểu cảm, chỉ là những chuỗi thông tin
khô khan thì nó khó có thể thu hút được sự chú ý của độc giả. Tính biểu cảm tác
động mạnh mẽ tới tâm hồn người nghe, làm cho họ có những trạng thái cảm xúc
nhất định theo như người viết mong đợi.
7) Tính khuôn mẫu:
Trong văn phong báo chí, ta rất hay gặp những dạng tin như:
- Theo AFP, ngày…tại…trong cuộc gặp gỡ…Tổng bí thư…đã kêu gọi…
- TTXVH, ngày…người phát ngôn Bộ Ngoại giao…cho biết…
Đây chính là tính khuôn mẫu của báo chí, thường bao gồm 6 câu hỏi: Ai?
Cái gì? Khi nào? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao?
Yếu tố khuôn mẫu không đi một mình. Nó thường được kết hợp với thành
tố biểu cảm, nên ngôn ngữ báo chí thường mềm mại, hấp dẫn chứ không hề khô
khan như trong một văn bản khoa học hay văn bản hành chính.
II - HAI LOẠI HÌNH BÁO CHÍ TIÊU BIỂU
1. Báo in
6
Báo in
(nguồn:homepages.which.net)
Báo mạng
(nguồn:vietnamnet.vn)
Ra đời: Báo in (hay báo viết) là loại hình
báo chí ra sớm nhất, được thể hiện trên giấy.
Tờ báo đầu tiên mang tên “Niewe Tydigen” ra
đời ở Bỉ vào năm 1605, tiếp sau là tờ “Aviso”
- 1609 ở Đức…Hơn 200 năm sau, tờ báo in
đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ của Việt Nam
mới xuất hiện vào năm 1865 có tên gọi: “Gia
Định Báo”.
Ưu điểm: tính phổ cập cao, nội dung sâu, người đọc có thể nghiên cứu.
Nhờ những đặc điểm này mà báo in luôn chiếm một chỗ đứng quan trọng so
với các loại hình báo chí khác.
Nhược điểm: thông tin chậm, khả năng tương tác hai chiều (giữa người
đọc và người viết) kém, khi sai thông tin thì rất khó đính chính.
Phương tiện biểu đạt: chủ yếu qua chữ viết và một phần là hình ảnh.
Vì vậy, nói tới ngôn ngữ trên báo in, người ta sẽ nghĩ ngay đến phương diện
chữ viết.
2. Báo mạng điện tử
Ra đời: Báo mạng điện tử (báo
mạng) ra đời muộn hơn nhiều so với các
loại hình báo chí khác. Tờ báo mạng đầu
tiên trên thế giới ra đời năm 1992 ở Mỹ.
Còn tại Việt Nam, sự hình thành của báo
mạng gắn liền với sự kiện tạp chí “Quê
hương” công bố phiên bản trên mạng
Internet vào ngày 31 tháng 3 năm 1997.
Ưu điểm: thông tin cập nhật rất
nhanh, có thể lưu giữ được; tính tương tác hai chiều cao; thông tin không chỉ
7
thể hiện dưới dạng chữ viết mà còn bằng âm thanh và hình ảnh cả tĩnh lẫn
động.
Nhược điểm: tính phổ cập chưa cao, do thông tin được đưa lên rất
nhanh nên còn nhiều sai sót về cả nội dung lẫn hình thức.
Phương tiện biểu đạt: phần lớn là chữ viết, ngoài ra còn có âm thanh,
hình ảnh tĩnh hoặc hình ảnh động.
Do báo in và báo mạng có phương tiện chuyển tải thông tin
chính đều là chữ viết nên chúng mang những đặc điểm giống nhau
về cả hình thức, kết câu, lỗi sai…
3. Kết cấu chung của một bài báo
a) Tít báo:
Tít (title) là phần độc giả đọc trước tiên khi bước vào bài báo, cho độc giả
biết chuyện gì đã xảy ra và vì sao họ phải quan tâm đến nó. Nếu tít viết hay,
độc giả sẽ tiếp tục đọc bài báo; nhưng nếu viết hỏng, toàn bộ phần dưới sẽ bị
bỏ qua.
Tít báo luôn phải đảm nhận nhiệm vụ là thu hút người đọc, vì vậy ngôn
từ khi viết tít phải có sự sắc sảo và hấp dẫn.
Tít phải đảm bảo tính ngắn gọn, không quá dài dòng, không đưa những
thông tin phức tạp và nhiều con số. Vì vậy, số lượng từ dành cho tít
phải được cân nhắc kỹ và nên lấy từ nội dung của bài viết.
Tránh dùng những câu từ sáo rỗng hay viết theo lối chơi chữ. Điều này
sẽ làm cho độc giả cảm thấy khó chịu. Đặc biệt cần giảm thiểu tối đa
việc viết tắt trên tít vì nó sẽ làm ảnh hưởng đến tính rõ ràng cả bài báo.
Sự chính xác cả về nội dung, chính tả hay ngữ pháp luôn là điều cần
thiết đối với một tít báo.
b) Sapô:
8
Sapô (chapeau) theo tiếng Pháp có nghĩa là “cái mũ”. Thật vậy, nó có
phần nào đó giống như cái mũ của một bài báo, xuất hiện sau phần tiêu đề và
trước nội dung bài báo. Sapô thường là một văn bản hoàn chỉnh, bao gồm một
câu hay một vài câu. Nó mang lại cho độc giả khái niệm chung nhất về đề tài
của bài báo và thu hút sự chú ý của người đọc.
Đặc thù của báo chí là một bài báo thường được viết trong vài giờ, được
đọc trong vài phút và bị quên đi trong vòng 24 giờ sau đó
(1)
. Vì thế, ngay từ
phần lời dẫn, cần nhấn mạnh tính thời sự của các thông tin sẽ được phản ánh
trong bài viết. Do đó ta thường bắt gặp các từ ngữ chỉ thời điểm như: “hôm
nay”, “đang”, “gần đây”, “tháng trước”, “vừa mới”, “sắp”, “đang đến gần”,
“cho tới thời điểm này”,…
c) Nội dung bài báo:
Đây luôn là trọng tâm của một bài báo, là phần mà người viết muốn
thông qua để chuyển tải thông tin đến độc giả. Cho nên những lỗi cơ bản về
mặt ngôn ngữ như ngữ pháp (câu, quan hệ từ,…) hay chính tả (viết tắt, viết
hoa, đánh dấu sai…) cũng có thể làm cho bài báo bị sai lệch hoàn toàn về nội
dung và mục đích, dẫn đến sự khó chịu cho người đọc.
4. Các lỗi sai thường thấy
a) Viết sai các phụ âm hoặc nguyên âm:
- Về phụ âm:
Các lỗi sai hay gặp nhất là viết sai các phụ âm trong các cặp phụ âm đầu
tr/ch, s/x, gi/d…
_____________________________
(1) Theo cuốn “Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại chúng” -
Hoàng Anh
9
Ví dụ: viết đúng là “năng suất” lại thành “năng xuất”; “bổ sung” lại thành
“bổ xung”, “giành huy chương” thành “dành huy chương”…
- Về nguyên âm:
Những lỗi sai về nguyên âm thường ít gặp hơn. Đa phần là do phát âm
không chuẩn xác dẫn đến khi viết cũng sai theo.
Ví dụ: “tuềnh toàng” bị viết sai thành “tuyềnh toàng”, “trừu tượng” thành
“trìu tượng”,…
Chúng ta có thể thấy “nhan nhản” trên các mặt báo những lỗi sai kiểu
này, điển hình như:
“Phong trào rộ lên bắt đầu từ những du học sinh từ nước ngoài
về, những cậu ấm cô chiêu bắt trước dân nghiền qua phim ảnh.”
(Đêm chơi của những cậu ấm cô chiêu; VNExpress, 29/12/2006)
Động từ “bắt chước” nghĩa là “làm theo một cách rập khuôn, máy móc”
còn “bắt trước” thì không hề thấy trong từ điển, phải chăng nó mang hàm ý
“không bắt sau” ?!
“14h30’ ngày 27/3, cơn lốc có kèm theo mưa đá đã tràn qua
huyện miền núi Nam Đông trên diện rộng (Thừa Thiên Huế: Mưa lốc
quấn bay 354 ngôi nhà, VietNamNet, 29/3/2005)”
Chữ này phải thay bằng "cuốn bay". Theo như giải thích trong từ điển
Tiếng Việt có nghĩa là "kéo đi theo trên đà chuyển động mạnh". Có thể tác giả
đã đồng nhất “cuốn” và “quấn” vì cách đọc của hai từ này là gần giống nhau.
“Tôi viết về “chuyến đi định mệnh” của tôi để mong tìm gặp lại
người mà tôi gọi là “quý nhân phù trợ” trong lúc xa cơ.”
(Chuyến đi định mệnh; Thể thao & Văn hóa ngày 20/2/2009, trang 20)
Tra trong từ điển tiếng Việt chỉ có từ "sa cơ": rơi vào tình thế rủi ro, không
may… không hề có từ "xa cơ".
10
b) Lỗi sai về dấu thanh điệu:
Có hai kiểu lỗi thường gặp về dấu thanh điệu, đó là:
- Nhầm lẫn giữa dấu hỏi và dấu ngã, chủ yếu thường gặp trên các báo
của các tỉnh miền Trung, miền Nam. Chẳng hạn “kỹ năng” được viết thành
“kỷ năng”, “vẩn vơ” thành “vẫn vơ”. “nghĩ” thành “nghỉ”,…
- Đánh sai vị trí dấu thanh điệu, điển hình như: “hoà” bị chuyển thành
“hòa”, “thuỷ” thành “thủy”, “quí” thành “qúy”,…
c) Lỗi về diễn đạt:
Lỗi diễn đạt ở đây có thể hiểu là lỗi sai về tư duy logic. Nó khiến cho
việc tiếp nhận thông tin của độc giả trở nên khó khăn nếu không muốn nói họ
không thể hiểu được tác giả viết gì. Có thể chia những câu văn mắc phải lỗi
này thành hai loại:
- Những câu phản ánh không đúng thực tế khách quan:
Thực tế khách quan có thể hiểu là những điều nằm trong tầm hiểu biết
chung của toàn xã hội và người ta có thể kiểm tra tính xác thực của thông tin
được biểu đạt qua ngôn từ của nhà báo. Lỗi sai về thực tế khách quan có thể
do nhà báo không có kiến thức vững vàng về vấn đề mình định nêu, ví dụ:
Cơ quan chức năng đã thu 17
quyển cổ phiếu phổ thông; mỗi quyển
có 100 tờ cổ phiếu có mệnh giá từ
100 đến 200 cổ phần do chúng tự
thiết kế, phát hành trị giá gần 100 tỷ
đồng
(Bắt giữ người lừa đảo bán cổ
phiếu trị giá 800 tỷ; VietnamNet
dẫn tin TTXVN, 3/9/2006)
11
Cổ phiếu của mỗi công ty có thể có mệnh giá khác nhau, và tính bằng tiền.
Cổ phần là tỷ lệ vốn thể hiện qua cổ phiếu mà mỗi cổ đông nắm giữ trong một
công ty, tại sao lại có thể biến thành mệnh giá của cổ phiếu ?
- Câu thể hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận cấu thành câu:
Có thể liệt kê các loại câu sai quan hệ ngữ nghĩa như:
+ Sai quan hệ đối lập;
+ Sai quan hệ đối xứng;
+ Câu sai quy chiếu;
+ Câu mâu thuẫn với các câu khác bên cạnh nó;
Một vài ví dụ:
Lỗi sai quan hệ đối xứng:
Tuy tác phẩm không cần phải dịch sang tiếng Thái hay tiếng Anh, nhưng
người nhận giải được bố trí ở khách sạn nổi tiếng là Oriental Bangkok, đi máy
bay khứ hồi của Thai Airways, hoặc các hãng quốc tế tương đương.
(Nguyễn Ngọc Tư đoạt giải ASEAN: "Tôi thường treo thưởng cho mình bằng
tiền" - Thể Thao & Văn Hóa ngày 12/9/2008)
Chỉ cần đọc qua thôi cũng đã thấy được lỗi sai của câu trên. Nội dung
hai vế câu “Tuy…nhưng” không hề có một sự liên hệ nào về mặt ý nghĩa
với nhau.
Lỗi sai quy chiếu:
Là bạn đọc thường xuyên, những năm qua báo Nhân Dân đã cung
cấp cho tôi
nhiều kiến thức bổ ích.
(báo Nhân Dân)
12
Điều vô lý ở đây là báo Nhân Dân không thể là bạn đọc của chính nó.
Cần phải sửa như sau:
Là bạn đọc thường xuyên, những năm qua tôi đã được báo Nhân Dân
cung cấp nhiều kiến thức bổ ích.
Trên đây là một số kiểu lỗi thường gặp trên mặt báo. Trong nhiều trường
hợp, nó có thể gây ấn tượng xấu đối với độc giả và làm giảm uy tín của cả tờ
báo. Chính vì vậy, vấn đề này cần được quan tâm hơn nữa bởi người viết
cũng như những người làm công tác biên tập.
5. Một số điểm cần chú ý trong ngôn ngữ báo chí
a) Viết tắt:
Đối với các từ hay cụm từ được sử dụng lặp đi lặp lại trong một bài báo
hay văn bản nói chung, viết tắt không chỉ tiết kiệm được thời gian và công
sức mà còn giúp đáp ứng yêu cầu về trình bày (diện tích khổ báo hạn chế,
đảm bảo sự hài hòa, cân xứng giữa các thành tố ngôn ngữ…).
- Kiểu viết tắt phổ biến nhất hiện nay là viết các chữ cái đầu tiên của
các âm tiết có trong tên gọi.
Ví dụ: xã hội chủ nghĩa XHCN; ủy ban nhân dân UBND; Word
Trade Organization WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới);…
+ Kiểu viết tắt này chỉ được dùng cho các tên gọi được cấu tạo bởi các từ
cùng một thứ tiếng, chủ yếu là tiếng Anh hay tiếng Việt.
+ Chỉ được sử dụng hình thức viết tắt trên sau khi đã viết dạng đầy đủ có
kèm dạng tắt được đặt trong ngoặc đơn đứng ngay bên cạnh.
Ví dụ: Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), Đài Truyền hình Việt Nam
(ĐTHVN),…
13
+ Không nên viết tắt theo kiểu trên ở tít. Trong trường hợp bất khả
kháng, chỉ nên viết tắt những từ hay cụm từ xuất hiện với tần số cao trong
giao tiếp mà hầu hết mọi người đều biết như XHCN, UBND, VTV, GDP,…
- Kiểu viết tắt lược bớt các yếu tố theo xu hướng giữ lại ít nhất hai chữ
cái trong mỗi âm tiết của tên gọi (trong đó thường có một chữ cái là ký
hiệu ghi nguyên âm).
Ví dụ: HABECO (Công ty Bia Hà Nội), VINATABA (Công ty Thuốc lá
Việt Nam)…
Đối với các tên gọi tiếng Anh, nếu bộ phận chính của tên (bộ phận giúp
nhận diện được ngay đặc thù về phạm vi chức năng, lĩnh vực sản xuất hay
kinh doanh của đối tượng dịch vụ có tên viết tắt) chỉ có một âm tiết thì trong
nhiều trường hợp nó được giữ nguyên.
VD: HABUBANK
(Ngân hàng Xây dựng và Phát triển nhà Hà Nội),
SILK
TEXTCO (Công ty Xuất khẩu tơ tằm), FAFILM
(Hãng Phim Việt
Nam), VINAMILK
(Công ty Sữa Việt Nam),…
- Kiểu viết tắt thứ ba kết hợp một âm tiết của từ này với một âm tiết
của từ khác để tạo nên một từ ghép mới rồi gán cho nó ý nghĩa của các từ
nguyên gốc.
Ví dụ: kiểm chứng = kiểm
tra + chứng
minh; khảo thí = khảo
sát + thí
nghiệm; tương thích = tương
ứng + thích
hợp;…
Đây là kiểu viết tắt không nên sử dụng trong giao tiếp nói chung cũng
như trong địa hạt báo chí vì nó gây nhiều trở ngại cho việc tiếp cận thông tin
của công chúng. Thực tế cho thấy không ít người tỏ ra ngỡ ngàng khi bắt gặp
những từ như: quan chiêm (quan sát + chiêm ngưỡng), điều nghiên (điều tra +
nghiên cứu), cụ tỉ (cụ thể + tỉ mỉ), Nếu cần thiết, chúng ta chỉ nên dùng
những chữ tắt đã có sẵn, thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông
tin đại chúng và ý nghĩa của nó đã được mọi người chấp nhận.
14
b) Viết hoa:
Có một số quy tắc viết hoa cơ bản đã được thừa nhận và đang được sử
dụng rộng rãi trong xã hội:
- Viết hoa tên người:
+ Đối với tên người nước ngoài, chỉ cần viết hoa chữ cái đầu ở mỗi bộ
phận của tên.
Ví dụ: Vladimir Putin, Bill Clinton, Victo Hugo,…
+ Đối với tên người Việt Nam hay tên người nước ngoài được phiên âm
qua Hán - Việt, chữ cái đầu của tất cả các âm tiết đều được viết hoa.
Ví dụ: Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Đỗ Phủ, Thành Cát Tư Hãn,…
- Viết hoa tên địa lý:
Tên địa lý được viết hoa giống tên người, ví dụ:
Tên địa lý Việt Nam: Trường Sơn, Cửu Long, Hà Nội, Việt Bắc,…
Tên địa lý nước ngoài: Paris, Berlin, Washington,…
- Viết hoa tên các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội:
Với tên các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội,…chúng ta
viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu tiên và các chữ cái đầu của các âm tiết
đầu trong các từ nêu lên tính chất riêng biệt của tên.
Ví dụ: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Sở Kế hoạch và Đầu tư,…
- Viết hoa tu từ:
Đây là hình thức dùng chữ viết hoa nhằm làm tăng màu sắc biểu cảm
trong văn bản. Một số hình thức viết hoa tu từ phổ biến:
15
+ Những từ ngữ liên quan đến các đối tượng, sự kiện là niềm tự hào của
dân tộc, đất nước.Ví dụ: Người (chỉ Bác Hồ), Cách mạng Tháng Tám,
Chiến thắng Điện Biên Phủ,…
+ Tên các chức vụ cao cấp của Đảng và Nhà nước: Tổng Bí thư, Chủ
tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ,…
+ Các danh hiệu cao quý được công nhận như: Nhà giáo Nhân dân,
Nghệ sỹ Ưu tú, Anh hùng Lao động,…
Hiện nay, trên báo chí đang tồn tại khá nhiều lỗi về viết hoa không đúng
cách, phần lớn là lỗi viết hoa tên của các cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị -
xã hội. Có thể điểm một vài ví dụ để minh chứng cho vấn đề này:
Sở Văn hóa thông tin (đúng ra phải là Sở Văn hóa - Thông tin);
Hội nhà báo (phương án đúng là Hội Nhà báo);
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( viết đúng là Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam);
c) Dấu câu trong tiếng Việt:
Dấu câu là một thành phần không thể thiếu được trong bất kỳ một văn bản
nào, cho dù văn bản đó chỉ gồm một câu hay dài hàng chục trang. Hiện nay
trong tiếng Việt tồn tại 10 loại dấu câu, bao gồm: dấu chấm (.), dấu chấm hỏi
(?), dấu chấm than (!), dấu phẩy (,), dấu chấm phẩy (;), dấu chấm lửng (…),
dấu gạch ngang (-), dấu hai chấm (:), dấu ngoặc đơn (( )), dấu ngoặc kép (“ ”).
- Dấu chấm: đứng ở cuối các câu trần thuật, ví dụ:
Chúng đi xe hiện đại, sử dụng điện thoại di động hiện đại, sử dụng intenet
siêu tốc và máy vi tính hiện đại. Ngay cả đồ chơi và trò chơi chúng cũng không
còn chơi những đồ chơi và trò chơi của các thế kỉ trước
(Cần sự nổi dậy của tư duy khoa học; Dantri.com, 08/09/2008)
- Dấu chấm hỏi: đứng ở cuối câu hỏi, ví dụ:
Vậy theo ông, những đòi hỏi bức xúc đó là gì?
Dấu chấm hỏi được đặt trong ngoặc đơn thể hiện sự hoài nghi, ví dụ:
16
Vậy mà vị trưởng phòng nọ khẳng định ông ta không hề hay biết về chuyện này (?)
(Báo lao động)
- Dấu chấm than: dùng để kết thúc câu cảm thán hay câu cầu khiến, ví dụ:
Hãy giúp họ kéo dài thêm sự sống!
(Báo Văn hoá)
Bên cạnh đó, dấu chấm than còn được dùng trong cả câu gọi và đáp, ví dụ:
- Hoàng!
-Vâng!
Nếu dấu chấm than được dùng trong ngoặc đơn (có thể được kèm với dấu
chấm hỏi) thì nó sẽ biểu đạt sắc thái ngạc nhiên hay mỉa mai, châm biếm, ví dụ:
Một giám đốc bệnh viện nói rằng tình trạng xuống cấp của các cơ sở y
tế cũng giống như bệnh ung thư, chưa có thuốc chữa (!)
- Dấu phẩy: dùng để phân cách với các vế câu, các thành phần cùng loại
hay nòng cốt câu với các thành phần phụ…, ví dụ:
Bố mất sớm, mẹ tần tảo nuôi Phương ăn học, nên em rất có ý thức.
(Hãy cùng nhau giành lấy sự sống của em Phương; CAND, 5/5/2006)
- Dấu chấm phẩy: được dùng để phân cách các vế câu đã trọn vẹn về mặt
cú pháp nhưng vẫn có quan hệ ý nghĩa khăng khít với nhau (khiến người ta
không muốn tách chúng thành các câu độc lập), hoặc để phân tách các phần
có quan hệ đẳng lập mà ở đó dấu phẩy đã được sử dụng.
Ví dụ:
“Thôi thì đủ mọi chuyện từ việc không có nước sạch: Cả nhà tôi không
dám ăn phở trong phường; rửa xe máy cũng chạy tít vào trong phố; có dùng
dầu gội loại xịn thì tóc vẫn cứ bết bết. Không có nước cũng sinh ra lắm bệnh,
Hà Nội xuất hiện loại dịch nào thì phường Định Công này dẫn đầu đủ cả: sốt
xuất huyết, tiêu chảy…”.
(Sống ở Thủ đô vẫn thiếu nước sạch hàng chục năm; Vietnamnet, 04/03/2009)
17
- Dấu chấm lửng: có thể đứng ở cả 3 vị trí: đầu, giữa và cuối câu với
các chức năng như: biểu thị lời nói bị ngắt quãng do xúc động; biểu thị sự
liệt kê chưa hết; biểu thị sự lược bớt những phần nào đó ở phía trên; làm
giãn nhịp câu văn, chuẩn bị cho sự xuất hiện của những từ ngữ mang nội
dung bất ngờ,…Ví dụ:
Laptop siêu nhẹ tung bay trong gió, sơn khô siêu tốc, phần đất của người
không hút thuốc trong nghĩa địa trống trơn là những quảng cáo được độc giả
bầu chọn là sáng tạo nhất.
(24 quảng cáo sáng tạo nhất; dantri.com)
Đến ngựa cũng có…ria
(Chuyện lạ; dantri.com)
- Dấu gạch ngang: dùng để phân biệt các thành phần chêm xen, báo hiệu
bắt đầu lời đấu thoại, biểu thị sự liệt kê, diễn đạt ý “từ…đến…”.
Ví dụ:
Trả lời phỏng vấn từ Viện Wellspring - tọa lạc trên đỉnh Blue Ridge của
bang Bắc Carolina, Georgia nói: “Tôi không chỉ thay đổi về mặt hình thể mà cả
tính cách. Tôi sống hòa đồng hơn, hạnh phúc và tự tin hơn. Tôi không thể tin
mình lại trở nên nhanh nhẹn như thế”.
(Thiếu nữ bự nhất nước Anh đã giảm được 77 kg; dantri.com, 15/04/2009)
- Dấu hai chấm: dùng để chỉ phần đứng sau có chức năng thuyết minh chú
giải cho phần đứng trước, hoặc báo hiệu một sự liệt kê.
Ví dụ:
“Hà Lội”: “Sóng” vô tình vỗ bạc đầu người
(“Hà Lội”: “Sóng” vô tình vỗ bạc đầu người; dantri.com, 03/11/2008)
- Dấu ngoặc đơn: dùng để phân cách phần chú thích với các phần khác
hoặc đóng khung bộ phận chỉ nguồn gốc lời trích dẫn. Ví dụ:
18
Ông Hồ Phúc Hợp - Chủ tịch UBND huyện Quỳnh Lưu cho hay, chiều nay
(27/4), UBND cùng các tổ chức đoàn thể trong toàn huyện đã có mặt tại gia
đình ông Nguyễn Văn Hải, xã Tiến Thủy (huyện Quỳnh Lưu) để cùng gia đình
và bà con làng xóm đưa ông Hải về nơi an nghỉ cuối cùng.
(Vớt được xác một trong hai ngư dân mất tích; dantri.com, 27/04/2009)
- Dấu ngoặc kép: dùng để đánh dấu lời trích dẫn trực tiếp; đóng khung tên
riêng, tên tác phẩm; đánh dấu những từ ngữ được hiểu theo nghĩa khác…
Ví dụ:
Liên quan đến vụ 3 xe sang “chập” biển tứ quý 8888, Đại tá Trần Anh
Dũng - Giám đốc Công an tỉnh Vĩnh Phúc khẳng định: “Việc Phòng CSGT cấp
đổi biển số tứ quý 8 cho 3 xe là chưa đúng và sẽ kỉ luật những cán bộ liên quan
của phòng này”.
(Thu hồi biển số 88H-8888, kỉ luật cán bộ liên quan; dantri.com, 27/4/2009)
Ngoài 10 loại dấu câu đã liệt kê ở trên, còn có một số cách ghép các dấu
câu với nhau tạo nên sắc thái biểu cảm cao hơn. Ví dụ như: dấu “?!” biểu thị
sự hoài nghi và ngạc nhiên trước một sự việc gì đó.
Lỗi sai về dấu câu:
Các lỗi sai về dấu câu thường gây trở ngại rất lớn cho người đọc. Chỉ
thiếu hoặc thừa một dấu nào đó thôi cũng làm cho câu trở nên khá mơ hồ
về nghĩa.
Ví dụ:
Khi bị tiêu chảy, uống nước muối pha đường không được uống kháng sinh.
Trong ví dụ trên, do thiếu một dấu phẩy nên câu văn trở nên khó hiểu.
Người đọc không hiểu phải uống nước muối pha đường hay uống kháng sinh
khi bị tiêu chảy. Nên chữa lại thành: “Khi bị tiêu chảy, uống nước muối pha
đường, không được uống kháng sinh.”
19
Còn một lỗi sai cần được lưu ý, đó là lỗi lẫn lộn chức năng của các dấu
câu. Nguyên nhân có thể do người viết vô tình viết sai hoặc không hiểu rõ
chức năng của từng dấu câu, dẫn đến dùng dấu câu sai vị trí và mục đích.
Ví dụ:
Cơ quan an ninh đang điều tra xem trước giải phóng ông làm gì? Ở đâu?
Hai dấu chấm hỏi ở ví dụ trên không thích hợp vì đây là câu tường thuật.
Cần sửa: “Cơ quan an ninh đang điều tra xem trước giải phóng ông làm
gì, ở đâu.”
III - GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT TRÊN BÁO CHÍ
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh tiếp thụ và Việt hóa được
nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói, chữ viết nước ngoài, thì sự trong sáng của
tiếng Việt đang bị ảnh hưởng tiêu cực. Lần giở các trang báo, nghe đài, xem
truyền hình, đọc blog, diễn đàn thậm chí trong văn bản hành chính đều có hiện
tượng lạm dụng từ tiếng Anh, như: Festival (liên hoan), Building, Villa (nhà cao
tầng, biệt thự), scandal (bê bối), sale off (hạ giá), fair play (chơi đẹp), website
(trang điện tử) Nghiêm trọng hơn là kiểu dùng từ “nửa nạc nửa mỡ” của giới
trẻ hiện nay: hok, mài, thía, nì, lém, pờ zồ, xì tin, chín ích,…thứ ngôn ngữ mà
chỉ có họ mới hiểu.
Sự lạm dụng, lai căng như vậy chẳng những làm mờ đục tiếng Việt, mà còn
làm giảm hiệu quả bài của viết, bài nói, bởi đại đa số người dân, nhất là những
người lao động, không biết tiếng nước ngoài.
Trong những năm gần đây, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy thứ ngôn ngữ lai
căng kể trên ở các tờ báo nổi tiếng dành cho học sinh, sinh viên như Hoa Học Trò,
Sinh Viên, 2!…Phải chăng những báo này chịu “uốn mình” theo xu hướng của một
bộ phận giới trẻ để rồi quên mất trách nhiệm định hình ngôn ngữ cho độc giả ?!
20
* Trách nhiệm của người làm báo trong việc giữ gìn sự trong sáng của
Tiếng Việt:
- Nhà báo cần nắm vững những kiến thức cơ bản liên quan tới việc sử dụng
tiếng Việt, bao gồm: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách. Chỉ khi nắm bắt
được, hiểu được những kiến thức về ngôn ngữ tiếng Việt, nhà báo mới có thể viết
đúng, nói đúng; chưa viết đúng, nói đúng thì cũng chưa thể viết hay được.
- Nhà báo cần hạn chế tối đa việc vay mượn những từ ngữ nước ngoài. Nó
không chỉ gây cản trở đối với đối tượng độc giả không biết ngoại ngữ mà còn làm
cho bài báo trở nên khó hiểu khi dùng sai nghĩa của từ.
- Nhà báo cần có một trình độ ngoại ngữ nhất định. Nó mang đến cho họ rất
nhiều lợi ích, nhất là trong thời kỳ đa phương hoá, toàn cầu hoá như hiện nay. Bên
cạnh đó, khi đã có ngoại ngữ, nhà báo có thể quy chiếu một cách chính xác những
từ, tiếng nước ngoài sang tiếng Việt. Các ngoại ngữ phổ biến như Anh, Pháp,
Nga đều có tính khoa học và chính xác cao. Học được điều này sẽ giúp cho nhà
báo sử dụng tiếng Việt một cách khúc chiết, mạch lạc, tránh sự dài dòng, cầu kỳ
không cần thiết.
21
IV - KẾT LUẬN
Những vấn đề ngôn ngữ xoay quanh hai loại hình báo kể trên mới
chỉ nghiêng về phương diện chữ viết - phương diện ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình gìn giữ tiếng Việt trong thời đại hiện nay. Nhưng
nói về ngôn ngữ báo chí, chúng ta còn phải kể đến ngôn ngữ nói của
người dẫn chương trình trên sóng phát thanh và truyền hình. Tất
nhiên, đó lại là một vấn đề “nhức nhối” khác của ngôn ngữ báo chí,
cần có sự quan tâm đúng mực của đội ngũ những người làm báo.
Ngôn ngữ của một dân tộc là ngôn ngữ đa bản sắc, đặc trưng cho
văn hoá của đất nước. Cho nên, người ta vẫn luôn quan niệm việc sử
dụng ngôn ngữ bao giờ cũng bộc lộ tầm vóc văn hoá của một dân tộc.
Báo chí lại là môi trường rộng lớn nhất và được xem là mẫu mực nhất để
ngôn ngữ dân tộc có thể phát huy nhiệm vụ cao cả của nó. Vì thế, người
làm báo luôn phải ý thức được trách nhiệm của mình trong công cuộc
bảo tồn và phát triển tiếng Việt.
********************
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
*****
1. Tài liệu đọc “Nhập môn Báo chí”, Khoa Quan hệ Công chúng và
Quảng cáo, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
2. Cuốn “Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại
chúng”, T.s Hoàng Anh, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Cuốn “Một số vấn đề về ngôn ngữ trên báo chí”, T.s Hoàng Anh,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Nghề báo - />5. Nhà báo Việt Nam - />6. Dân trí - />7. Vietnamnet - />8. Google - />9. Xa lộ - />23