Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Tiểu luận môn thông tin phục vụ lãnh đạo và quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN.
BỘ MÔN LƯU TRỮ HỌC - QUẢN TRỊ VĂN PHÒNG.
Môn:
Thông tin phục vụ
lãnh đạo và quản lý.
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TSKH.Bùi Loan Thùy.
Nhóm 7:
- Đào Thị Mỹ Duyên (1256130009).
- Nguyễn Trí Hiểu (1356130015).
- Phan Vũ Phương Quỳnh (1356130044).
- Cao Nguyễn Ngọc Trâm (1356130062).
- Hoàng Thị Dung (1356130076).
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2015.
Mục lục.
Mục lục……………………………………………………………………trang 2
Chương 1: Khái quát về công tác lãnh đạo, quản lý……………….…… trang 4
Câu 1: Sự giống nhau và khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý? trang 4
Câu 2: Tại sao ở Việt Nam, trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, người lãnh
đạo thường là nhà quản lý? Tại sao trong các doanh nghiệp nên tách biệt giữa
lãnh đạo và quản lý? trang 9
Câu 3: Người làm công tác lãnh đạo, quản lí phải thực hiện những chức năng
nào trong hệ thông quản lí của mình? trang 12
Câu 4: Các đặc điểm lao động nào của nhà lãnh đạo, nhà quản lý liên quan chặt
chẽ đến thông tin? trang 24
Chương 2: Những vấn đề chung về thông tin phục vụ lãnh đạo, quản
lí trang 34
Câu 1: Tại sao thông tin được coi là hệ thần kinh của hệ thống quản
lý? trang 34
Câu 2: Tầm quan trọng của thông tin chính thức và thông tin không chính thức
trong phục vụ thông tin cho lãnh đạo, quản lý? trang 37


Câu 3: Phân tích các yêu cầu đối với thông tin phục vụ lãnh đạo, quản
lý? trang 41
Câu 4: Phân tích sự thống nhất giữa công tác quản lý và thông tin? trang 48
Chương 3: Thông tin với quyết định quản lí…………………………….trang 46
Câu 1: Hoạt động thông tin phục vụ lãnh đạo, quản lí có ý nghĩa quan trọng như
thế nào đối với việc ra quyết định quản lí? Tại sao? Lấy ví dụ minh
họa? trang 51
1
Câu 2: Nguyên nhân dẫn đến các quyết định quản lí sai lầm liên quan đến thông
tin? Để giảm các quyết định quản lí sai lầm, nhà quản trị phải làm gì dưới góc
độ thông tin?Lấy ví dụ minh họa? trang 51
Câu 3: Để soạn thảo một bản kế hoạch hàng năm của một cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp, cần cung cấp những thông tin gì? Lấy ví dụ minh
họa? trang 57
Câu 4: Để soạn thảo một bản báo cáo tổng kết hoạt động hàng năm của một cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp, cần cung cấp những thông tin gì? trang 66
Câu 5: Trước khi ra quyết định tuyển dụng nhân sự mới, nhà quản lí cần những
thông tin gì? trang 80
Câu 6: Trước khi ra quyết định buộc thôi việc, nhà tuyển dụng cần những thông
tin gì? trang 84
Câu 7: Những cơ quan nào tham gia vào việc phục vụ thông tin cho lãnh đại,
quản lí hoạch định chính sách? trang 86
Câu 8: Các thư viện, trung tâm thông tin, cơ quan lưu trữ cung cấp cung cấp
những loại sản phẩm và dịch vụ thông tin nào phục vụ lãnh đạo quản
lí? trang 90
Chương 4: Hệ thống thông tin trong quản lí…………………………… trang 95
Câu 1: Hệ thống thông tin quản lý là gì? Phân tích ý nghĩa, tác dụng của hệ
thống thông tin quản lý? trang 95
Câu 2: Những trở ngại trong hệ thống thông tin quản lý và biện pháp khắc
phục? trang 98

Câu 3: Các hệ thống thông tin phổ biến được sử dụng để phục vụ cho các nhà
quản lý ở cấp nào? Tại sao? trang 101
2
Câu 4: Các hệ thống tác nghiệp phổ biến đang được sử dụng hiện nay là những
hệ thống nào? trang 107
Câu 5: Các hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định phổ biến đang được sử dụng
hiện nay là những hệ thống nào? trang 114
Câu 6: Các tố chất, kỹ năng cần rèn luyện đối với chuyên viên làm công tác
phục vụ thông tin cho lãnh đạo, quản lí là gì? Tại sao? trang 125
Lời cảm ơn…………………………………………………………… trang 128
3
Chương 1: Khái quát về công tác lãnh đạo, quản lý.
Câu 1: Sự giống nhau và khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý?
I.Lãnh đạo và quản lý giống nhau:
Về hệ thống: Đều bao gồm chủ thể - khách thể. Chủ thể là người lãnh đạo,
khách thể là người bị lãnh đạo. Chủ thể là người ra lệnh, khách thể là người
phục tùng. Chủ thể là chủ thể quản lý, khách thể là đối tượng quản lý. Chủ thể
là người chỉ huy, điều khiển, khách thể là người chấp hành, thực hiện. Ví dụ:
Trong trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh,
hiệu trưởng là thầy Võ Văn Sen, người lãnh đạo các thầy cô khác làm việc.
Về mục đích: Đều có một hoặc một tập hợp mục đích thống nhất cho cả
chủ thể chủ thể - khách thể. Ví dụ: Mục tiêu của trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh là “Giai đoạn 2011-2015, Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn có những bước đột phá về quản trị đại học,
đào tạo, nghiên cứu khoa học để trở thành cơ sở hàng đầu về đào tạo, nghiên
cứu khoa học, phục vụ cộng đồng của Việt Nam trong các lĩnh vực Khoa học xã
hội và Nhân văn; cung cấp các dịch vụ khoa học và giáo dục chất lượng cao cho
nền kinh tế quốc dân; khẳng định vị thế của một trung tâm đào tạo, nghiên cứu
khoa học quan trọng ở Đông Nam Á”.
Về đối tượng: Đều liên quan chặt chẽ đến con người.

Về quá trình: Đều là một quá trình thông tin, trao đổi thông tin nhiều chiều.
Chủ thể phải liên tục thu nhập dữ liệu về môi trường và hệ thống, tiến hành
chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, bảo quản thông tin, truyền tin và ra các
quyết định nhằm tác động lên các khách thể/đối tượng quản lý. Khách thể/đối
tượng quản lý tiếp nhận các tác động của chủ thể cùng các đảm bảo vật chất,
tinh thần khác để thể hiện chức năng, nhiệm vụ của mình với hiệu quả cao nhất.
Nhờ có thông tin mà nhà lãnh đạo, quản lý nhận biết đối tượng quản lý và lựa
chọn hành động để quản lý. Bất kỳ hệ thống quản lý nào cũng đều có mối quan
4
hệ ngược, khi cho thông tin đi thì sẽ thu được thông tin phản hồi về cái đã nhận
được. Nếu chủ thể lãnh đạo, quản lý không nhận được thông tin phản hồi thì sẽ
bị mất khả năng lãnh đạo, quản lý. Dòng thông tin đi từ trên xuống thể hiện mối
quản hệ thuận chiều trong hệ thống quản lý là quan hệ tác động của chủ thể tới
khách thể/đối tượng quản lý. Dòng thông tin phản hồi thể hiện mối quan hệ
ngược chiều trong hệ thống quản lý là quan hệ tác động phản hồi từ khách
thể/đối tượng quản lý đến chủ thể. Ví dụ: Trong một cơ sở sản xuất kem, nhà
quản lí, lãnh đạo phải thường xuyên cập nhật thông tin của môi trường bên
ngoài như: giá cả thị trường, nhu cầu của người dân, chính sách xã hội, sức cạnh
tranh,… Một hôm nọ, ông chủ nhận được thông tin: mấy ngày tới sẽ mất điện.
Trước tình hình đó, ông đã ra quyết định tạm thời giảm bớt số lượng sản xuất
kem trong mấy ngày mất điện. Khi ông chủ ra quyết định, nhân viên nắm bắt
tình hình và thực hiện nhiệm vụ đó.
Về tiến trình: Đều là một tiến trình năng động, có khả năng tăng cường, có
khả năng thích nghi rất nhanh trước những biến động của môi trường bên trong
và bên ngoài. Ví dụ: Ông chủ của một xí nghiệp là người lãnh đạo, quản lí nên
vừa phải cập nhật thông tin từ môi trường bên ngoài như: chính sách xã hội, nhu
cầu tiêu dùng, giá cả biến động, sức cạnh tranh,… đồng thời còn phải theo dõi
tình hình biến động của nội bộ xí nghiệp như: tiền vốn, tình trạng làm việc của
nhân viên, khả năng sản xuất, tình trạng trang thiết bị sản xuất,… để dễ dàng
đối phó nếu xảy ra biến động.

Về tính chất: Đều là một khoa học đồng thời cũng là một nghệ thuật.
- Là khoa học: Muốn tác động một cách hiệu quả tới khách thể/đối tượng
quản lý, người lãnh đạo, nhà quản lý, nhà quản trị đều phải nắm vững quy
luật khách quan, hệ thống các nguyên tắc quản lý, thành thạo trong việc
sử dụng tổng hợp các phương pháp quản lý (phương pháp hành chính,
phương pháp tâm lý – giáo dục, phương pháp kinh tế,…) và các công cụ
quản lý (công cụ chiến lược, công cụ chính sách, công cụ pháp lý, công
5
cụ kinh tế kỹ thuật, công cụ kế hoạch,…); từ đó có căn cứ khoa học để
xác định mục tiêu đúng, vững vàng trong từng bước đi, linh hoạt trong
cách thức hoạt động nhằm đối phó với thực tế phức tạp, biến động khôn
lường. Bên cạnh đó phải vận dụng một cách sáng tạo lý thuyết của khoa
học quản lý, trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với đặc
điểm kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hóa – giáo dục, đặc điểm từng vùng,
từng địa phương.
- Là nghệ thuật: Phải có nghệ thuật dùng người, nghệ thuật giao tiếp ứng
xử tốt, sự nhanh nhạy trong xử lý tình huống.
II.Lãnh đạo, quản lý khác nhau:
Lãnh đạo. Quản lý.
Về khái
niệm.
Lãnh đạo là việc định ra đường
lối, chính sách, chủ trương,
mục đích, tính chất, nguyên tắc
hoạt động của một hệ thống
nào đó trong các điều kiện môi
trường nhất định; là quá trình
định hướng dài hạn cho một
chuỗi các tác động của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản

lý/khách thể quản lý.
Quản lý là quá trình làm việc
cùng và thông qua các cá nhân,
các nhóm cũng như các nguồn
lực để hoàn thành các mục đích
của tổ chức.
Về ý
tưởng.
Lãnh đạo là người đưa ra ý
tưởng. Điều này đòi hỏi nhà
lãnh đạo phải luôn có tầm nhìn
xa, phải luôn nghĩ ra các ý
tưởng mới phát triển cho cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp
của mình trong từng giai đoạn
Quản lý là người thực thi ý
tưởng. Vì vậy, đòi hỏi ở nhà
quản lý phải có trình độ chuyên
môn cao, thông việc lập kế
hoạch, tổ chức lao động khoa
học, sắp xếp công việc một
cách hợp lý, biết cách điều
6
kế tiếp và tư duy nhạy bén, giải
quyết vấn đề nhanh, quyết
đoán. Ví dụ: Chủ tịch Hội đồng
quản trị của Công ty Cổ phần
Công nghiệp và Phát triển Xây
dựng Miền Bắc đưa ra chiến
lược mở rộng thị trường xuống

phía Nam.
khiển, chỉ huy, kiểm soát người
khác, tối thiểu hóa các rủi ro.
Ví dụ: Trưởng phòng phòng
Xuất nhập khẩu của Công ty
Cổ phần Công nghiệp và Phát
triển Xây dựng Miền Bắc nhận
được chiến lược mở rộng thị
trường xuống phía Nam do
Chủ tịch Hội đồng quản trị đưa
ra thì nhanh chóng triển khai,
chỉ đạo nhân viên tiến hành
công việc theo kế hoạch đã
vạch ra.
Về tương
tác với cấp
dưới.
Lãnh đạo là người củng cố
niềm tin cho cấp dưới vào
những mục tiêu đang hướng
tới. Trong quan hệ với cấp
dưới, nhà lãnh đạo thường
mềm mỏng, động viên khuyến
khích, sử dụng phương pháp
tâm lý xã hội để tác động vào
tư tưởng, tâm tư cấp dưới. Ví
dụ: Trong dịp Tết Ất Mùi, ban
lãnh đạo của Tổng Công ty Cổ
phần Khoan và Dịch vụ Khoan
Dầu khí đã đến thăm hỏi và

chúc tết cán bộ đang làm việc
trên giàn khoan.
Quản lý là người duy trì việc
kiểm soát cấp dưới để thực
hiện các kế hoạch đã được phê
duyệt, bắt buộc nhân viên phải
phát huy năng lực của mình
nhằm tạo ra các sản phẩm, dịch
vụ có chất lượng tốt. Do đó,
người quản lý thường áp đặt
trong tương tác với cấp dưới,
thường xuyên kiểm tra, theo sát
cấp dưới để đảm bảo rằng công
việc phải đạt hiệu quả cao nhất
theo tiến trình trong kế hoạch
được phân định, đạt được mục
tiêu đã xác định trong từng thời
kỳ. Ví dụ: Trưởng phòng, phó
7
phòng, chánh quản đốc, phó
quản đốc giám sát chặt chẽ
nhân viên (đi làm đúng giờ,
hoàn thành kế hoạch được
giao), thường xuyên tổ chức
kiểm tra định kì, kỉ luật nghiêm
khắc với người không thực
hiện tốt nội quy.
Về nguyên
tắc.
Nhà lãnh đạo có thể phá bỏ các

nguyên tắc khi cần thiết vì là
người quyết định con đường đi,
có thể thay đổi hướng đi, quyết
định của mình, hướng đến
những cái mới. Ví dụ: Người
lãnh đạo khi thấy điều kiện
thuận lợi sẽ thay đổi hướng đi
của mình ngay, đang đầu tư
xây dựng nhà nghỉ tại Nha
Trang nhưng thấy ở Vũng Tàu
có khả năng phát triển sẽ tiếp
tục đầu tư ở Vũng Tàu.
Nhà quản lý luôn duy trì các
nguyên tắc đã vạch ra vì là
người tổ chức thực thi, luôn
hướng đến sự ổn định. Ví dụ:
Nhà quản lí là người giám sát
công việc của nhân viên nên
các nguyên tắc chỉ đạo phải ổn
định và duy trì, như thế mới
kiểm soát được nhân viên, cứ
cuối tháng lại tiến hành đánh
giá nhân viên một lần để kiểm
soát gắt gao chế độ làm việc
của nhân viên.
Câu 2: Tại sao ở Việt Nam, trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, người
lãnh đạo thường là nhà quản lý? Tại sao trong các doanh nghiệp nên tách
biệt giữa lãnh đạo và quản lý?
8
I.Tại sao ở Việt Nam, trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, người lãnh

đạo thường là nhà quản lý?
Khái niệm: Đơn vị hành chính sự nghiệp là các đơn vị, cơ quan hoạt động
bằng nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước hoặc cấp trên cấp phát hoặc bằng
nguồn kinh phí khác như hội phí, học phí, viện phí, kinh phí được tài trợ, thu từ
hoạt động kinh doanh, dịch vụ, Đó là các đơn vị hành chính sự nghiệp trực
thuộc các Bộ, Tổng cục, các cơ quan Đoàn thể, các tổ chức xã hội do trung
ương và địa phương quản lý và các đơn vị trực thuộc lực lượng vũ trang.
Ở Việt Nam, trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, người lãnh đạo đồng
thời là nhà quản lí, vì:
- Tránh được hiện tượng xung đột về quan điểm, về cách thức giải quyết
từng vấn đề, đặc biệt là vấn đề nhân sự và công việc sẽ được giải quyết
nhanh hơn, đạt hiệu quả cao hơn.
- Do các văn bản, đường lối, chủ trương, chính sách,… của Đảng, Nhà
nước (ta hay gọi chung là cấp Trung ương) còn khá là phức tạp, phải
thường xuyên kèm theo các công văn, văn bản hướng dẫn thực hiện khi
đưa xuống cấp dưới. Vì vậy, để tránh việc lúng túng trong triển khai tổ
chức thực hiện, cụ thể là cấp cơ sở, thì việc cần có một người vừa là lãnh
đạo cũng vừa là nhà quản lý ở các đơn vị hành chính sự nghiệp là cần
thiết, bởi nó sẽ tạo nên sự thống nhất hành động, quan điểm trong việc
lãnh đạo và quản lý, tránh sự chồng chéo, khác nhau khi triển khai tổ
chức thực hiện các văn bản, chính sách ở cấp trên đưa xuống,… giúp cho
đơn vị hành chính sự nghiệp được đơn giản hóa, nhằm tăng hiệu quả quản
lý, kiểm soát của Nhà nước đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp nói
riêng, bộ máy Nhà nước nói chung. Việc đơn giản hóa không làm đơn vị
hành chính mất đi chức năng, tính chất vốn có của nó mà vẫn giữ đầy đủ
9
chức năng, tính chất của mình, đưa hoạt động nhanh chóng và thông suốt
từ trên xuống dưới.
- Vì đơn vị hành chính sự nghiệp là các đơn vị, cơ quan hoạt động bằng
nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước hoặc cấp trên cấp phát hoặc bằng

nguồn kinh phí khác như hội phí, học phí, viện phí, kinh phí được tài trợ,
thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ, nên việc đơn giản hóa sẽ góp
phần giải quyết vấn đề tiền lương thấp và nạn nhận hối lộ, đút lót,…
- Mô hình này cũng giúp cho bộ máy gọn nhẹ hơn, phù hợp yêu cầu cải
cách hành chính và mô hình quản lí xã hội hiện đại. Ví dụ: Nhà nước
đang triển khai mô hình thí điểm bí thư kiêm chủ tịch.
II.Tại sao trong các doanh nghiệp nên tách biệt giữa lãnh đạo và quản lý?
Khái niệm: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ
sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. (Điều 4, Luật doanh
nghiệp, 2005)
Trong các doanh nghiệp, nên tách biệt giữa lãnh đạo và quản lý, vì:
- Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là nhằm mục đích sinh lời, do
vậy mà suy cho cùng, tính chất của doanh nghiệp cũng là kiếm càng
nhiều lợi nhuận càng tốt, đặt lợi ích và hiệu quả kinh tế đem lại là tiêu chí
hàng đầu khi làm bất cứ gì. Với tính chất và mục đích sinh lời như vậy thì
các doanh nghiệp đã phải thực hiện việc chuyên môn hóa công việc, mỗi
người sẽ đảm trách những công việc khác nhau phù hợp với khả năng và
chuyên môn của mình, đặc biệt trong việc lãnh đạo và quản lý.
- Việc phân chia và chuyên môn hóa công việc như vậy giúp cho doanh
nghiệp vừa:
10
• Ngày càng phát triển, đổi mới, tạo ra các đột phá mới trong kinh doanh
thu về nguồn doanh thu lớn với tư tưởng quan điểm lãnh đạo linh hoạt,
sáng tạo, đổi mới và tầm nhìn của các nhà lãnh đạo có năng lực chuyên
môn.
• Được ổn định, kiểm soát tốt nguồn lực và duy trì việc triển khai công việc
với hiệu quả theo kế hoạch doanh nghiệp đề ra với tư tưởng, quan điểm
làm việc theo nguyên tắc, hướng đến sự ổn định của các nhà quản lý có
năng lực chuyên môn.

- Một người có thể giỏi về lãnh đạo nhưng chưa chắc giỏi về quản lý và
ngược lại, trường hợp một người giỏi cả hai là rất ít, nên doanh nghiệp
luôn hướng đến sự tách biệt giữa lãnh đạo và quản lý. Tách biệt giữa lãnh
đạo và quản lý là sự lựa chọn phù hợp của doanh nghiệp nếu muốn phát
triển và nâng cao hoạt động kinh doanh của mình.
- Gộp chung việc lãnh đạo và quản lý là hướng không an toàn và không
nên chọn của doanh nghiệp, vì nếu một người vừa lãnh đạo doanh nghiệp
lại vừa quản lý thì sẽ tạo ra sự độc quyền, nếu người đó giỏi thiên về lãnh
đạo mà quản lý không tốt sẽ khiến doanh nghiệp bất ổn về bên trong,
ngược lại sẽ khiến doanh nghiệp lạc hậu, không phát triển, không cạnh
tranh lại với các đối thủ và lâu dài của hai vấn đề này sẽ gây hậu quả thua
lỗ, phá sản của doanh nghiệp.
Câu 3: Người làm công tác lãnh đạo, quản lí phải thực hiện những chức
năng nào trong hệ thông quản lí của mình?
11
Người làm công tác lãnh đạo, quản lí phải thực hiện tám chức năng sau đây
trong hệ thông quản lí của mình:
- Chức năng dự báo/dự đoán.
- Chức năng hoạch định.
- Chức năng tổ chức.
- Chức năng điều khiển.
- Chức năng động viên.
- Chức năng kiểm tra.
- Chức năng điều chỉnh.
- Chức năng đánh giá.
I.Chức năng dự báo/dự đoán.
Khái niệm: Người lãnh đạo, nhà quản lí phải xác định tương lai của hệ
thống quản lí bằng các dự báo, dự đoán các biến động có thể xảy ra.Khả năng
dự báo thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của lãnh đạo, quản lý vì khi thực hiện
chức năng dự báo, dự đoán, người lãnh đạo, nhà quản lí/nhà quản trị sẽ lường

trước được những rủi ro, những khó khăn, thuận lợi, các yếu tố tác động của
môi trường bên ngoài tới hệ thống và các yếu tố tác động của chính môi trường
bên trong hệ thống, từ đó tiên đoán những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai. Ví
dụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam dự
báo về ảnh hưởng của nền chính trị thế giới đối với công ty: Tình hình an ninh
chính trị thế giới đang và sẽ có nhiều diễn biến phức tạp tại nhiều nơi trong
những năm tới. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đi cùng với đó là chiến tranh cục
bộ, xung đột dân tộc, tôn giáo, xung đột lợi ích giữa các quốc gia, khủng bố,
dịch bệnh,… đang xảy ra với tính chất ngày càng phức tạo khó lường. Dự báo
trong một vài năm tới chưa thể giải quyết chấm dứt ngay được. Việc duy trì
12
hoạt động và phát triển mạng lưới đường bay, chủ yếu là đường bay thế giới vì
thề sẽ có sự ảnh hưởng lớn: nhiều chuyến bay đến các cùng có diễn biến phức
tạp phải bay vòng sang đường khác, hoặc phải giảm bớt tần suất bay, hoặc tạm
hủy chuyến do lượng khách giảm đột ngột hay an ninh không đảm bảo. Những
sự việc đó thường xuyên xảy ra hoặc tiềm ẩn qua các năm nhưng mức độ và
tính chất luôn khác nhau đòi hỏi ngành hàng không phải có cách đối phó linh
hoạt và phù hợp.
Phương pháp:
- Người lãnh đạo, nhà quản lí có thể dự báo bằng cách định lượng. Vì vậy,
nếu các dữ liệu, số liệu thu thập được từ hệ thống quản lí không đảm bảo
độ tin cậy, chính xác thì sai số trong dự báo rất cao. Ví dụ: Thông qua
việc xử lí, phân tích các dữ liệu, số liệu thu thập được trong quá khứ, hiện
tại hoặc có thể sử dụng một số mô hình toán học để xác định xu hướng
vận động của các hiện tượng trong tương lai.
- Người lãnh đạo, nhà quản lí cũng có thể dự báo định tính. Cách dự báo
này mang tính chủ quan cao nếu người lãnh đạo, nhà quản lí thiếu hiểu
biết sâu về vấn đề cần dự báo, bị phụ thuộc quá nhiều vào các ý kiến
tham khảo. Ví dụ: Dự báo bằng cách dựa trên cơ sở nhận xét những yếu
tố liên quan, dựa trên các ý kiến của chuyên gia, đội ngũ chuyên viên tác

nghiệp về các khả năng có liên hệ của những yếu tố liên quan này trong
tương lai, hoặc từ việc khảo sát ý kiến số đông được tiến hành một cách
khoa học để nhận biết các sự kiện tương lai hoặc từ ý kiến phản hồi của
một nhóm đối tượng chịu những tác động nào đó.
- Trong thực tế, dự báo cũng có thể là một dự đoán mang tính trực giác về
tương lai theo kinh nghiệm cá nhân của người lãnh đạo, nhà quản lí.
Thông thường, để dự báo được chính xác hơn, người lãnh đạo, nhà quản
lí sẽ cố gắng loại trừ tính chủ quan của mình, kết hợp cả dự báo định tính
13
và định lượng để năng cao mức độ chính xác của dự báo, phán đoán trước
toàn bộ quá trình và các hiện tượng có thể xảy ra trong tương lai.
Vai trò: Dự báo đóng vai trò quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, quản lí.
Chức năng này cung cấp kết quả đầu vào cho chức năng hoạch định và chức
năng điều chỉnh trong quá trình điều hành hoạt động của hệ thống quản lí. Hệ
thống thông tin phục vụ lãnh đạo, quản lí của một cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp nếu vận hành thông suốt sẽ hỗ trợ người lãnh đạo, nhà quản lí thực hiện
tốt chức năng dự báo và có thể:
- Xác định đúng các tiền đề, các điều kiện cho việc xây dựng chiến lược;
- Lập các loại kế hoạch dễ dàng hơn;
- Nhận thức nhanh cơ hội, thách thức, rủi ro tiềm ẩn;
- Xây dựng bộ máy tổ chức quản lí khoa học, phù hợp với thực tế;
- Lường trước khả năng thay đổi có thể xảy ra để ứng phó với sự biến đổi
môi trường bên trong và bên ngoài;
- Định hướng đúng con đường sẽ đi.
II.Chức năng hoạch định.
Khái niệm: Chức năng hoạch định là chức năng cơ bản, trọng yếu nhất
trong công tác lãnh đạo, quản lý. Hoạch định là quá trình xác định phương
hướng, mục tiêu và lựa chọn các phương hướng để đạt được các mục tiêu đó
trong một khoảng thời gian nhất định. Thực hiện chức năng hoạch định nhằm ấn
định rõ những mục tiêu của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, thiết lập một chiến

lược tổng thể và phát triển một hệ thống các loại kế hoạch khác nhau (kế hoạch
dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch ngắn hạn) để hội nhập và phối hợp hoạt
động, xác định biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đã đề ra. Đây là chức
năng rất quan trọng mà nhà quản lý phải làm trong tiến trình quản lý.
14
Phương pháp:
- Sản phẩm cụ thể của công tác hoạch định là các bản kế hoạch. Khi lập kế
hoạch, nhà lãnh đạo, quản lí phải ấn định rõ mục đích hoạt động, xác định
mục tiêu dài hạn, ngắn hạn, suy tính dự liệu trước những việc sẽ xảy ra,
xác định biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đã đề ra. Khi thiết lập
một chiến lược lâu dài và lập kế hoạch chiến lược, nhà lãnh đạo, quản lý
phải có tầm nhìn xa trông rộng để dự đoán các yếu tố thuận lợi, khó khăn,
các yếu tố tác động, biến động của môi trường bên trong và bên ngoài, xu
thế phát triển. Ví dụ: Khi tiến hành đầu tư mở rộng thị trường xuất khẩu
măng cụt sang Mỹ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
phối hợp với các Bộ trưởng bộ ngành khác xác định đây là chiến lược lâu
dài, cần phải vạch rõ chính sách, phương án để mở rộng mô hình phát
triển.
- Các dữ liệu, số liệu sẽ được thu thập từ các cuộc điều tra, thăm dò, các
loại báo cáo…sau đó được tổng hợp, chắt lọc, xử lí thành các thông tin có
giá trị cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch. Ví dụ: Để
đưa ra kế hoạch phát triển cho dự án trồng dâu nuôi tằm ở Xã Thuận Sơn
- Đô lương, chủ tịch xã và các ban lãnh đạo đã cùng nhau điều tra tình
hình phát triển của mô hình dâu tằm thời gian qua, đồng thời tiến hành
khảo sát từng hộ gia đình và lấy báo cáo từ sở nông nghiệp và phát triển
nông thôn, kiểm tra kĩ lưỡng trước khi ra quyết định mở rộng dự án.
III.Chức năng tổ chức.
Khái niệm: Xác định một cơ cấu chủ định về vai trò, nhiệm vụ hay chức
vụ, chức danh được hợp thức hóa. Cơ cấu chủ định này buộc những người làm
việc với nhau phải thực hiện những vai trò nhất định, nhiệm vụ nhất định, có

những trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn nhất định. Các vai trò nhiệm vụ
được xây dựng một cách có chủ đích để đảm bảo rằng các hoạt động của mọi
15
thành viên trong tổ chức là phù hợp với nhau, mỗi người có thể làm việc trôi
chảy, có hiệu quả cao trong tập thể.
Khi thực hiện chức năng tổ chức, nhà lãnh đạo, nhà quản lý phải xác định
rõ ràng những nhiệm vụ phải làm, do ai làm, làm cái gì, ai quyết định, ai sẽ thực
hiện, ai báo cáo cho ai, ai kiểm tra. Trên cơ sở phân tích mục tiêu chiến lược,
phân loại các hoạt động cần thiết để thực hiện mục tiêu, nhà lãnh đạo, quản lí
thực hiện chức năng tổ chức bằng các công việc:
- Xây dựng mô hình cơ cấu tổ chức, cơ cấu tổ chức làm khuôn khổ cho
việc kiểm khia các kế hoạch: vạch ra cấu trúc của tổ chức, thành lập các
bộ phận chức năng, xác lập các mối quan hệ về nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm giữa các bộ phận đó với tư cách là một tiểu hệ thống trong
một hệ thống có tính chỉnh thể.
- Tổ chức quản lí nhân sự: bảo đảm nhân sự cho việc triển khai các kế
hoạch, chỉ đạo và kiển tra việc thực hiện kế hoạch bằng cách tuyển chọn,
bố trí, xác định vị trí, trách nhiệm của từng bộ phận và cá nhân (phân
công công tác), phân cấp, phần quyền quản lý cán bộ, nhân viên, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, nhận xét đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
khen thưởng kỷ luật, thực hiện chế độ chính sách, giải quyết khiếu nại tố
cáo.
- Tổ chức thực hiện công việc và đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ;
tìm kiếm và huy động các nguồn lực, chọn lọc các yếu tố tốt nhất cho cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp phát triển.
Chức năng tổ chức chỉ được thực hiện tốt sau khi nhà lãnh đạo, nhà quản lý
đã:
- Xác định mục tiêu, hướng phát triển và được cung cấp thông tin về những
thuận lợi, khó khăn, những nguồn lực cơ bản, tình trạng và trình độ phát
triển, mức độ chuyên môn hóa, khối lượng công tác thực tế, các mối quan

16
hệ ngang, dọc, số lượng và chất lượng nhân sự, điều kiện làm việc, những
quy định ràng buộc của cơ quan quản lý vĩ mô.
- Có thông tin cần thiết về nhân lực, vật lực, tài lực, các thông tin để làm cơ
sở cho việc xây dựng, điều chỉnh nội quy, quy chế và chính sách của cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp. Các thông tin này hỗ trợ lãnh đạo, quản lý
xây dựng các phương án để tuyển dụng, phân công bố trí, sắp xếp, sử
dụng nhân lực, phân loại, đánh giá nhân sự và phân bổ các nguồn lực
khác, thực hiện công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật. Ví dụ: Chủ công
ty sữa muốn mở rộng thị trường buôn bán sữa ra các tỉnh lân cận thì ông
phải tìm hiểu về nguồn lực của cửa hàng mình hiện nay như thế nào, khả
năng cung ứng sữa, khả năng làm việc của nhân viên, thông tin về thị
trường sữa và thông tin về nhu cầu dùng sữa của dân các tỉnh lân cận ra
sao.
Vai trò: Chức năng tổ chức thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho công tác tổ chức
vận hành thông suốt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng kiểm
soát các hoạt động của hệ thống quản lí, so sánh đối chiếu với mục tiêu, kế
hoạch đã vạch ra đồng thời thực hiện chức năng điều chỉnh nếu thấy cần thiết.
Ví dụ: Trong lớp học, khi tổ chức hợp lí thì việc lãnh đạo dễ dàng hơn, giáo
viên chủ nhiệm muốn kiểm tra tình hình học tập của lớp thì liên hệ với lớp phó
học tập, muốn kiểm tra tình hình hoạt động đoàn thì liên hệ với bí thư,
IV.Chức năng điều khiển.
Khái niệm: Là sự tác động có chủ đích của nhà lãnh đạo, nhà quản lí đến
cấp dưới nhằm tạo ra ở họ sự tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu đạt được mục
tiêu, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đã đề ra với hiệu quả cao.
Thực hiện chức năng điều khiển chính là quá trình nhà lãnh đạo, quản lí sử dụng
quyền lực (quyền lực hành chính, quyền lực tinh thần, quyền lực kinh tế) của
mình tác động lên hành vi của cấp dưới.
17
Chức năng điều khiển của nhà lãnh đạo, nhà quản lý bao gồm:

- Ra mệnh lệnh, chỉ thị, chỉ đạo buộc cấp dưới thực hiện, chấp hành.
- Ra các quyết định quản lý, tổ chức thực hiện quyết định quản lý, hướng
dẫn quá trình hoạt động để thực thi các quyết định đã ra.
- Đôn đốc, thúc đẩy các thành viên dưới quyền làm việc với hiệu quả cao.
- Chọn lọc các kênh thông tin hữu hiệu nhất để thấy trước vấn đề phải giải
quyết theo hướng nào.
- Giải quyết xung đột giữa các thành viên, giữa cá nhân và tập thể, giữa các
bộ phận, và các tổ chức liên quan,…
 Điều quan trọng nhất khi thực hiện chức năng điều khiển, chỉ huy chính
là việc ra quyết định quản lí và giải quyết xung đột để đảm bảo chất
lượng các hoạt động theo đúng tiến độ đã vạch ra, hoàn thiện và đổi mới
các quy trình hoạt động. Ra quyết định quản lý đúng và giải quyết xung
đột là thước đo năng lực, tài ba của nhà lãnh đạo, nhà quản lý cả về mặt
lý thuyết và thực tiễn. Ví dụ: Khi muốn nhân dân tham gia giao thông
phải tuân theo pháp luật thì Bộ Giao thông vận tải phải ra các văn bản
pháp luật về an toàn giao thông cho nhân dân tìm hiểu.
Muốn thực hiện tốt chức năng điều khiển, nhà lãnh đạo, nhà quản lý phải:
- Chọn được cách thức tác động phù hợp đến cấp dưới tùy theo đặc điểm
của công việc cần giải quyết (tính cấp bách, mức độ phức tạp, tầm quan
trọng của công việc) và nắm vững những thông tin về trình độ, năng lực,
sự hiểu biết công việc, phẩm chất, cá tính nhân viên. Ví dụ: Cùng là một
lớp học nhưng các giảng viên tùy vào nội dung và mức độ của từng môn
học mà có cách tác động tới sinh viên khác nhau, yêu cầu khác nhau.
18
- Cập nhật thông tin thường xuyên, theo dõi sát sao tình hình hoạt động của
hệ thống.
Vai trò: Chức năng điều khiển quyết định việc thực hiện thành công các
mục đích, mục tiêu của tổ chức, góp phần nâng cao tính tích cực, thái độ, tinh
thần làm việc của người lao động trong tổ chức, qua đó nâng cao năng suất lao
động.

V.Chức năng động viên.
Mục đích: Huy động cao nhất mọi nỗ lực của con người trong tổ chức để
thực hiện mục tiêu đã đề ra. Việc động viên đúng lúc, kịp thời về tinh thần và
vật chất đối với cấp dưới sẽ có tác dụng tốt, tạo ra sự hăng hái, nhiệt tình, tính
tích cực và tinh thần trách nhiệm cao hơn trong quá trình thực hiện công việc
của họ và làm cho công việc hoàn thành với hiệu quả cao.
Chức năng động viên gắn liền với việc tạo ra động cơ thôi thúc làm việc
cho nhân viên, vì vậy, để thực hiện chức năng động viên, nhà lãnh đạo, quản lý
phải:
- Xác định những yếu tố tạo thành động cơ thúc đẩy con người đóng góp
có kết quả và hiệu quả với khả năng cao nhất của họ cho cơ quan, tổ
chức.
- Thỏa mãn nhu cầu về:
• Vật chất. Ví dụ: Kích thích về tiền lương, tiền thưởng để động viên, đặc
biệt là tiền thưởng.
• Tinh thần. Ví dụ: Nếu người lãnh đạo, quản lí nắm rõ thông tin về hoàn
cảnh, khó khăn riêng của các nhân viên và có sự động viên kịp thời sẽ
làm cho các nhân viên cảm động và hăng say, tích cực làm việc hơn, tự
nguyện dành nhiều thời gian hơn cho công việc.
19
Vai trò: Chức năng động viên sẽ phát huy được mọi khả năng tiềm tàng của
nguồn lực vào quá trình thực hiện mục tiêu của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
VI.Chức năng kiểm tra.
Khái niệm: Kiểm tra là một tiến trình đo lường kết quả thực hiện, so sánh
với những điều đã được hoạch định để đảm bảo việc đạt được mục tiêu theo như
kế hoạch hoặc các quyết định quản lí đã được đề ra. Chức năng kiểm tra rất
quan trọng, có liên quan đến mọi cấp quản lý để đánh giá đúng kết quả hoạt
động của hệ thống quản lý. Ví dụ: Cuối năm học , nhà trường thường tổ chức thi
cuối kì để xem kết quả của sinh viên qua thời gian học tập như thế nào , c ó đạt
với chỉ tiêu đầu năm nhà trường dưa ra không.

Mục dích chung: Nhằm đảm bảo cho việc thực hiện thành công các kế
hoạch, phát hiện kịp thời sai sót, tìm ra nguyên nhân và biện pháp sửa chữa.
Mục đích cụ thể cần đạt được của người loãnh đạo, quản lý khi thực hiện
chức năng kiểm tra là:
- Bảo đảm kết quả đạt được phù hợp với mục tiêu của tổ chức. bảo đảm các
nguồn lực của tổ chức được sử dụng một cách hữu hiệu.
- Làm sáng tỏ và đề ra những kết quả mong muốn chính xác hơn theo thứ
tự quan trọng.
- Xác định và dự đoán những chiều hướng chính và những thay đổi cần
thiết trong hoạt động cụ thể của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
- Phát hiện kịp thời công việc bị lệch hướng, đo lường các sai lệch nảy sinh
trong quá trình hoạt động so với mục tiêu và kế hoạch đã định.
- Loại bỏ những công việc thừa, không cần thiết.
- Phổ biến những chỉ dẫn cần thiết một cách liên tục để cải tiến công việc,
tiết kiệm thời gian, công sức của nhân viên.
20
Phương pháp: Tiến hành thường xuyên việc kiểm tra và kết hợp linh hoạt
nhiều hình thức kiểm tra: Kiểm tra lường trước, kiểm tra những điểm trọng yếu,
kiểm tra trực tiếp, kiểm tra gián tiếp, kiểm tra định kì, kiểm tra đột xuất, kiểm
tra từ dưới lên, kiểm tra từ trên xuống. Ví dụ: Để kiểm tra tình hình và chất
lượng của học sinh, gi áo viên có thể kiểm tra 15 phút, kiểm tra miệng, có thể
báo trước hoặc không.
Vai trò: Chức năng kiểm tra rất quan trọng vì việc kiểm tra gây áp lực buộc
các bộ phận, cá nhân phải thực hiện đúng quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ
của mình. Ví dụ: Thi giữa kỳ, thi cuối kỳ là hình thức kiểm tra buộc học sinh
phải thực hiện nghĩa vụ làm bài, học bài khi đi học của mình .
VII.Chức năng điều chỉnh.
Mục đích: Nhằm sửa chữa các sai lệch nảy sinh trong quá trình hoạt động
của hệ thống quản lí để duy trì các mối quan hệ bình thường giữa bộ phận điều
khiển và bộ phận chấp hành, để bộ máy quản lý hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp.

Ví dụ 1 : Khi giảng viên biết được thứ tư, trường sẽ được nghỉ giỗ tổ Hùng
Vương, không thể giảng dạy được , nên đã điều chỉnh lịch học chuyển sang ngày
thứ sáu, phù hợp với quyết định của nhà trường. Ví dụ 2 : Nhà nước đã đưa ra
điều chỉnh về hiến pháp và luật theo từng giai đoạn để phù hợp với tình hình
phát triển của đất nước.
Nguyên tắc:
- Chỉ điều chỉnh khi thật sự cần thiết.
- Điều chỉnh phải đúng mức độ, không được tùy tiện.
- Điều chỉnh kịp thời, không được bảo thủ, không được để lỡ thời cơ.
- Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà kết hợp các phương pháp điều
chỉnh thích hợp.
- Điều chỉnh để khắc phục khâu yếu trong hệ thống quản lý.
21
Muốn điều chỉnh đạt hiệu quả, nhà lãnh đạo, quản lý phải:
- Thường xuyên thu nhận thông tin về sự chênh lệch giữa hoạt động hiện
tại của hệ thống quản lý với những thông số đã quy định thông qua khâu
kiểm tra. Ví dụ: H ằng ngày , B ộ G iao thông vận tải sẽ kiểm tra số vụ tai
nạn giao thông, Bộ trưởng phải thu nhận thông tin từ cấp dưới, so sánh
kết quả này so với ngày hôm qua để điều chỉnh kịp thời.
- Có khí chất linh hoạt, kỹ năng lắng nghe tốt, phân biệt nhanh thông tin
chính, phụ, nhạy bén trước sự biến động của môi trường bên trong và bên
ngoài.
VIII.Chức năng đánh giá.
Khái niệm: Chức năng đánh giá là chức năng cuối cùng và rất quan trọng
của quá trình lãnh đạo, quản lý đối với tất cả mọi hệ thống quản lý. Nhà lãnh
đạo, quản lý phải đánh giá đúng tình trạng của khách thể/ đối tượng quản lí,
đánh giá kết quả hoạt động của hệ thống quản lí và đánh giá hiệu quả làm việc
của đội ngũ nhân viên. Trên cơ sở đánh giá, nhà lãnh đạo, quản lý sẽ dự kiến
bước phát triển mới. Ví dụ: Cuối năm học , gi áo viên sẽ đánh giá tình hình học
tập của học sinh, đó là cho điểm và xếp loại , từ đó quyết định thay đổi hay giữ

nguyên phương thức giảng dạy cho năm học tiếp theo .
Phương pháp: Việc đánh giá thường được tiến hành định kì, hoặc sau các
đợt kiểm tra, thanh tra hoặc theo yêu cầu của cấp trên. Ví dụ: Trong lớp học, cứ
mỗi cuối tuần, giáo viên chủ nhiệm sẽ đánh giá về học tập, hoạt động, ưu và
nhược điểm của lớp trong tuần vừa qua.
Vai trò: Kết quả của đánh giá hệ thống giúp nhà lãnh đạo, quản lý xác định
được các vấn đề tồn tại, rủi ro, các kinh nghiệm tốt, cơ hội phát triển và là một
hàn thử biểu đo lường sự toàn vẹn của hệ thống quản lí cũng như các quá trình
quản lí và khả năng của chúng trong việc thực hiện mục tiêu của cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp.
22
Để đánh giá chính xác, nhà lãnh đạo, quản lý phải bảo đảm tính khách
quan, xem xét mọi vấn đề một cách toàn diện và có thước đo phù hợp dựa vào
các tiêu chuẩn, tiêu chí của các yếu tố định tính, định lượng. Ví dụ: Đối với các
yếu tố có thể định lượng được thì căn cứ vào hạch toán (bao gồm hạch toán
nghiệp vụ kỹ thuật, hạch toán thống kê, hạch toán kế toán), đối với các yếu tố
định tính thì căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ để đánh giá.
Câu 4: Các đặc điểm lao động nào của nhà lãnh đạo, nhà quản lý liên quan
chặt chẽ đến thông tin?
Các đặc điểm lao động của nhà lãnh đạo, nhà quản lý liên quan chặt chẽ
đến thông tin là:
23
- Đặc điểm hoạt động trí tuệ.
- Đặc điểm về tác phong lãnh đạo.
- Đặc điểm về uy tín của người lãnh đạo, quản lý.
- Đặc điểm về tương tác thông tin giữa cấp trên và cấp dưới.
- Đặc điểm về các năng lực liên quan đến thông tin.
I.Đặc điểm hoạt động trí tuệ.
Khái niệm: Đặc điểm hoạt động trí tuệ của nhà lãnh đạo, nhà quản lí là
công việc lãnh đạo, quản lí buộc người đó thường xuyên phải đổi hướng chú ý

của mình, không thể tập trung suy nghĩ một thời gian quá dài vào một vấn đề
nào đó. Trong một ngày làm việc, nhà lãnh đạo quản lí phải luôn thay đổi hướng
chú ý của mình vào việc giải quyết các công việc hết sức khác nhau, ra các
quyết định nhiều loại khác nhau. Ví dụ: Những người giám đốc trong một ngày
phải giải quyết nhiều công việc khác nhau như: Đi họp, kí kết sổ sách, gặp
khách hàng, kiểm tra hoạt động công ty, quan sát nhân viên, tìm hiểu thị trường,
…Vì có nhiều công việc phải giải quyết nên giám đốc phải phân chia thời gian,
đòi hỏi các nhà lãnh đạo, quản lí phải sáng tạo và linh hoạt, phải có phương
pháp khoa học quản lí, thay đổi hướng chú ý vào các công việc, ra các quyết
định khác nhau.
Thực chất lao động của lãnh đạo, quản lí là quá trình thu thập, xử lí thông
tin trong điều kiện đối tượng quản lí và môi trường luôn luôn biến đổi. Ví dụ:
Trong công ty chế biến lương thực thực phẩm, các nhà lãnh đạo quản lí phải
luôn theo sát tình hình biến đổi của thị trường: Giá cả thị trường, mức độ tiêu
thụ của người dân, sức cạnh tranh của các công ty khác. Trong môi trường luôn
biến đổi như thế thì các nhà lãnh đạo phải cập nhật thông tin thường xuyên, xử
lí thông tin để đưa ra những chính sách phù hợp và những quyết định đúng đắn
cho hoạt động của công ty.
24

×