Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Luận văn: Thực trạng, tiềm năng và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất và xuất khẩu cao su của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.45 MB, 79 trang )

1
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Lời nói đầu
Khi đánh giá các thành tựu kinh tế đã đạt được trong vòng 15 năm qua kể từ khi
Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới và áp dụng chính sách mở cửa, chúng
ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng và những đóng góp to lớn của ngành Nông
nghiệp trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Từ mục tiêu ban đầu là sản xuất
lương thực đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đảm bảo an ninh lương thực, sản
xuất nông nghiệp của ta đã không ngừng phát triển và trở thành một trong những nguồn
thu ngoại tệ quan trọng phục vụ công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Các
sản phẩm nông sản xuất khẩu đã có vị trí vững chắc trong cơ cấu xuất khẩu của nước ta,
cụ thể là có tới 4 mặt hàng nông sản liên tục được xếp trong 10 sản phẩm xuất khẩu hàng
đầu các năm 2000 và 2001.
Trong hơn 10 năm đổi mới, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam không ngừng tăng lên:
Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1986-1990 đạt 7031,7 triệu USD; giai đoạn
1991-1995 đạt 37403 triệu USD, tăng 5,32 lần so với giai đoạn 1986-1990.
Đạt được kết quả đáng khích lệ trờn cú sự đóng góp không nhỏ của mặt hàng cao su
xuất khẩu. Với điều kiện tự nhiên (đất đai, khí hậu) phù hợp với việc trồng cao su trên quy
mô lớn, lực lượng lao động dồi dào và vị trí địa lý thuận lợi cho giao dịch xuất khẩu, Việt
Nam có đủ lợi thế để phát triển ngành cao su. Trên cơ sở các điều kiện thuận lợi đó, hàng
năm ngành cao su Việt Nam tạo ra doanh thu khoảng 2000-2500 tỷ đồng từ mức sản
lượng xấp xỉ 200 nghìn tấn, trong đó 80% dành cho xuất khẩu. Lượng giá trị xuất khẩu
khá ổn định, khoảng 120-150 triệu USD/năm đã đưa cao su trở thành một trong 4 mặt
hàng cây công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất ở nước ta. Từ năm 1995 tới nay,
xuất khẩu cao su luôn chiếm tới 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng cây công
nghiệp. Thị trường xuất khẩu của ngành cũng ngày càng được củng cố và mở rộng. Vị thế
của Việt Nam trên thị trường cao su thế giới ngày càng được nâng cao. Trong những năm
tới đây Việt Nam có khả năng trở thành nước đứng thứ 3 thế giới về sản xuất và xuất khẩu
cao su.
Trong thời gian qua, thực tiễn sản xuất và xuất khẩu cao su đã bộc lé một số khó
khăn, tồn tại như: quy mô xuất khẩu còn hạn chế, trình độ sản xuất yếu kém, chất lượng


2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
sản phẩm xuất khẩu chưa cao, khả năng cạnh tranh thấp và đặc biệt là công tác phát
triển thị trường còn chưa được chú ý đúng mức dẫn đến việc các doanh nghiệp xuất khẩu
của ta thua thiệt nhiều trên thương trường, làm giảm đáng kể hiệu quả xuất khẩu. Do vậy,
việc phân tích đánh giá thực trạng và tìm ra giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đối với mặt
hàng cao su xuất khẩu là hết sức cần thiết, mang tính thời sự và cần được nghiên cứu một
cách kỹ lưỡng và nghiêm túc. Xuất phát từ quan điểm này, nên em đã mạnh dạn lùa chọn
viết khoá luận tốt nghiệp với đề tài:
“THỰC TRẠNG, TIỀM NĂNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CAO SU CỦA VIỆT NAM”
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm tập trung phân tích, đánh giá tình hình sản xuất
và xuất khẩu cao su của Việt Nam trong những năm qua và triển vọng sản xuất và xuất
khẩu cao su trong thời gian tới. Thông qua đó đề xuất một số giải pháp hữu hiệu nhằm đẩy
mạnh hoạt động sản xuất cao su và phát huy hơn nữa thế mạnh trong hoạt động xuất khẩu
cao su.
Nội dung nghiên cứu của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thị trường và vai trò của hoạt động xuất khẩu cao su trong
nền kinh tế quốc dân. Lý luận chung về thị trường và vai trò của hoạt động
xuất khẩu cao su trong nền kinh tế quốc dân.
Chương 2: Đánh giá thị trường cao su thế giới và thực trạng sản xuất, xuất khẩu cao su
của Việt Nam. Đánh giá thị trường cao su thế giới và thực trạng sản xuất,
xuất khẩu cao su của Việt Nam.
Chương 3:Tiềm năng, định hướng phát triển và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động sản
xuất và xuất khẩu cao su của Việt Nam. Tiềm năng, định hướng phát triển
và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động sản xuất và xuất khẩu cao su của
Việt Nam.
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trường Đại học Ngoại
thương đã trang bị cho em những kiến thức bổ ích về kinh tế ngoại thương trong những
năm tháng em được học tập tại trường. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới

thầy giáo-tiến sĩ Nguyễn Hữu Khải đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em rất nhiều để em
hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Do kiến thức thực tế còn chưa sâu, thời gian nghiên cứu không dài và lĩnh vực nghiên
3
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
cứu khá rộng, bài khoá luận tốt nghiệp này chắc chắn không khỏi nhiều thiếu sót và còn ít
nhiều hạn chế. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn.
4
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU CAO SU TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
1. Khái quát về thị trường và thị trường xuất khẩu
1.1. Khái niệm chung về thị trường
Thị trường gắn liền với nền kinh tế hàng hoá có lịch sử hình thành và phát triển
hàng trăm năm nay. Tuy vậy, việc tìm ra được quan điểm thống nhất để định nghĩa và khái
quát về thị trường vẫn còn là vấn đề đang được tranh luận của các nhà kinh tế học. Các
nhà kinh tế đã đưa ra rất nhiều khái niệm về thị trường trong đó thị trường được xem xét
đánh giá dưới nhiều hình thức, nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau:
*/ Quan điểm 1: Theo quan điểm của các nhà kinh tế chính trị học Mác - Lênin thì “thị
trường là một phạm trù kinh tế, nó tồn tại một cách khách quan cùng với sự tồn tại và phát
triển của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thị trường luôn gắn liền với nền sản
xuất hàng hoá và hình thái phân công lao động xã hội. Thị trường được coi là sự tổng hoà
các điều kiện để thực hiện việc lưu thông hàng hoá.
*/ Quan điểm 2: Theo Hiệp hội các nhà quản trị Hoa Kỳ thì thị trường là “môi trường
hợp tác giữa nhiều tác nhân, lực lượng và điều kiện khác nhau trong đó người mua và
người bán đưa ra các quyết định chuyển hàng hoá và dịch vụ tới tay người mua”. Quan
điểm này cho rằng thị trường là một môi trường bao gồm nhiều yếu tố, lực lượng và các
tác nhân khác nhau cùng tác động và tham gia vào tiến trình tiến trình chuyển hàng hoá và

dịch vụ từ người bán tới người mua. Ở đây thị trường được gắn với một khoảng thời gian
và không gian nhất định và nhất thiết phải có đủ hai yếu tố là: người bán và người mua.
*/ Quan điểm 3: Theo quan điểm marketing thì “thị trường bao gồm tất cả các khách
hàng tiềm tàng cựng cú một mong muốn hay nhu cầu cụ thể, sẵn sàng và có khả năng
tham gia trao đổi để thỏa mãn một nhu cầu hay mong muốn đú”. Quan điểm này đặc biệt
chú trọng tới vai trò của người mua, coi người mua là yếu tố quyết định thị trường.
Như vậy, mỗi quan điểm được nêu ra ở trên đều tiếp cận khái niệm thị trường trên
một phương diện khác nhau, song cả ba quan điểm trên đều cho thấy rất rõ mối quan hệ
5
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
hữu cơ giữa các yếu tố như sản phẩm, lưu thông hàng hoá và thị trường. Nếu không có thị
trường thì không có sản xuất hàng hoá và ngược lại thị trường chỉ hình thành, tồn tại và
phát triển trong nền sản xuất hàng hoá. Người bán và người mua được coi là các yếu tố
không thể thiếu được của thị trường và đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nên
thị trường. Ngoài ra, các quan điểm còn cho ta thấy khái niệm thị trường cũng không thể
tách rời phân công lao động xã hội, bởi lẽ phân công lao động xã hội là cơ sở chung của
mọi nền sản xuất hàng hoá; ở bất kỳ đâu và bất cứ khi nào có phân công lao động xã hội
và sản xuất hàng hoá thi có sự tồn tại của thị trường. Hơn nữa, trình độ chuyên môn hoá
của lực lượng sản xuất và phân công lao động còn có ảnh hưởng quyết định tới quy mô thị
trường.
1.2. Khái niệm thị trường xuất khẩu:
Cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau khi định nghĩa về thị trường xuất khẩu tuỳ
theo mục đích và cách tiếp cận. Dưới đây xin đưa ra hai khái niệm chung nhất về thị
trường xuất khẩu ở hai cấp độ khác nhau:
*/ Khái niệm 1: Thị trường xuất khẩu là lĩnh vực trao đổi hàng hoá giữa các đối tác, bạn
hàng thuộc các quốc gia và khu vực khác nhau trên thế giới dựa trờn phân công lao động
quốc tế.
*/ Khái niệm 2: Thị trường xuất khẩu của một doanh nghiệp là thị trường mà tại đó doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động xuất khẩu sản phẩm của mình nhằm đạt được mục đích
thu lợi nhuận.

Như vậy, cho dù được định nghĩa một cách tổng quát như ở khái niệm 1 hay trên bình
diện một doanh nghiệp xuất khẩu như ở khái niệm 2, thì nhìn chung thị trường xuất khẩu
trước hết vẫn phải là một “thị trường” với đầy đủ các đặc trưng của một thị trường như:
cung - cầu, giá cả, cạnh tranh Nhưng bên cạnh đó thị trường xuất khẩu cũng có những
nét đặc trưng riêng biệt mà các thị trường khác không có, ví dụ như tính “quốc tế”, nghĩa
là thị trường nằm ngoài phạm vi một quốc gia hoặc phụ thuộc và phân công lao động quốc
tế Suy cho cùng, vấn đề thực chất của thị trường xuất khẩu chính là khả năng trao đổi
sản phẩm xã hội của một quốc gia này với một quốc gia khác về mặt giá trị và giá trị sử
dụng.
1.3. Đặc điểm của thị trường xuất nhập khẩu thế giới
Trong vòng nửa thế kỷ qua, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang làm
6
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
thay đổi sâu sắc bộ mặt nền kinh tế thế giới. Cuộc cách mạng này đã tạo ra một lực lượng
sản xuất hùng hậu và nguồn của cải vật chất dồi dào, đồng thời nó cũng thúc đẩy sự phát
triển của các mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các quốc gia và khu vực trên giới. Hiện
nay, trên thế giới đang hình thành và phát triển quá trình xã hội hoá sản xuất, khu vực hoá
và toàn cầu hoá thị trường. Trong bối cảnh biến động không ngừng của nền kinh tế thế
giới, thị trường thế giới nói chung và thị trường xuất nhập khẩu nói riêng có một số đặc
điểm nổi bật sau:
*/ Thị trường toàn cầu đang được mở rộng và phát triển mạnh mẽ với xu hướng chủ động
hội nhập của các quốc gia. Nhiều quốc gia xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu, tiến
hành tự do hoá thương mại và tham gia vào các định chế, liên kết khu vực và toàn cầu. Tất
cả các yếu tố này đã góp phần làm cho tổng kim ngạch xuất nhập khẩu toàn thế giới tăng
nhanh, thậm chí còn tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tự do hoá thương mại
đang dần dần thu hẹp ranh giới giữa thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
*/ Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng các mặt hàng nông sản
và nguyên liệu truyền thống, tăng tỷ trọng các mặt hàng trang thiết bị máy móc và công
nghệ: Trên thị trường thế giới, tuy nhu cầu về nguyên nhiên liệu, lương thực thực phẩm
vẫn tăng nhưng tỷ trọng của các mặt hàng này trong tổng kim ngạch buôn bán toàn cầu lại

có xu hướng giảm. Các nước đang phát triển và kém phát triển đã và đang đưa ra nhiều
chính sách và mô hình phát triển kinh tế nhằm hạn chế sự lệ thuộc vào nước ngoài mà ưu
tiên hàng đầu là phát triển và hiện đại hoá ngành nông nghiệp. Nhưng phần lớn các quốc
gia này lại thiếu ngoại tệ để nhập khẩu trang thiết bị, máy móc cần thiết để tiến hành công
nghiệp hoá trong khi các nước phát triển lại tiếp tục duy trì chính sách bảo trợ nông
nghiệp ở mức cao.
Tỷ trọng buôn bán của các mặt hàng nguyên liệu truyền thống và có nguồn gốc tự
nhiên giảm mạnh, do sự xuất hiện của các nguyên liệu thay thế và các quốc gia cấm hoặc
hạn chế xuất khẩu các loại nguyên liệu này. Trong khi đó tình hình buôn bán các mặt hàng
dầu mỏ, khí đốt tương đối ổn định, giá cả có xu hướng tăng nhưng không có đột biến.
Hiện nay, khoa học kỹ thuật chưa tìm ra được nguồn năng lượng khác có thể thay thế hai
mặt hàng này, trong khi nhu cầu tiêu thụ khí đốt và các sản phẩm hoá dầu tăng mà trữ
lượng lại có hạn. Do vậy, giá cả sẽ tăng để điều chỉnh cân bằng cung-cầu của nhóm mặt
hàng này. Tỷ trọng buôn bán của các mặt hàng trang thiết bị, máy móc tăng mạnh trong
vòng hai thập kỷ qua và có chiều hướng tiếp tục tăng trong thời gian tới nhưng với tốc độ
7
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
chậm hơn.
Ba trung tâm kinh tế lớn trên thế giới là Tây Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản sẽ vẫn đi đầu
trong lĩnh vực xuất khẩu công nghệ nguồn. Một số nước phát triển khỏc, các nước Đông
Âu và nhóm NICs sẽ chiếm thị phần đáng kể trong hoạt động xuất khẩu các công nghệ
trung gian. Bên cạnh đó, hoạt động chuyển giao công nghệ đã qua sử dụng hoặc công
nghệ sử dụng nhiều lao động sẽ vẫn tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Đây là cơ hội
nhưng cũng là một thách thức đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
*/ Khoa học - công nghệ phát triển nhanh ảnh hưởng tới vòng đời của các sản phẩm trên
thị trường. Khoảng cách về thời gian từ khâu nghiên cứu tới ứng dụng vào thực tiễn được
rút ngắn, và hàng loạt công nghệ và sản phẩm mới xuất hiện. Vòng đời sản phẩm hàng
hoỏ trờn thị trường thế giới tăng lên có tác động đến việc tính toán cơ cấu và quy mô sản
xuất cũng như công tác marketing và tổ chức thị trường của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, đặc biệt là ở các nước thực hiện chính sách kinh tế mở.

*/ Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển nhanh và không đồng đều giữa các quốc
gia, một số quốc gia thực hiện cải cách cơ cấu kinh tế gắn với tiến trình chuyển giao công
nghệ, quá trình này cũng góp phần làm chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu giữa các quốc
gia. Tuy vậy, muốn nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu để vượt
lên trình độ phát triển đòi hỏi các quốc gia phải tính toán, lùa chọn lĩnh vực đầu tư phát
triển sao cho vừa có thể khai thác được nguồn nội lực sẵn có trong nước lại vừa tận dụng
được các nguồn lực từ bên ngoài.
*/ Trong trào lưu hội nhập, quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra khá nhanh
và phức tạp, các nước phải vận động theo trào lưu chung đó là tự do hoá thương mại trên
thị trường quốc tế, điều này tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt.
Từng quốc gia cụ thể phải tự xác định cho mình một lộ trình phù hợp nhằm bảo vệ một
cách tối đa các lợi ích quốc gia và chủ quyền dân tộc. Tự do hoá thương mại không loại
trừ việc áp dụng các chính sách bảo hộ thị trường và nền kinh tế trong nước. Quá trình
quốc tế hoá tuy mở ra một thị trường toàn cầu rộng lớn nhưng đồng thời cũng tạo ra một
môi trường cạnh tranh gay gắt, đặc biệt là các sản phẩm kỹ thuật và địa vị tiền tệ quốc tế.
*/ Xuất hiện và phát triển xu hướng liên kết, hợp tác giữa các công ty nhằm đáp ứng các
yêu cầu tích tụ và tập trung tư bản, các yêu cầu về nghiên cứu, phát triển và áp dụng các
công nghệ mới, cũng như việc tổ chức và phát triển thị trường để giành ưu thế cạnh tranh.
Từ đây tạo ra sự hình thành và phát triển của rất nhiều các công ty xuyên quốc gia lớn đi
8
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
kèm với sự ra đời của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các yêu cầu về nghiên cứu, phát triển
và áp dụng các công nghệ mới, cũng như việc tổ chức và phát triển thị trường để giành ưu
thế cạnh tranh. Điều này đã dẫn đến sự hình thành và phát triển của các tập đoàn xuyên
quốc gia lớn, hoạt động trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế hoặc các lĩnh vực
có dung lượng thị trường hay doanh thu lớn. Mới chỉ ba thập kỷ kể từ khi khái niệm
“Công ty đa quốc gia” ra đời, đến nay đó có khoảng 30.000 công ty thuộc loại này đang
hoạt động trên thị trường thế giới, khống chế gần hết thị trường công nghệ cao cũng như
một số hoạt động quan trọng trong thương mại và đầu tư. Tuy vậy, cùng với xu hướng
hình thành và phát triển của các tập đoàn xuyên quốc gia là sự ra đời và phát triển rất

nhanh của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia một cách rất năng động vào thị
trường thế giới. Loại hình doanh nghiệp này là nhân tố chính tạo nên các mạng lưới nối
liền dòng thương mại giữa các quốc gia.
*/ Cuối cùng là lĩnh vực thông tin: trong thời gian qua công nghệ thông tin đó cú những
bước phát triển vượt bậc, nó không chỉ làm biến đổi sâu sắc nội dung của hoạt động
thương mại mà còn làm cho hình thái tổ chức và nghiệp vụ thương mại trên thị trường thế
giới ngày càng hoàn thiện và phát triển. Có thể kể ra một vài ứng dụng của công nghệ
thông tin trong mậu dịch quốc tế ngày nay nh- E-commerce, các tiện Ých của Internet,
ứng dụng tin học trong hoạt động ngân hàng, thanh toán quốc tế, các dịch vụ viễn thông
2.Quan điểm của đảng và Nhà nước về mở rộng hoạt động ngoại thương của
nước ta trong thời gian qua. Quan điểm của đảng và Nhà nước về mở
rộng hoạt động ngoại thương của nước ta trong thời gian qua.
2.1. Ý nghĩa của chính sách phát triển thị trường
Không một quốc gia nào trên thế giới có thể tồn tại độc lập tách rời khỏi các quốc gia
khác, đặc biệt là trên bình diện kinh tế. Chính vì vậy, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại (nhất là trong lĩnh vực ngoại thương) là vấn đề hết sức quan trọng trong các chính
sách và chiến lược phát triển kinh tế của nước ta. Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đã được cải thiện và diễn ra
tương đối sôi động với mức tăng trưởng khá cao. Công tác tìm kiếm, thâm nhập và mở
rộng thị trường đã được coi trọng và có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển
của ngành ngoại thương. Có được chính sách thị trường đúng đắn có nghĩa là ta đã đảm
bảo được đầu ra cho sản phẩm xuất khẩu, tạo điều kiện khuyến khích và đẩy mạnh hoạt
9
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
động sản xuất và xuất khẩu, qua đó đảm bảo được kim ngạch nhập khẩu phục vụ cho quá
trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mở rộng thị trường xuất khẩu sẽ góp phần
tăng nguồn thu ngoại tệ, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân và đảm
bảo việc khai thác một cách có hiệu quả các lợi thế so sánh của sản phẩm. Bên cạnh đó,
xuất khẩu cũng kớnh thớch cỏc ngành kinh tế phát triển từ đó cải thiện đời sống nhân dân
thông qua việc tạo công ăn việc làm và tăng nguồn thu nhập. Ngoài ra, chính sách phát

triển thị trường còn là hướng đi quan trọng giỳp cỏc doanh nghiệp xuất khẩu trong nước
nắm bắt và cập nhật thông tin về thị trường thế giới để từ đó có thể xây dựng được chiến
lược tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế và nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại
thương.
Mục tiêu của chính sách phát triển thị trường không chỉ dừng lại ở việc tạo ra bước
phát triển mang tính đột phá cho nền kinh tế trong nước mà cũn cú vai trò hết sức quan
trọng trong việc tăng cường các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế. Nhờ có chính sách phát triển quan hệ thương mại đúng đắn trong thời gian
qua, Việt Nam đã thiết lập và phát triển được các mối quan hệ trong nhiều lĩnh vực và ở
các cấp độ khác nhau với hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như với
nhiều tổ chức quốc tế. Tất cả những thành công này đã được thể hiện rất rõ nét bằng
thành tựu phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian qua.
2.2. Quan điểm của Đảng và NN về phát triển thị trường XK hàng hoá
Xu hướng hoà nhập và quốc tế hoá đời sống kinh tế là một yêu cầu tất yếu đang diễn
ra trên phạm vi toàn cầu. Nhận thức rõ và đáp ứng nhu cầu của thời đại, Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã nhanh chóng xác định chiến lược phát triển kinh tế phù hợp với quan
điểm tự do hoá và mở cửa nhằm hội nhập nền kinh tế đất nước vào nền kinh tế thế giới.
Quan điểm hợp tác quốc tế của Đảng và Nhà nước ta (như đã được thể hiện rõ trong các
văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI-VIII) là “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả
các nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
hợp tác đôi bên cùng có lợi, và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”. Về quan
hệ kinh tế đối ngoại ta cũng đề ra phương châm “đa phương hoá quan hệ buôn bán và đa
dạng hoá thị trường”, nhằm tăng cường quan hệ buôn bán với các nước trên thế giới. Mục
tiêu của phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá là khai thác mọi tiềm năng sẵn có,
tạo ra đối trọng cạnh tranh nhiều chiều, nhiều mặt giữa các đối tác nước ngoài trong quan
hệ làm ăn với Việt Nam. Để thực hiện phương châm này một cách có hiệu quả cần lưu ý
10
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
các điểm sau:
*/ Thứ nhất: Quá trình đa dạng hoá và đa phương hoá phải được thực hiện với quy mô

ngày càng lớn và trên phạm vi ngày càng rộng. Tuy nhiên, cần phải phát triển cú lùa chọn
các sản phẩm mòi nhọn và các mặt hàng chủ lực; định hướng và ưu tiên phát triển các thị
trường trọng điểm; đồng thời cần phải chọn các đối tác làm ăn có tiềm lực về vốn, công
nghệ, thị trường và thật sự muốn đầu tư và phát triển quan hệ hợp tác với Việt Nam.
*/ Thứ hai: Luôn chú trọng đến hiệu quả, coi hiệu quả là chuẩn mực để lùa chọn đối tác
và lĩnh vực hợp tác. Khi đánh giá hiệu quả, cần xem xét đánh giá một cách đồng bộ trên
tắt cả các mặt: kinh tế, xã hội, kỹ thuật, tài chính Trong điều kiện trước mắt, chúng ta ưu
tiên đánh giá hiệu quả về kinh tế - xã hội trước sau đó mới xét đến các hiệu quả khác. Tuy
vậy, tuỳ theo tình hình thực tế của từng hoạt động hợp tác kinh doanh hay chương trình,
dự án cụ thể chúng ta có thể đưa ra cỏc tiờu chí đánh giá hiệu quả hợp lý và toàn diện, phù
hợp với mục tiêu đã đề ra.
*/ Thứ ba: Phải luôn nắm thế chủ động khi tiến hành thực hiện đa dạng hoá, đa phương
hoá. Chủ động trong phương hướng phát triển, trong việc xác định giải pháp và tính toán
lợi Ých, còng nh- chủ động trong việc ứng phó với những biến động phức tạp của thị
trường thế giới.
Năm 2001, Nhà nước đã có nhiều thay đổi trong chính sách xuất nhập khẩu thể hiện
qua việc mở rộng quyền xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, góp phần
làm cho thị trường hàng hoá thông thoáng hơn. Trước đây, chỉ một số doanh nghiệp xuất
khẩu đầu mối do Nhà nước quản lý được phép xuất khẩu và tất cả hàng hoá xuất nhập
khẩu đều phải xin giấy phép của Bộ thương mại. Nhưng hiện nay, Nhà nước đã cho phép
mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Nhà nước cũng mới ban
hành một số chính sách và cơ chế mới nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu.
Các động thái này là một phần trong cố gắng nhằm giảm thiểu hàng rào thuế quan hay
nói cách khác là sẽ áp dụng các loại thuế và phí hợp lý đối với các mặt hàng xuất nhập
khẩu. Đây được coi là một phần quan trọng trong chiến lược hội nhập quốc tế. Hiện nay
Chính phủ có chủ trương bỏ dần các hàng rào bảo hộ đối với một số hàng hoá sản xuất
trong nước, ví dụ như việc điều chỉnh lại thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu, máy
móc và trang thiết bị phục vụ sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu.
11

Kho¸ luËn tèt nghiÖp
II. VAI TRÒ CỦA VIỆC SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CAO SU ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ QUỐC DÂN.
Hoạt động sản xuất, xuất khẩu có một vai trò hết sức quan trọng trong bất kỳ nền
kinh tế nào, nhất là đối với các nước đang phát triển nh- nước ta. Xuất phát từ một nền
kinh tế dựa trờn sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, nên hoạt động xuất khẩu các mặt hàng
nông sản nh- cao su là một trong những nội dung chính trong quan hệ thương mại quốc tế
của Việt Nam.
Bên cạnh việc thực hiện chức năng tiêu thụ sản phẩm, hoạt động xuất khẩu cũn cú
cỏc vai trò không kém phần quan trọng khác như: tạo nguồn thu ngoại tệ để tái đầu tư và
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thức đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế; tham gia vào quá trình phân công lao động, tạo công ăn việc làm và
cải thiện đời sống nhân dân; và góp phần thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại
Dưới đây, chúng ta sẽ nghiên cứu từng vai trò này của hoạt động xuất khẩu các
mặt hàng nông sản nhằm xác định và đánh giá được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của
hoạt động này trong bức tranh tổng thể của nền kinh tế quốc dân.
1. Sản xuất cây cao su góp phần cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, đặc
biệt là công nghiệp chế biến.
Ở nước ta hiện nay, cây cao su là một trong số các cây công nghiệp chủ lực, việc phát
triển cao su từ trước tới nay vẫn góp một phần rất quan trọng vào việc cung cấp nguyên
liệu cho các ngành công nghiệp nước ta, nhất là các ngành công nghiệp chế biến, vốn vẫn
chiếm tới 80% giá trị sản xuất công nghiệp (năm 1997 giá trị sản xuất công nghiệp là
133685,1 tỷ đồng trong đó công nghiệp chế biến là 107220,3 tỷ tương đương với 80,2%).
Nguyên liệu cao su vốn rất cần thiết để sản xuất nhựa, săm lốp xe, đồng thời nó còn là một
trong bốn loại nguyên liệu xây dựng nền công nghệ hiện đại (cùng với dầu mỏ, than đá,
gang thép), sản xuất ra khoảng 5 vạn mặt hàng phục vụ đời sống.
2. Tích luỹ ngoại tệ cho việc nhập khẩu phục vụ quá trình công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước.
Vừa qua, đại hội Đảng VIII cũng đã đề ra mục tiêu “ra sức phấn đấu đưa nước ta

về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020”. Nh- vậy, công nghiệp hoá,
hiện đại hoỏ luụn là nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản trong chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế-xã hội của nước ta. Để thực hiện thành công nhiệm vụ to lớn này, chúng ta cần có
12
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
được một nguồn ngoại tệ hết sức lớn để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị và tư liệu sản
xuất phục vụ cho phát triển các ngành công nghiệp trong nước. Trong khi đó, hoạt động
xuất khẩu cao su của Việt Nam thời gian qua đã đem về một lượng ngoại tệ lớn. Chỉ riêng
năm 2001 vừa qua , ta đã xuất khẩu được 301 nghìn tấn cao su, trị giá 174,3 triệu USD,
chiếm tới 23,6% tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng cây công nghiệp của cả nước.
Hơn thế, đẩy mạnh xuất khẩu cũng góp phần làm tăng các nguồn vốn ngoại tệ khác từ
bên ngoài. Trong việc hoàn trả các khoản nợ nước ngoài đã đáo hạn, đẩy mạnh xuất khẩu
giúp bảo đảm được uy tín của nước ta để có thể tiếp tục được nhận các khoản vay mới.
Thêm nữa, các chủ nợ và các nhà đầu tư thường nhìn vào khả năng xuất khẩu của ta để
đánh giá khả năng hoàn trả nợ, cũng như tiềm năng phát triển thương mại. Gần đây, ngành
cao su Việt Nam rất được nhà nước quan tâm đầu tư phát triển nhằm khôi phục hoạt động
sản xuất và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Vì vậy hoạt động xuất khẩu cao su thực sự sẽ
đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tích luỹ đầu tư phục vụ quá trình thực hiện
công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam.
3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thúc đẩy sản xuất phát triển:
Trước tiên, xuất khẩu mặt hàng cao su cũng chính là tạo điều kiện thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ngay chính ngành sản xuất cây cao su và một phần hiện đại hoá
nền nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Một mặt, xuất khẩu cao su sẽ khuyến khích phát
triển các diện tích trồng cao su, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo
hướng tăng diện tích và tăng tỷ trọng mặt hàng cao su trong giá trị sản phẩm ngành trồng
trọt. Mặt khác xuất khẩu tăng và có hiệu quả sẽ thu hót được các nguồn vốn, kỹ thuật,
công nghệ từ nước ngoài vào chính lĩnh vực sản xuất, chế biến và xuất khẩu cao su góp
phần nâng cao năng lực sản xuất trong nước, hiện đại hoá nền sản xuất .
Xuất khẩu cao su tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi: xuất

khẩu cao su không những kéo theo các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu phát triển như
vận tải, bảo hiểm, thanh toán quốc tế mà còn tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp
chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng như săm lốp, nhựa và các ngành công
nghiệp sản xuất bao gãi, bao bì phát triển. Xuất khẩu cao su còn kích thích các ngành công
nghiệp cơ khí, hoá chất trong nước phát triển cung cấp máy móc, thiết bị, vật tư, phân
bón, thuốc trừ sâu cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Ngoài ra, như đã đề cập ở phần
trên, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn ngoại tệ nhập khẩu thiết bị, công nghệ hiện đại phát
13
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
triển các ngành kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất khẩu các sản phẩm lấy từ cây cao su tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ
góp phần cho ngành sản xuất cao su trong nước phát triển và ổn định. Các sản phẩm được
xuất khẩu có nghĩa là chúng không chỉ được tiêu thụ ở thị trường trong nước mà cả thị
trường thế giới. Đến lượt nó, thị trường được mở rộng sẽ lại duy trì cho sản xuất phát triển.
Vậy, xuất khẩu là biện pháp tốt nhất để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm đối với mặt
hàng cao su.
Ngoài ra, thông qua xuất khẩu, các mặt hàng của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh
trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Điều này tạo ra áp lực đòi hỏi chúng ta
phải đổi mới, tổ chức lại sản xuất nhằm tạo ra được sản phẩm có chất lượng tốt hơn với
giá cả hợp lý hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu khắt khe của thị trường thế giới. Qua
đó, nền sản xuất nông nghiệp của ta sẽ được cải thiện và có những bước phát triển nhảy
vọt về mọi mặt.
4. Sản xuất và xuất khẩu cao su góp phần tích cực giải quyết công ăn việc làm, xoá bỏ
các tệ nạn xã hội, góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
Sản xuất cao su trứơc nay vốn đã là ngành sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là lao
động thủ công. Hiện nay, ngành sản xuất cao su đã đào tạo và tạo việc làm cho trên 150
nghìn lao động. Đó là chưa kể tới việc nếu xuất khẩu cao su được đẩy mạnh sẽ thu hút
thờm một số lượng lớn lao động trong các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu như dịch
vụ vận tải biển, hàng không, bảo hiểm, ngân hàng Sản xuất và xuất khẩu cao su cũng
còn thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển như lắp ráp điện tử, sản xuất và lắp

ráp ụ-tụ, xe máy, các ngành công nghiệp chế biến và dịch vô giải quyết công ăn việc làm
cho hàng triệu lao động trong các ngành này, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội và
nâng cao mức sống cho nhân dân.
Bên cạnh đó, việc sản xuất và xuất khẩu cao su cũng giúp tạo ra thu nhập không phải
là nhỏ cho những người lao động hoạt động trong ngành, góp phần cải thiện đời sống cho
hơn nửa triệu lao động, thể hiện ở chỗ: phát triển cây cao su góp phần xoá đói giảm nghèo
ở các vùng nông thôn, phân bố lại dân cư, tạo ra các vùng trồng cao su tập trung nhằm
định canh định cư đồng bào các dân tộc ít người ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, xoá bỏ
được tệ đốt rừng làm nương rẫy; đồng thời đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, kỹ
thuật hạ tầng như giao thông, điện tử, các khu dân cư, khu kinh tế mới đưa nền văn minh
đến cỏc vùng dân tộc cũng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh
14
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
thần của người dân.
5. Xuất khẩu cao su góp phần củng cố mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế,
thương mại
Trước khi mở cửa nền kinh tế, Việt Nam ít có quan hệ với bên ngoài, đặc biệt là quan
hệ kinh tế đối ngoại, cao su nước ta hầu như chỉ được xuất sang Liên Xô (cũ) hoặc các
nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sau đại hội VI, với chính sách mở cửa và chủ
trương làm bạn với tất cả các nước, hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung và mặt hàng
cao su xuất khẩu nói riêng đã nhanh chóng có mặt ở một số nước khác, chủ yếu là thị
trường Trung Quốc và các nước Nam Á thể hiện những mối quan hệ buôn bán, hợp tác
kinh tế mới với bên ngoài. Năm 1995, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 100 nước,
trong năm đó mặt hàng cao su của Việt Nam đã bắt đầu được xuất sang thị trường Châu
Âu. Đến năm 1997, hàng hoá Việt Nam đã được xuất sang 106 nước, trong đó cao su xuất
sang hơn 30 nước. Như vậy, mặt hàng cao su xuất khẩu cùng với các mặt hàng cây công
nghiệp khỏc đó làm phong phú thị trường xuất khẩu, củng cố và phát triển các quan hệ với
các nước nhập khẩu.
6. Phát triển cao su thiên nhiên góp phần phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ môi
trường sinh thái.

Cao su là loại cây công nghiệp dài ngày thường được trồng thành những vùng
chuyên canh rộng lớn trên những vựng cú độ dốc cao. Trong khi đó, đất đồi núi nước ta lại
chiếm tỉ lệ lớn (3/4 diện tích tự nhiên) và 1/ 2diện tích này không có rừng bao phủ. Vì vậy,
cây cao su tá ra phù hợp và đang được chọn để phủ xanh đất trống, đồi trọc. Không chỉ thế,
theo kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế môi trường, trồng cao su sẽ là một giải pháp
bảo vệ môi trường sinh thái vì loại cây này tăng cường giữ ẩm, cải thiện nhiệt độ trong
không khí và trong đất; chống xói mòn, rửa trôi đất; hạn chế tốc độ gió do hình thành các
hệ đai rừng, cây che bóng; bảo vệ được nguồn nước; tận dụng được điều kiện thiên nhiên
ưu đãi để tạo ra các sản phẩm có giá trị kinh tế .
15
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG CAO SU THẾ GIỚI VÀ THỰC
TRẠNG SẢN XUẤT, XUẤT KHẨU CAO SU CỦA VIỆT NAM
I.
THỊ TRƯỜNG CAO SU THẾ GIỚI
1. Tình hình sản xuất cao su trên thế giới
Có thể nói, quá trình sinh trưởng và phát triển của cây cao su có nhiều đặc điểm
khác biệt so với các loại cây công nghiệp khác. Những đặc điểm đó ảnh hưởng rất lớn đến
công tác tổ chức sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu các sản phẩm cao su xuất khẩu cũng như
việc đề ra những phương hướng và giải pháp đối với việc phát triển cây cao su, thể hiện ở
một số điểm sau:
Sự sinh trưởng và phát triển của cây cao su tuân theo mét chu kỳ đặc trưng
cũng như các quy luật riêng nhưng vẫn chịu sự chi phối của qui luật tự nhiên. Năng suất
của cây chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố tự nhiên như khí hậu và đất, và phụ thuộc
vào sự thay đổi của các yếu tố đó. Cây chỉ phát triển tốt trong một số điều kiện nhất định
về khí hậu và đất, nếu không đủ các điều kiện thích hợp đó cây sẽ cho năng suất thấp.
Sản xuất cao su mang tính thời vụ lớn. Trong quá trình sản xuất cây cao su, có
thời kì nhu cầu tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn rất căng thẳng (như thời kỳ gieo
trồng, thu hoạch mủ và chế biến). Ngược lại có thời kì rất nhàn rỗi (thời kì chăm sóc).

Chu kỳ của cây cao su khá dài (30 năm) và phải đợi tới năm thứ 5-7 mới có thể
tiến hành cạo mủ được, song sau thời gian đó thì có thể thu hoạch liên tục trong 20-30
năm liền.
Trong sản xuất cây cao su, thời gian lao động không khớp với thời gian tạo ra
sản phẩm. Nghĩa là khi kết thúc một quá trình lao động cụ thể như làm đất, gieo trồng,
chăm sóc chưa có sản phẩm ngay mà phải chờ đến khi thu hoạch.
Cây cao su sinh trưởng rất tốt trên đất đỏ bazan hoặc đất xám, thật sâu, không
quá cao so với mặt nước biển, bằng phẳng và có độ dốc dưới 8
o
.
Sản phẩm thu được từ cây cao su bao gồm: mủ cao su, gỗ cao su, dầu cao su,
nhìn chung là đa dạng, khó chuyên chở và bảo quản; hơn thế còn dễ hư hao, dễ giảm
phẩm chất, cần đòi hỏi cần được chế biến kịp thời.
16
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
C¬ cÊu diÖn tÝch cao su trªn thÕ giíi
Ch©u ¸
Ch©u Phi
Ch©u Mü La tinh
Còng như việc sản xuất các cây công nghiệp khác, sản xuất cây cao su có tính
chất liên ngành, diễn ra trên phạm vi không gian rộng và phức tạp: Sản xuất cây cao su ở
đây không chỉ đơn thuần là sản xuất trồng trọt, mà nú cũn bao hàm cả công nghiệp chế
biến. Các hoạt động đó phân bổ trên một không gian rộng lớn, ở nhiều vùng lãnh thổ có
những điều kiện về tự nhiên, kinh tế-xó hội cũng như lịch sử, truyền thống rất khác nhau.
Vậy, muốn sản xuất và xuất khẩu cao su đạt hiệu quả cao, cần tạo ra sự liên kết
chặt chẽ giữa các ngành có liên quan từ sản xuất đến chế biến đến tiêu thụ và xuất khẩu
sản phẩm.
1.1. Diện tích
Hầu hết cao su thiên nhiên đều được lấy từ cây cao su Hevea Brasiliensis, chính vì
vậy loại cây này hiện nay được trồng rất phổ biến. Cây cao su Hevea Brasiliensis có

nguồn gốc từ Nam Mỹ, từng mọc hoang dại trên một địa bàn rộng lớn từ 5-6 km
2
, trên lưu
vực sụng Amazon. Năm 1876, cây cao su hoang dại được đưa về trồng ở vườn bách thảo
Kew (London) và Srilanka, từ đó phát tán sang nhiều nước khác, đặc biệt là các nước ở
vùng nhiệt đới nóng và ẩm như Đông Nam Á, châu Phi, châu Mĩ la tinh Đến nay, cao su
được trồng ở nhiều nước và diện tích cao su trên thế giới đã vượt quá 9,4 triệu ha
(9.434.800) trong đó:
Châu Á: 86711,1 nghìn ha, chiếm 91,8%
Châu Phi: 529 nghìn ha, chiếm 5,6%
Châu Mỹ la tinh : 248,7 nghìn ha, chiếm 2,6%
(Nguồn : IRSG, vol 52 , sè 3 , tháng 12/1997).
17
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Bảng 1: Diện tích cao su các nước (tính đến năm 1996)
Đơn vị: nghìn ha
Tên nước
Diện tích
Tên nước
Diện tích
Thái Lan
1957
Cote d’ivoire
150
Indonesia
3374
Cameroune
100
Malaixia
1649

Nigeria
260
Trung Quốc
592
Brasil
200
Ấn Độ
543
Liberia
110
Việt Nam
400
Campuchia
52
Srilanka
162
Papua New Guinea
20
Philipin
110
Các nước khác
247
(Nguồn: ANRPC, Hiệp hội cao su thiên nhiên thế giới).
1.2. Sản lượng:
Từ năm 1990 tới nay, sản lượng cao su có nhiều biến động, bình quân tăng 3,4% /năm.
Riờng năm 2001 tổng sản lượng cao su thế giới ước đạt 7006 nghìn tấn, tăng 4,7% so với
năm trước. Trong đó, Thái Lan - nước sản xuất cao su hàng đầu thế giới vẫn duy trì được
sản lượng trên 2300 nghìn tấn. Trong năm 2001, sản lượng của Thái Lan đã tăng 2% so
với năm 2000. Tiếp tục đà tăng trưởng 7% năm 2000, năm 2001 sản lượng cao su của
Indonesia tiếp tục tăng 3% so với cùng kỳ năm trước đạt trên 1500 nghìn tấn. Cũng trong

năm nay, ở Malaixia, do nhiều công ty và hộ tiểu điền đã chuyển sang trồng cọ, sản lượng
cao su tiếp tục giảm xuống. Trong năm 2001, sản lượng cao su ở đây chỉ là 560 nghìn tấn,
giảm hơn 9% so với cùng kỳ năm 2000. Sản lượng cao su của Malaixia những năm gần
đây liên tục giảm mạnh cho thấy hoạt động sản xuất cao su bắt đầu yếu dần đi ở nước này.
Trong khi đó, Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục tăng sản lượng do những diện tích trồng
cao su đã đến thời kỳ khai thác. Năm 2001, Việt Nam đạt sản lượng 282 nghìn tấn, tăng
4% và Trung Quốc đạt sản lượng 465 nghìn tấn tăng 2% so với năm 2000.
Tới năm 2002, dự kiến sản lượng cao su toàn thế giới sẽ tăng lên mức 7760 nghìn tấn,
trong đó châu Á chiếm 94%, châu Phi chiếm 4,5%, châu Mĩ la tinh chiếm 1,5%. Thái Lan
và Indonesia vẫn sẽ là những nước có sản lượng cao su lớn nhất, chiếm khoảng 50%-60%
sản lượng thế giới.
Bảng 2: Sản lượng của các nước sản xuất cao su hàng đầu thế giới.
Đơn vị : 1000 tấn
1999
2000
Ước 2001
Tổng cộng:
6811
6743
7060
18
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Thái lan
2155
2355
2392
Inđônêxia
1599
1510
1556

Ấn Độ
620
631
650
Malaysia
769
609
560
Trung Quốc
460
455
465
Việt Nam
230
271
282
Bờ biển Ngà
120
112
112
Srilanka
97
86
85
Braxin
70
73
75
Nigeria
78

65
63
Các nước khác
613
576
820
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam sè 40 ngày 3 tháng 4 năm 2002)
19
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
1.3. Năng suất:
Năng suất cao su bình quân trên thế giới ở mức 10-12 tạ/ha. Ở những nước trồng
nhiều cao su nh- Malaixia, Thái Lan, do đầu tư mạnh vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật
nhằm nâng cao năng suất các cây trồng nên năng suất cao su khá cao, trung bình 15-20
tạ/ha.
1.4. Một số nước sản xuất cao su chủ yếu trên thế giới:
/ Thái Lan:
Thái Lan là nước có tốc độ sản lượng cao su tăng nhanh và hiện nay đứng đầu thế
giới. Tuy mới bắt đầu trồng cao su cách đây 75 năm, nhưng Thái Lan tiến bộ rất nhanh.
Tốc độ trồng cao su trong những năm đầu của Thái Lan là 50000 ha/năm, sau đó giảm
xuống 30000 ha/năm vào năm 1979, từ năm 1985 tới nay tốc độ trồng chỉ còn
12000-13000 ha/năm. Nhờ vậy, tới năm 1991, diện tích trồng cao su ở Thái Lan đã là
1866000 ha. 90% diện tích trồng cao su phân bố ở miền Nam và phần còn lại ở các tỉnh
miền Đông Thái Lan.
Thời kỳ 1970-1990, tốc độ tăng sản lượng là 7,41%/năm, tức là mỗi năm bình quân
sản lượng tăng 46,55 nghìn tấn, bằng 45,2% sản lượng cao su tăng hàng năm trong cựng
kỡ của thế giới. Từ năm 1991 tới nay, sản lượng bình quân hàng năm là 1800 nghìn tấn.
Nguyên nhân chủ yếu của sự thành công trong phát triển ngành cao su là Chính Phủ đó cú
chính sách ưu đãi cho các chủ đầu tư sản xuất kể cả khâu trồng trọt và chế biến, công nghệ
sản xuất hiện đại phù hợp với tập quán tiêu dùng của thế giới. Điều quan trọng khác là
Thái lan đã tạo dựng được thị trường tiêu thụ ổn định, không bị chèn Ðp về giá so với các

nước cùng xuất khẩu cao su.
/ Inđonexia:
Inđonexia hiện là nước đứng thứ hai về sản xuất và xuất khẩu cao su thiên nhiên
trên thế giới. Đất nước này gồm 13667 đảo lớn nhỏ với diện tích tổng cộng là 1.904.569
km
2
trong đó diện tích trồng cao su là 2.327.000 ha. Phần lớn diện tích trồng cao su là ở
đảo Samatra, Java, Mađa.
Về sản lượng, từ năm 1984 sản lượng cao su ở Indonexia đó đạt trên 1 triệu tấn. Từ
năm 1990 tới nay, sản lượng bình quân là 1600 nghìn tấn /năm. Giá trị xuất khẩu cao su
của Indonexia chiếm 31% giá trị sản lượng nông nghiệp xuất khẩu hàng năm của cả nước.
/ Ấn Độ:
Trước năm 1999, Ấn Độ còn là nước đứng thứ tư trên thế giới về sản lượng cao su,
20
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
nhờ nỗ lực vượt bậc nhằm phát triển ngành nông nghiệp này, hiện nay Ấn Độ đã vươn lên
đứng ở vị trí thứ ba trên thế giới sau Thái lan và Indonexia.
Về sản lượng, thời kỳ 1970-1990, sản lượng cao su của Ấn Độ tăng nhanh, bình quân
6,77%/năm. Từ đó tới nay, sản lượng của Ấn Độ vẫn tăng đều với tốc độ bình quân
khoảng 3,67%. Ấn Độ đang cố gắng hết mình để chẳng những tự túc được về nguyên liệu
tối cần này cho sự phát triển công nghiệp và cũng có hi vọng tiến đến đủ cao su xuất khẩu
ra nước ngoài.
/ Malaixia:
Cho đến năm 1984, Malaixia vẫn còn dẫn đầu thế giới về sản xuất cao su thiên nhiên.
Thời kỳ đó, Malaixia là nước có diện tích trồng cao su lớn nhất thế giới, trên 2 triệu ha.
Sản lượng cao su lúc bấy giê tăng bình quân 0.56%/năm trong suốt thời kì 1979-1990.
Năm 1990, sản lượng cao su của Malaixia là 1420 nghìn tấn, chiếm tới 27,5% sản lượng
thế giới, 30,72% sản lượng cao su của châu Á; còn sản lượng xuất khẩu cũng chiếm tới
95% sản lượng sản xuất hàng năm.
Những năm gần đây Thái lan, Indonexia, và đặc biệt Malayxia đã chủ trương bỏ bớt

diện tích cao su chuyển sang trồng cọ dầu. Sản phẩm cọ dầu dễ tiêu thụ hơn và được giá
hơn cao su, sản lượng cọ dầu của Malaixia đã đạt 4 triệu tấn/ năm, trở thành nước xuất
khẩu cọ dầu nhiều nhất trên thế giới. Cũng chính vì vậy, sản lượng cao su của Malaixia sụt
giảm mạnh. Từ năm 1992 trở đi, sản lượng có 1255 nghìn tấn và Malaixia tụt xuống
hàng thứ ba, nhường địa vị số 1 và số 2 cho Thái Lan và Indonexia. Tuy không còn giữ vị
trí hàng đầu về sản lượng cao su, Malaixia vẫn còn là nước có nền công nghiệp và khoa
học kỹ thuật cao su tiên tiến so với các nước sản xuất cao su khu vực Châu á.
/ Việt Nam :
Đầu thế kỷ XX, người Pháp bắt đầu kinh doanh cao su ở Đông Nam Bé. Trong những
năm 1923-1929, họ đã tiến hành trồng thử nghiệm tại Tây Nguyên và đến 1945 đã trồng
thăm dò rải rác ở Phủ Quỳ, Nghệ An. Dưới thời Pháp, cây cao su được các nhà tư bản tập
trung đầu tư lớn hơn các loại cây trồng khác; diện tích cao su vì thế phát triển rất nhanh:
năm 1921-1932 là 8200 ha, năm 1945: 138000ha, tới năm 1963-1965 diện tích cao su ở
Việt Nam là 297000ha, đứng thứ 8 trong số 18 quốc gia trồng cao su.
Ngay từ khi thống nhất đất nước, Đảng và chính phủ ta đã có chủ trương khai hoang,
đầu tư lớn, phát triển mạnh cây cao su có giá trị này. Đến nay, diện tích cao su không
ngừng tăng. Năm 2001, cả nước có khoảng 400 nghìn ha cao su trong đó cao su do quốc
21
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
doanh trung ương (Tổng công ty cao su) quản lý là 200 nghìn ha, quốc doanh địa phương
và quân đội là 52 nghìn ha , còn lại là cao su thuộc thành phần tư nhân. Ngành cao su Việt
Nam cũng là thành viên của hiệp hội cao su thiên nhiên thế giới (ARNPC).
/ Trung Quốc :
Trung Quốc đã bắt đầu trồng cao su từ năm 1952 và cho tới nay nước này đang đứng
ở vị trí thứ 5 thế giới về sản xuất cao su. Trong khoảng những năm từ 1952 tới 1984, cây
cao su đã được phát triển lên một diện tích 430000 ha. Dù điều kiện thiên nhiên là rất khó
khăn (đất không lấy gì làm tốt, khí hậu khắc nghiệt, nhiệt độ xuống rất thấp, giá lạnh vào
mùa đông lại hay có bão lớn), Trung Quốc vẫn có một diện tích khai thác cao su xấp xỉ
400000 ha, chủ yếu là thuộc các nông trường nhà nước hoặc của các tỉnh.
Về sản lượng, thời kỳ 1970-1990, Trung Quốc nổi tiếng là nước tăng sản lượng nhanh

nhất thế giới với tốc độ tăng sản lượng 17,99% (từ 15 nghìn tấn năm 1973 lên 250 nghìn
tấn năm 1990). Trung Quốc cũng đã thành công trong cải cách nông nghiệp, tạo được
giống cao su chịu lạnh tốt, có năng suất khá cao. Nhờ vậy, từ năm 1990 trở lại đây, sản
lượng cao su của Trung Quốc ổn định hẳn ở mức khá cao, bình quân 455000 tấn /năm.
/ Các nước châu Phi:
Trước đây, thời kỳ 1970-1990 ở châu Phi có hai nước sản xuất cao su chủ yếu là
Liberia và Nigeria, mỗi nước có sản lượng trên dưới 100 nghìn tấn. Nhưng sản lượng ở
Liberia lại nhanh chóng giảm với tốc độ -9,85%/năm và cho tới đầu những năm 90 thì chỉ
còn 20-30 ngàn tấn /năm. Trong khi đó, Nigeria lại tăng sản lượng cao su đều đặn với tốc
độ 2,13% /năm. Dù vậy, trong thời gian gần đây, theo xu hướng chung của sản xuất cao su
thế giới, Nigeria cũng đang giảm dần sản lượng.
2. Tình hình cung cầu cao su trên thế giới
2.1. Xuất khẩu:
Cao su xuất khẩu trên thế giới chủ yếu là từ các nước đang phát triển Châu Á như
Thái lan, Indonexia, Malaixia, Việt Nam, Campuchia Sản lượng xuất khẩu của các nước
này chiếm tới 95-97% sản lượng xuất khẩu của thế giới, trong đó 90% là từ Thái lan,
Indonexia, Malaixia, Ấn Độ. Ngoài ra, cũn cú một số nước châu Phi như Nigeria,
Liberia, còng tham gia xuất khẩu cao su.
Suốt từ năm 1990 tới năm 1999, xuất khẩu cao su thế giới nhìn chung là tăng nhưng
rất chậm, trung bình chỉ tăng lên 1,1%/năm, cho nên đến năm 1999, sản lượng xuất khẩu
22
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
thế giới chỉ ở mức 4670 nghìn tấn.
Năm 2000, xuất khẩu cao su thế giới đạt 4970, tương đương mức xuất khẩu cao su
năm 1999.
Sang năm 2001 xuất khẩu cao su thế giới giảm 3,4% so với năm 2000. Trong đó
xuất khẩu giảm chủ yếu ở Malaixia, giảm 23,4% so với năm 2000, nhưng tăng 3,8% ở
Thái lan và 1,4% ở Inđụnexia. Malaixia, và Srilanka đều giảm sản lượng xuất khẩu, song
lượng xuất khẩu tăng lên ở Thái lan, Indonexia, Việt Nam và các nước châu Phi đã đủ để
bù cho lượng xuất khẩu giảm đi ở Malaixia và Srilanka. Về Việt Nam, xuất khẩu cao su

tiếp tục tăng lên với 260 nghìn tấn xuất khẩu thuần, đưa nước này lên vị trí thứ ba trên thế
giới. Cũng trong năm này, xu hướng giảm sút về xuất khẩu ở Malaixia càng rõ dệt chỉ còn
ở mức 150 ngàn tấn.
Bảng 3 : Xuất khẩu cao su của các nước trên thế giới .
Đơn vị : 1000 tấn
1999
2000
2001
Xuất khẩu
4670
4970
4800
Thái lan
1886
2166
2250
Inđônêxia
1495
1380
1400
Việt Nam
230
256
260
Malaixia
436
196
150
Các nước khác
623

972
740
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam số 11 năm 2002)
2.2. Tình hình tiêu thụ cao su thiờn nhiên trờn thế giới
Trên thế giới, những nước tiêu thụ nhiều cao su nhất là các nước sản xuất và tiêu thụ
xe hơi như Mĩ, Nhật, Trung quốc do công nghiệp sản xuất ụtụ là ngành tiêu dùng nhiều
cao su nhất so với các ngành khác
Thời gian gần đây, do kinh tế của nhiều nước suy thoái dẫn đến sản xuất săm lốp đình
đốn, sức mua cao su giảm sút. Đặc biệt sau biến cố 11/9 tại Mỹ, các thị trường hầu như bị
chững lại. Mức tiêu thụ cao su toàn thế giới năm 2001 giảm 8,5% so với năm 2000. Trong
đó, mức tiêu thụ giảm mạnh nhất ở Mỹ, giảm 17,7% so với năm 2000, các nước khác
giảm khoảng 2-7%. Riêng Trung Quốc lượng cao su tiêu thụ vẫn tiếp tục tăng. Trong năm
2001, tiêu thụ cao su thiên nhiên ở Trung Quốc đã tăng 4,8% so với năm 2000.Như vậy,
tiêu thụ cao su thế giới trong năm qua nhìn chung là hơi suy giảm, xuất hiện tình trạng
thừa cung. Tổng nhu cầu tiêu thụ cao su thế giới ước đạt 17,57 triệu tấn, giảm 3,1% so với
năm 2000 và thấp hơn sản lượng 210 ngàn tấn. Như vậy, tiêu thụ cao su thế giới trong
23
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
năm qua nhìn chung là hơi suy giảm, xuất hiện tình trạng thừa cung. Tổng nhu cầu tiêu
thụ cao su thế giới ước đạt 17,57 triệu tấn, giảm 3,1% so với năm 2000 và thấp hơn sản
lượng 210 ngàn tấn.
Dự đoán tiêu thụ cao su các loại năm 2002 sẽ đạt 18,42 triệu tấn tăng hơn 5% so
với năm trước và thấp hơn sản lượng 290 ngàn tấn. Trong đó tiêu thụ cao su thiên nhiên
năm 2002 đạt 7,49 triệu tấn, tăng 6,3% so với năm 2001.
Bảng 4: Cung và cầu cao su thiên nhiên toàn thế giới .
Đơn vị: triệu
tấn
Năm
Cung
Cầ u

1995
6,05
5,99
1996
6,37
6,14
1997
6,4
6,5
1998
6,54
6,62
1999
6,7
6,75
2000
6,715
6,805
2001
7,06
6,85
Ước 2002
7,76
7,49
(Nguồn : Vụ nông sản-Ban Vật giá Chính Phủ )
2.3. Tình hình nhập khẩu cao su trên thế giới
Các nước nhập khẩu cao su chủ yếu là những nước công nghiệp phát triển. Sản lượng
nhập khẩu cao su của họ chiếm tới 70% sản lượng cao su trên thế giới. Trong số các nước
này, Mĩ hiện nay là nước nhập khẩu cao su lớn nhất thế giới với lượng nhập khẩu hàng
năm trên 1 triệu tấn. Nhật bản và Trung Quốc là những nước nhập khẩu cao su thứ 2 thế

giới với sản lượng nhập khẩu hàng năm khoảng 760 nghìn tấn. Trung Quốc tuy là nước
sản xuất cao su nhưng hàng năm vẫn phải tiến hành nhập khẩu thêm 500-600 nghìn tấn,
nguyên nhân chính là do hàng năm nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc là 900 nghìn tấn,
trong khi đó họ chỉ sản xuất được gần một nửa (450 nghìn tấn), còn lại phải nhập khẩu tới
430 nghìn tấn. Bên cạnh Trung Quốc, các nước Tây Âu như Pháp, Đức, Tây ba nha,
hàng năm cũng nhập khẩu một lượng lớn cao su thiên nhiên lên tới 1000-1300 nghìn tấn.
Ngoài ra, trong số các nước nhập khẩu cao su cũn cú Hàn Quốc với sản lượng trung bình
330 nghìn tấn/ năm.
Còng giống như xu hướng tiêu thụ cao su thiên nhiên trên toàn thế giới, sản
lượng nhập khẩu cao su thế giới trong năm qua có xu hướng giảm. Nếu như năm 2000,
nhập khẩu cao su trên thế giới tăng nhẹ khoảng 6%, thì sang năm 2001 nhập khẩu cao su
24
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
lại giảm. Nguyên nhân là do lượng nhập khẩu vào Mĩ giảm mạnh, bên cạnh đó Trung
quốc cũng đang nỗ lực để hạ thấp lượng nhập khẩu cao su nhằm giảm bớt áp lực cho sản
xuất nội địa, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước. Nhìn chung do suy thoái kinh
tế và một số đột biến về chính trị ở một số nước lớn trên thế giới, tình hình nhập khẩu cao
su cũng bị ảnh hưởng và giảm đều ở các nước chuyên nhập khẩu loại sản phẩm này.
Bảng 4: Nhập khẩu cao su thiên nhiên của các nước trên thế giới
Đơn vị: 1000 tấn
1999
2000
2001
Nhập khẩu
4699
5300
4850
Mỹ
1116
1192

980
Trung quốc
402
820
760
Nhật bản
755
802
760
Hàn Quốc
332
331
330
Pháp
253
309
301
Đức
226
250
245
Tây Ban Nha
161
171
168
Các nước khác
1454
1425
1306
(Nguồn: FAO-Commodity Market Review 2000-2001)

3. Giá cao su trên thị trường thế giới
/ Thế giới có các thị trường cao su là Luân đôn, Xingapo và Tokyo Dung lượng trao
đổi ở các thị trường này chiếm 4/5 khối lượng cao su trao đổi trên thị trường thế giới. Đây
cũng là những thị trường quyết định giá cả cao su trao đổi của thế giới .
/ Có thể nói năm 2001 là một năm u ám nhất trong lịch sử ngành cao su thế giới vì giá
cao su đã chạm xuống mức thấp nhất do cung nhiều cầu ít, đặc biệt là nhu cầu tiêu thụ
thấp tại các nền kinh tế Châu Á như Nhật - một trong những nước nhập khẩu cao su hàng
đầu Thế giới.
/ Sang 3 tháng đầu năm 2002, tuy bị ảnh hưởng bởi kỳ nghỉ lễ hội năm mới tại các nước
Châu Á, nhưng giá cao su đang có xu hướng phục hồi, đặc biệt là thị trường kỳ hạn tại
Tokyo.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo đầu tháng tới tăng 95 yên/ kg kéo theo sự tăng giá tại các
thị trường khác do hoạt động mua bù thiếu và đầu cơ. Tuy nhiên, tình trạng nhu cầu yếu
vẫn chi phối thị trường, làm hạn chế sự tăng giá. Thị trường Châu á chỉ biết trông chờ vào
khách hàng lớn nhất là Trung Quốc, song đến nay nước này vẫn chưa cấp hạn ngạch nhập
25
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
khẩu, Trung Quốc là nước nhập khẩu cao su lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ.
Bảng 5: Giá cả cao su Quốc tế cuối năm 2001 và 3 tháng đầu năm 2002
Thị trường
Loại cao su
Kỳ hạn
Đơn vị tính
C 2001
Đ 2002
Thái lan
RSS3
T3
US cent/ kg
50-52

50,5-62
Inđônêxia
SIR20
T4

50-50,75
58-58,3
Malaixia
SMR20
T3

51
58,4-59
Xingapo
RSS3
T3

46,75
61,25
Nhật bản
RSS3
T6
Yên/ kg
74,4
88,5
Trung quốc
RSS3
T3
NDT/ tấn
6370

6550
(Nguồn : Thời báo Kinh tế Việt Nam năm 2002)
Thời kỳ 1990-1996 giá liên tục tăng nhờ vào nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng đều,
đặc biệt ở các nước châu Á. Thêm vào đó năm 1996 việc Trung Quốc chuẩn bị nhận bàn
giao Hồng Kông vào năm 1997 đã làm gia tăng mức nhập khẩu thông thường giao động
trên dưới 350000 tấn lên 502000 tấn. Giá cao su RSS2 cú lỳc đã đạt tới 2150 USD/tấn tại
Singapore. Điều này cũng làm thị trường sôi động . Thời kỳ 1997-2000, giá cao su bắt đầu
xuống khi khủng hoảng tiền tệ xảy ra vào tháng 6/1997 tại Thái lan và sau đó nhanh
chóng lan sang các nước trong khu vực. Cuộc khủng hoảng tiền tệ này đã đưa đến khủng
hoảng tài chính toàn thế giới và giá cao su thiên nhiờn cú lỳc đó xuống đến mức thấp nhất
trong 30 năm qua ở mức dưới 1000 USD/tấn (mức giá chung 1995/1998 giảm tới 56%
trong vòng 3 năm). INRO (Tổ chức Cao su Thiên nhiên Quốc tế ) cũng đành bó tay không
thể can thiệp vào thị trường khi các thành viên sản xuất của INRO trì trệ không nộp phần
đóng góp của mình vào Kho đệm.
Khi giá cao su trên thị trường quốc tế giảm thấp, vì quyền lợi của những người trồng
cao su họ phải tìm mọi cách để nâng giá cao su lên trên 1 USD/kg. Hội nghị hợp tác về
cao su giữa 3 nước Thái lan, Indonexia và Malaixia họp tháng 11/2000 đã thoả thuận sẽ
cùng hợp tác xuất khẩu cao su với giá tối thiểu 68 cents/kg, bắt đầu từ tháng 3/2001, tăng
10-12% so với giá hiện thời. Đây sẽ là một nhân tố nâng đỡ giá cao su thiên nhiên trong
dài hạn. Cho tới tháng 8/1999, giá cao su đã phục hồi trên một số thị trường cao su chính
trên thế giới. Giá cao su RSSI đạt mức 0,53 USD/kg trên thị trường London vào tháng
8/2000 và 2,5 Ringgit/kg trên thị trường cao su Malaixia vào tháng 7/2000, tăng khoảng
20% so với giá cùng kỳ năm 1999. Dự đoán giá sẽ tăng lên, song trong tình hình hiện nay
cung thị trường có khả năng tăng mạnh còn cầu thị trường lại bị cắt giảm, trong khi đó
INRO lại quyết định bán ra thị trường tới 138 nghìn tấn cao su, thì sự tăng giá sẽ bị hạn

×