Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Khóa luận: : GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.05 KB, 82 trang )

ĐỀ TÀI: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG KINH DOANH THẺ CỦA
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân xuất phát từ yêu
cầu nghiên cứu khoá luận. Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc,
kết quả trình bày trong khoá luận là trung thực, không sao chép từ bất cứ nguồn nào
khác. Những thông tin tham khảo trong khoá luận đều được trích dẫn cụ thể nguồn sử
dụng.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Lê Thùy Nhung
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khoá luận tốt nghiệp cũng như trải qua bốn năm học tập tại
trường Học viện Ngân hàng, em đã may mắn nhận được sự giúp đỡ, sự chỉ dạy tận tình
cùng những kinh nghiệm quý báu từ các thầy cô khoa Ngân hàng nói riêng và các cán
bộ giảng viên trường Học viện Ngân hàng nói chung. Nhờ vào sự hướng dẫn nhiệt tình
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
của các thầy cô và những kiến thức thực tế có được trong thời gian thực tập tại Ngân
hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín, em đã hoàn thành bài khoá luận tốt nghiệp này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám đốc cùng quý thầy cô trường Học
viện Ngân hàng đã tạo cho em một môi trường học tập tích cực và bổ ích trong suốt
bốn năm học vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn các cán bộ giảng viên khoa Ngân hàng, đặc biệt là thầy
PGS.TS Lê Văn Luyện đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện
khoá luận tốt nghiệp.
Với sự giúp đỡ của thầy cô cùng nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành bài khoá
luận tốt nghiệp này. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian cũng như hiểu biết, khoá luận
không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của giáo viên
hướng dẫn và các thầy cô để khoá luận tốt nghiệp hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Lê Thùy Nhung
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ACB Ngân hàng TMCP Á Châu
ATM Máy rút tiền tự động
BĐH Ban điều hành
ĐVCNT Đơn vị chấp nhận thẻ
HĐQT Hội đồng quản trị
MHB Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà Đồng bằng song Cửu Long
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHPH Ngân hàng phát hành
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTT Ngân hàng thanh toán
PGD Phòng giao dịch
POS Điểm chấp nhận thẻ
Sacombank Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín
TCTD Tổ chức tín dụng
TMCP Thương mại cổ phần
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
Vietcombank Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Vietinbank Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1
Số lượng thẻ tín dụng Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín phát
hành giai đoạn 2012 - 2014
Bảng 2.2
Số lượng thẻ ghi nợ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín phát
hành giai đoạn 2012 - 2014

Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
Bảng 2.3
Tình hình sử dụng thẻ tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
giai đoạn 2012 – 2014
Bảng 2.4
Giả mạo theo sản phẩm thẻ của Sacombank phát hành giai đoạn 2012
- 2014
Bảng 2.5 Giả mạo thẻ family do Sacombank phát hành giai đoạn 2012 - 2014
Sơ đồ 2.1
Quy trình phát hành thẻ tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
Sơ đồ 2.2 Sơ đồ quy trình thanh toán thẻ cúa Sacombank
Sơ đồ 2.3 Mô hình quản trị rủi ro tại Sacombank
Biểu đồ 2.1
Tỷ lệ doanh số thanh toán qua thẻ của Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín từ năm 2012 - 2014
Biểu đồ 2.2
Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng về thẻ và các điểm chấp nhận thẻ
các năm 2012, 2013, 2014 so với năm 2011
Biểu đồ 2.3
Biểu đồ thể hiện tỷ trọng khoản thu dịch vụ từ thẻ qua các năm
2012,2013,2014
Biểu đồ 2.4
Giả mạo trong lĩnh vực thanh toán thẻ của Sacombank năm 2012 -
2014
MỤC LỤC
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
6
LỜI MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa với nhiều thời cơ và thách thức đan xen, để có thể vượt

qua các rào cản, khó khăn của quá trình hội nhập, các ngân hàng thương mại đã và
đang không ngừng nâng cao năng lực quản lý điều hành, chủ động mở rộng quy mô
hoạt động, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho
đơn vị. Một trong những lĩnh vực kinh doanh vừa đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho
ngân hàng vừa mang lại hiệu quả chung cho toàn xã hội, đó chính là dịch vụ phát hành
và thanh toán thẻ.
Hoạt động thanh toán thẻ không những giúp cho người dân tiếp cận các phương
tiện thanh toán văn minh hiện đại của thế giới, góp phần nâng cao đời sống cộng đồng
dân cư, nâng cao đời sống xã hội mà còn góp phần quan trọng trong việc tạo nên hiệu
quả hoạt động kinh doanh tại mỗi ngân hàng thương mại.
Nắm bắt được vai trò quan trọng của thẻ, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
cũng đã rất tích cực phát hành thêm nhiều loại thẻ mới trong những năm vừa qua để
đáp ứng nhu cầu của người dân cũng như của nền kinh tế. Tuy nhiên, song song với
những lợi ích mà thẻ mang lại, việc kinh doanh thẻ cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Hiện
nay, chúng ta đang sống trong một thế kỷ của công nghệ hiện đại, khi nền công nghệ
hiện đại càng phát triển thì rủi ro do sử dụng, lợi dụng công nghệ để đánh cắp tiền từ
thẻ đang là một thách thức lớn cho cả đơn vị phát hành thẻ và chủ thẻ. Các rủi ro trong
hoạt động kinh doanh dịch vụ thẻ ngày càng đa dạng và phức tạp. Nó làm suy giảm
hiệu quả kinh doanh, ảnh hưởng uy tín và thương hiệu của đơn vị phát hành thẻ. Vì
vậy, việc nghiên cứu để tìm ra các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu và khả thi để ngăn
chặn, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ đã và đang trở thành vấn đề bức
xúc, cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
7
Trong những năm qua, tình hình kinh tế thế giới và trong nước biến động rất
phức tạp, khó lường, thậm chí vận động theo những xu hướng trái chiều, hoạt
động kinh doanh thẻ của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín vẫn tương
đối ổn định.
Đó là lý do tại sao em chọn đề tài: Giải pháp hạn chế rủi ro trong kinh doanh
thẻ của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín để nghiên cứu.

2- Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống hóa và làm sâu sắc thêm cơ sở lý luận về quản lý rủi ro trong
hoạt động kinh doanh thẻ của NHTM
- Nghiên cứu thực trạng rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ của Ngân
hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín, chỉ ra những thành công, những hạn
chế và nguyên nhân của hiện trạng để làm cơ sở cho đề xuất các giải
pháp.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh thẻ của
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín.
3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn đề tài, đối tượng chính của luận văn những rủi ro và hoạt động
quản lý rủi ro trong kinh doanh dịch vụ thẻ của Ngân hàng NHTM.
Phạm vi nghiên cứu gồm các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động kinh
doanh thẻ và quản lý rủi ro trong kinh doanh thẻ tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín từ năm 2012 đến 2014.
4- Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp thống kê, phân tích
và tổng hợp: Tiếp cận thực tế, thu thập thông tin, số liệu để so sánh, đối chiếu,
phân tích, đánh giá, đồng thời vận dụng kiến thức của các môn học về kinh tế,
tài chính ngân hàng và tranh thủ những kinh nghiệm của những cán bộ làm
thực tiễn trên lĩnh vực dịch vụ thẻ ngân hàng để phát hiện và đề xuất giải pháp
giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề tài.
5. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu trong ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thẻ và các rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
của NHTM
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
8
Chương 2: Thực trạng về kinh doanh thẻ và rủi ro trong kinh doanh thẻ tại Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Thương Tín

Chương 3: Những giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ tại
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẺ VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH THẺ CỦA NHTM
1.1. Những vấn đề chung về thẻ ngân hàng
1.1.1- Khái niệm về thẻ thanh toán, lịch sử hình thành và phát triển của thẻ ngân
hàng trên thế giới và tại Việt Nam
1.1.1.1- Khái niệm về thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời từ
phương thức mua bán chịu hàng hóa bán lẻ và phát triển gắn liền với việc ứng dụng
công nghệ tin học trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Thẻ ngân hàng là công cụ thanh
toán do ngân hàng phát hành cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán tiền mua hàng
hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư tiền gửi của mình hoặc hạn mức tín
dụng được cấp. Thẻ ngân hàng còn dùng để thực hiện các dịch vụ thông qua hệ thống
giao dịch tự động hay còn gọi là hệ thống tự phục vụ ATM.
1.1.1.2- Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ thanh toán
Để có được các sản phẩm thẻ đa dạng như hiện nay, thẻ ngân hàng đã trải qua
nhiều giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, xét về mặt thời gian, kinh doanh thẻ là lĩnh vực
kinh doanh tương đối mới mẻ với sự ra đời và phát triển từ những năm đầu thế kỷ 20
cho tới nay.
 Sự phát triển của thẻ ngân hàng trên thế giới
Thẻ thanh toán được hình thành tại Mỹ từ thói quen cho khách hàng mua chịu
của các chủ tiệm bán lẻ dựa trên uy tín của khách đối với các tiệm này. Thông thường,
các chủ tiệm theo dõi mỗi khách hàng một cách riêng rẽ, ghi rõ các khoản mà khách
hàng sẽ phải thanh toán và chấp nhận cho khách hàng trả tiền sau vì họ tin tưởng vào
khả năng thanh toán của người mua. Tuy nhiên, dần dần nhiều người trong số các chủ
tiệm bán hàng hóa, dịch vụ này nhận thấy, họ không có đủ khả năng cho khách hàng
nợ và trả sau như vậy. Chính yếu tố này đã góp phần giúp các tổ chức tài chính hình
thành ý tưởng về sản phẩm thẻ. Bởi vì, chỉ với lượng vốn kinh doanh lớn và khả năng

Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
9
mở rộng, quay vòng vốn cho vay thì các tổ chức này mới có khả năng cung cấp cho
khách hàng những khoản vay miễn lãi trong một thời gian tương đối. Vào năm 1914,
tổ chức chuyển tiền Western Union của Mỹ lần đầu tiên cung cấp cho các khách hàng
đặc biệt của mình dịch vụ thanh toán trả chậm. Công ty này phát hành những tấm kim
loại có chứa các thông tin in nổi thực hiện 2 chức năng: giúp nhận diện và phân biệt
khách hàng.; cung cấp và cập nhật dữ liệu về khách hàng, bao gồm các thông tin về tài
khoản và thông tin về giao dịch thực hiện. Các tổ chức khác dần nhận ra những giá trị
của loại hình dịch vụ nói trên của Western Union và chỉ trong một vài năm sau đó, rất
nhiều đơn vị như nhà ga, khách sạn cũng như các cửa hàng trên khắp nước Mỹ đã lựa
chọn cung cấp dịch vụ trả chậm cho khách hàng của mình theo phương thức của
Western Union. Trong đó, Tập đoàn xăng dầu của Mỹ cho ra đời tấm thẻ mua xăng
đầu tiên vào năm 1924, cho phép người dân sử dụng thẻ này để mua xăng, dầu tại các
cửa hàng trên toàn quốc.
Tiếp theo những tổ chức cung cấp hàng hóa, dịch vụ, các ngân hàng chính thức
bước vào thị trường thẻ với mục tiêu nhanh chóng nhân rộng hình thức thanh toán này
dựa trên mối quan hệ sẵn có giữa các đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ trên cả nước
với hệ thống đại lý rộng khắp của ngân hàng. Với tốc độ tăng trưởng rất nhanh và
trước những khoản lợi dễ dàng như vậy, chỉ một vài năm sau đó, hơn 100 ngân hàng
khác nhau trên nước Mỹ cùng thực hiện ý tưởng phát hành thẻ thanh toán trả chậm,
sau này gọi là thẻ tín dụng. Tuy nhiên, bởi việc phát triển sản phẩm quá nhanh, ồ ạt và
không đa dạng hóa sản phẩm bằng những tiện ích đầy đủ như thẻ tín dụng hiện giờ nên
nhiều ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính khác đã gặp những bài học đắt giá và
buộc phải xem lại chiến lược kinh doanh của mình.
Vào năm 1950, Diners Club phát hành tấm thẻ tín dụng đầu tiên, được làm bằng
chất liệu plastic. Sau này Frank McNamara, người sáng lập Diners Club, kể lại là ông
đã từng trải qua một trường hợp hết sức lúng túng khi ông ở một cửa hiệu ở New York
nhưng quên mang theo ví. Chính việc cam kết phải thanh toán sau đã gợi lên một ý
tưởng kinh doanh thẻ đối với Frank McNamara. Sau Diners Club, vào năm 1958, công

ty American Epress cũng tham gia vào thị trường thẻ ngân hàng và đã thiết lập thành
công tên tuổi của mình trong lĩnh vực mới mẻ này. Cũng giống như các đối thủ cạnh
tranh của mình, American Epress chú trọng phát triển thẻ trong lĩnh vực giải trí và du
lịch – một lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh chóng tại Mỹ và Châu Âu trong thời kỳ
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
10
sau chiến tranh thế giới. Đến trước năm 1970, khái niệm về thẻ tín dụng đã được nhiều
người biết đến và nhanh chóng được đón nhận. Năm 1966, ngân hàng Bank of
America chính thức trao quyền phát hành thẻ BankAmericard của mình cho các ngân
hàng khác thông qua việc ký các hợp đồng đại lý, chính thức bắt đầu giai đoạn tăng tốc
trong phát triển. Người dân đi du lịch nhiều hơn trên đất Mỹ và ra nước ngoài mà ko lo
lắng tới việc phải có sẵn tiền để thanh toán. Thẻ tín dụng lúc này không chỉ mặc định
dành cho những đối tượng giàu có và nổi tiếng mà dần trở thành những phương tiện
thanh toán thông dụng. Thương hiệu BankAmericard với một loạt sản phẩm có màu
xanh, trắng, vàng đặc trưng ngày càng trở nên quen thuộc với người tiêu dùng. Bằng
việc ký hợp đồng đại lý và cho các ngân hàng khác hưởng phí thanh toán chuyển đổi,
Bank of America đã nhanh chóng tăng được lượng thẻ phát hành cũng như ký kết hợp
đồng chấp nhận thẻ với các Đơn vị chấp nhận thẻ trên khắp nước Mỹ và mở rộng ra
thế giới. Tới năm 1977, thẻ của ngân hàng Bank of America thực sự được chấp nhận
trên toàn cầu và thay vì tên BankAmericard, tên thẻ Visa ra đời với màu sắc đặc trưng
vẫn là xanh lam, trắng và vàng
Cũng vào năm 1966, 3 nhóm ngân hàng lớn phía đông nước Mỹ quyết định hợp
tác thành lập tập đoàn kinh doanh tín dụng riêng, có tên là Interbank Card Association
(ICA). Sau này, tên ICA được chuyển đổi thành MasterCard. ICA ban hành các quy
định về cấp phép giao dịch, thanh toán bù trừ, các biện pháp marketing, bảo mật và các
vấn đề liên quan tới luật pháp nhằm vận hành công việc một cách hiệu quả. Năm 1968,
ICA bắt đầu chiến lược mở rộng kinh doanh trên phạm vi toàn cầu thông qua việc liên
kết với Ngân hàng Banco National của Mexico. Sau thời gian đó, ICA tìm kiếm đối
tác tại thị trường Châu Âu, cho ra đời thẻ Eurocard. Cũng vào năm 1968, ICA kết nạp
thêm thành viên là một số ngân hàng tại Nhật, nhằm từng bước thâm nhập và nắm bắt

thị trường Đông Á này. Như vậy, thẻ ngân hàng ra đời từ nhu cầu thanh toán và phát
triển dựa trên nền tảng công nghệ cũng như chiến lược thay thế tiền mặt trong lưu
thông. Thực tế cho thấy, thẻ ngân hàng là một phát triển tất yếu trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng đồng thời đã và đang phản ánh đầy đủ những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật và văn minh xã hội. Tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của thế giới về khoa
học kỹ thuật, nhất là về công nghệ thông tin, hệ thống thẻ ngày càng hoàn thiện. Cùng
với mạng lưới thành viên và khách hàng phát triển hàng ngày, các Tổ chức thẻ quốc tế
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
11
đã xây dựng hệ thống xử lý giao dịch và trao đổi thông tin toàn cầu về phát hành,
thanh toán, cấp phép, tra soát, khiếu kiện và quản lý rủi ro. Với doanh số giao dịch
hàng trăm tỷ Đô la Mỹ mỗi năm, thẻ ngân hàng đang cạnh tranh quyết liệt cùng tiền
mặt và séc trong hệ thống thanh toán toàn cầu. Đây là một thành công đáng kể đối với
một ngành kinh doanh mới chỉ có vài thập kỷ hình thành và phát triển
 Tình hình phát triển thị trường thẻ tại Việt Nam
Trong khi thị trưởng thẻ trên thế giới đã sớm hình thành từ đầu thế kỷ 20, thì đến
những năm đầu thế kỷ 21 – khi Việt Nam bắt đầu mở cửa, hội nhập quốc tế, số lượng
khách du lịch tăng lên thì nhu cầu sử dụng thẻ là tất yếu, thị trường thẻ tại Việt Nam
bước đầu hình thành.
• Năm 1990, hợp đồng đại lý chi trả thẻ Visa giữa ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
với ngân hàng Pháp BFCE đã mở đầu quá trình hình thành thị trường thanh toán thẻ ở
Việt Nam.
• Đến năm 1991, Vietcombank tiếp tục ký hợp đồng đại lý thanh toán thẻ Mastercard
với công ty thẻ MBF Malaysia. Cũng trong năm 1991, thẻ JCB của Nhật cũng được
chấp nhận thanh toán ở Việt Nam theo hợp đồng đại lý ký kết giữa Vietcombank và
công ty JCB International Co Ltd của Nhật.
• Mục tiêu phát hành thẻ là định hướng được đặt ra của ngành ngân hàng Việt Nam.
Chính vì vậy, năm 1993, Vietcombank tiên phong thí điểm phát hành thẻ nội địa
Vietcombank Card.
• Ngay sau khi Mỹ bãi bỏ cấm vận đối với Việt Nam năm 1994, Vietcombank đã ký hợp

đồng đại lý thanh toán thẻ Amex với tổ chức thẻ American Express của Mỹ. Cũng
trong năm này, ngân hàng liên doanh Indovina bắt đầu chấp nhận thanh toán thẻ
Diners Club.
• Năm 1995, cùng với Vietcombank, các ngân hàng khác như ACB, Eximbank và First
Vina Bank đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thẻ Mastercard.
• Năm 1996, Vietcombank chính thức là thành viên của tổ chức thẻ quốc tế Visa
International. Tiếp theo sau, ngân hàng Á Châu, ngân hàng Công thương cũng lần lượt
là thành viên của tổ chức thẻ Visa. Cũng từ năm 1996, thị trường thẻ Việt Nam trở nên
sôi động và có nhiều thay đổi đáng kể với sự tham gia của nhiều chi nhánh ngân hàng
nước ngoài như: UOB, ANZ, Hongkong and Shanghai Banking…
• Năm 2002, với việc triển khai thành công hệ thống core-banking, các ngân hàng Việt
Nam bắt đầu phát hành thẻ nội địa và phát triển mạng lưới giao dịch tự động ATM.
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
12
• Hành lang pháp lý cho hoạt động thẻ lúc ấy chỉ là Quyết định số 74 do Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ký ban hành ngày 10/4/1993, quy định “thể lệ tạm thời về phát
hành và sử dụng thẻ thanh toán”.
• Việc ứng dụng thẻ ở Việt Nam vào thời điểm đó còn bị giới hạn rất nhiều về cơ sở
pháp lý, điều kiện kinh tế, hạ tầng kỹ thuật Trên cơ sở thỏa thuận của Ngân hàng
Nhà nước, ngân hàng thương mại thí điểm phát hành thẻ tự xây dựng quy chế, hợp
đồng phát hành và sử dụng thẻ, tức tính pháp lý chỉ dừng ở mức điều chỉnh “nội bộ”
giữa ngân hàng phát hành và chủ thẻ.
• Vào cuối tháng 6/2007, cả nước có trên 20 ngân hàng phát hành thẻ thanh toán, với
khoảng 6,2 triệu thẻ. Hầu hết ngân hàng đã trang bị máy ATM với khoảng 3.820 máy,
số thiết bị chấp nhận thẻ lên đến 21.875. Đồng thời, nhằm thúc đẩy phát triển nhu cầu
sử dụng thẻ, NHNN đã ban hành Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp
dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN
ngày 15/5/2007 (Quyết định 20) để thay thế cho Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1
ngày 19/10/1999.
• Và cho đến thời điểm cuối năm 2014, trên thị trường đã có 50 tổ chức phát hành thẻ

với số lượng trên 77,3 triệu thẻ đã được phát hành, gần 15.900 máy ATM và hơn
164.000 POS/EDC. Trước sự phát triển nhanh chóng của thị trường thẻ tại Việt Nam,
quyết định số 20/2007/QĐ – NHNN đã không còn phù hợp. Vì vậy, NHNN đã xây
dựng dự thảo Thông tư quy định về hoạt động thẻ ngân hàng (dự thảo Thông tư) để
thay thế Quyết định 20. NHNN cũng muốn tạo hành lang pháp lý đầy đủ và toàn diện.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh phải bao hàm đầy đủ các hoạt động và chủ thể tham
gia trên thị trường thẻ, tạo dựng được một môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy
việc sử dụng thẻ trong thanh toán không dùng tiền mặt.
• Thời gian đầu mới hình thành, thị trường thẻ Việt Nam được đánh giá là phát triển rời
rạc do mỗi ngân hàng tự đầu tư hệ thống ATM và người sử dụng phải chạy tìm đúng
máy ATM của ngân hàng phát hành thẻ mới có thể rút tiền được. Hạn chế này được
khắc phục một phần sau khi bốn liên minh thẻ được thành lập, trong đó liên minh lớn
nhất do Vietcombank chủ trì với 17 ngân hàng khác (Smartlink). Ba liên minh còn lại
là Công ty cổ phần Chuyển mạch tài chính quốc gia (gọi tắt là Banknetvn do Ngân
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
13
hàng Nhà nước chỉ định Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm trung
tâm kết nối); liên minh VNBC giữa Ngân hàng Đông Á, Sài Gòn Công thương, Ngân
hàng Phát triển nhà ĐBSCL (MHB) và Ngân hàng Nhà Hà Nội (HBB) và liên minh
giữa Ngân hàng Sacombank và ANZ. Cho đến năm 2014, chỉ còn lại 2 liên minh thẻ là
Smartlink và Banknetvn ( do liên minh VNBC sáp nhập vào Banknetvn; Sacombank
và ANZ đã chấm dứt hợp tác sau khi ANZ thoái vốn tại Sacombank vào năm 2012).
• Vào ngày 25/12/2014, hai liên minh thẻ Smartlink và Banknetvn chính thức ký kết hợp
đồng sáp nhập nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm chi phí xã hội, cải thiện chất
lượng dịch vụ, phát triển đa dạng hóa các dịch vụ giá trị gia tăng trên nền tảng hệ
thống chuyển mạch thống nhất
Qua đây, có thể thấy được rằng: mặc dù Việt Nam tham gia vào thị trường thẻ
muộn hơn so với thế giới nhưng hoạt động kinh doanh thẻ không ngừng phát triển theo
hướng đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, nâng cao chất lượng thẻ, công nghệ kỹ thuật,
đem lại nhiều tiệc ích, tiệt kiệm thời gian, chi phí cho khách hàng cũng như cho nền

kinh tế.
1.1.2- Phân loại thẻ do ngân hàng phát hành
1.1.2.1- Theo đặc điểm tính chất của thẻ
 Thẻ ghi nợ
Thẻ ghi nợ là loại thẻ thanh toán bằng nhựa cung cấp cho chủ thẻ khả năng truy
nhập điện tử vào tài khoản mở tại định chế tài chính. Việc thanh toán liên quan đến thẻ
ghi nợ được kết nối với một tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng. Khi sở hữu
thẻ ghi nợ, chủ thẻ có thể thanh toán hoặc rút tiền mặt trên cơ sở số tiền đang có trong
tài khoản. Theo phạm vi sử dụng, thẻ ghi nợ có 2 loại: thẻ ghi nợ nội địa và thẻ ghi nợ
quốc tế.
Để sử dụng thẻ ghi nợ, khách hàng phải có tài khoản thẻ tại ngân hàng (có thể
mở tài khoản khi đăng ký sử dụng thẻ). Với thẻ ghi nợ, khách hàng có thể thanh toán
hoặc rút tiền mặt tại các điểm chấp nhận thẻ, máy ATM. Khách hàng cũng có thể kiểm
tra tài khoản, đổi mật mã, chuyển khoản, xem và in sao kê giao dịch ngay trên ATM.
Bên cạnh đó, thẻ ghi nợ còn có những tiện ích đáng chú ý như:
- Tiền chưa sử dụng trong thẻ sinh lãi hàng ngày theo lãi suất không kỳ hạn
- Một số ngân hàng miễn phí rút tiền khi rút tại máy ATM trong hệ thống
- Một số ngân hàng cho phép chủ thẻ chi tiêu đến đồng cuối cùng trong thẻ hoặc được
phép thấu chi khi tài khoản hết tiền nếu chủ thẻ đăng ký mở tài khoản thấu chi.
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
14
 Thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng là loại thẻ cho phép chủ thẻ được thực hiện giao dịch trong phạm vi
hạn mức tín dụng đã được cấp theo thỏa thuận với tổ chức phát hành thẻ. Chủ thẻ phải
thanh toán ít nhất mức trả nợ tối thiểu khi đến hạn quy định và sẽ phải trả lãi cho số
tiền còn nợ theo mức lãi suất thỏa thuận trước. Thẻ tín dụng được xem như một công
cụ cho vay tiêu dùng của tổ chức phát hành cấp cho chủ thẻ.
Chủ thẻ không cần phải trả tiền mặt ngay khi mua hàng. Thay vào đó, Ngân
hàng sẽ ứng trước tiền cho người bán và Chủ thẻ sẽ thanh toán lại sau cho ngân hàng.
Thẻ tín dụng cho phép khách hàng "trả dần" số tiền thanh toán trong tài khoản. Chủ

thẻ không phải thanh toán toàn bộ số dư trên bảng sao kê giao dịch hằng tháng. Tuy
nhiên, Chủ thẻ phải trả khoản thanh toán tối thiểu trước ngày đáo hạn đã ghi rõ trên
bảng sao kê. Thẻ tín dụng khác với thẻ ghi nợ vì tiền không bị trừ trực tiếp vào tài
khoản tiền gửi của chủ thẻ ngay sau mỗi lần mua hàng hoặc rút tiền mặt.
Khi mua sắm, người dùng thẻ cam kết sẽ trả tiền cho nhà phát hành thẻ. Chủ thẻ
thể hiện cam kết này bằng cách ký tên lên hóa đơn có ghi chi tiết của thẻ cùng với số
tiền, hoặc bằng cách nhập một mật mã cá nhân (PIN). Ngoài ra nhiều điểm bán hàng
cũng chấp nhận cách thức xác minh qua điện thoại hoặc xác minh qua internet cho
những giao dịch được gọi là giao dịch vắng thẻ hoặc vắng chủ thẻ (CNP -
Card/Cardholder Not Present).
Chủ thẻ cũng có thể rút tiền mặt từ tài khoản thẻ tín dụng (tiền mặt ứng trước)
nếu muốn
Người ta sử dụng nhiều hệ thống điện tử để xác minh trong vòng vài giây tính
hợp lệ của thẻ cũng như kiểm tra xem hạn mức tín dụng của thẻ còn đủ chi trả cho lần
mua sắm đó không. Việc xác minh được thực hiện bằng một đầu đọc thẻ (POS - Point
of Sale) kết nối vào ngân hàng thu nhận (acquiring bank) của người bán hàng.
 Thẻ trả trước
Thẻ trả trước cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch trong phạm vi giá trị tiền được
nạp vào thẻ, tương ứng với số tiền mà chủ thẻ đã trả trước cho tổ chức phát hành thẻ.
Chủ thẻ trả trước không nhất thiết phải có quan hệ tài khoản với ngân hàng. Thẻ trả
trước gồm có thẻ trả trước định danh và thẻ trả trước vô danh.
Thẻ trả trước có một số tiện ích như:
 Thực hiện thanh toán trực tiếp, online hoặc qua điện thoại.
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
15
 Tặng thẻ làm quà tặng cho bạn bè và gia đình.
 Rút tiền mặt từ máy ATM hoặc ngân hàng.
 Chuyển lương vào thẻ.
 Thanh toán hóa đơn.
1.1.2.2- Phân loại thẻ theo phạm vi sử dụng

 Thẻ nội địa:
Thẻ nội địa là loại thẻ chỉ sử dụng trong phạm vi một quốc gia và đồng tiền giao
dịch là đồng bản tệ. Thông thường đó là thẻ ghi nợ của các ngân hàng thương mại,
được phát hành, sử dụng tại hệ thống máy ATM và mạng lưới các ĐVCNT trong
nước.
Thường nhược điểm của loại thẻ này là ngân hàng phải thu hút một số lượng khá
lớn mhững đơn vị chấp nhận thẻ và người sử dụng thẻ. Nếu số lượng này quá ít thì
việc kinh doanh trở nên không hiệu quả, mặt khác việc sử dụng bị giới hạn trong phạm
vi nột quốc gia.
 Thẻ quốc tế:
Thẻ quốc tế là loại thẻ có thể được sử dụng trên phạm vi trong nước và quốc tế.
Để phát hành thẻ quốc tế, tổ chức phát hành thẻ phải là thành viên của tổ chức thẻ
quốc tế, tuân thủ chặt chẽ các qui định trong việc phát hành và thanh toán thẻ do tổ
chức thẻ quốc tế đó ban hành
Thuận lợi chủ yếu của thẻ quốc tế là ở chỗ các ngân hàng nhận được nhiều sự
giúp đỡ về nghiên cứu thị trường, xử lý và nâng cao những yếu tố kĩ thuật của thẻ với
chi phí thấp hơn nhiều so với hoạt động. Ngoài ra, do phát hành qua một chương trình
độc quyền thẻ được nhiều người biết đến và dễ dàng được chấp nhận ở hầu hết mọi
nơi.
1.1.2.3- Phân loại thẻ theo công nghệ:
- Thẻ khắc chữ nổi (embossed card): là loại thẻ sơ khai ban đầu, các thông tin cơ
bản được khắc nổi trên thẻ, loại này nhanh chóng bị thay thế bởi tính bảo mật kém và
dễ làm giả.
- Thẻ băng từ (magnetic stripe): thẻ được phủ một băng từ với 2 hoặc 3 dãy để
ghi những thông tin cần thiết đã được mã hóa, các thông tin này thường là thông tin cố
định về chủ thẻ và số liệu kết nối. Khi trình độ công nghệ phát triển cao, nó bộc lộ
những điểm yếu do tính bảo mật không an toàn, dễ bị kẻ gian lợi dụng đọc thông tin và
làm giả thẻ, hoặc tạo các giao dịch giả gây thiệt hại cho chủ thẻ và ngân hàng.
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
16

- Thẻ thông minh (smart card - thẻ chip): thẻ được sản xuất dựa trên kỹ thuật vi
xử lý nhờ gắn một chíp điện tử theo nguyên tắc xử lý như một máy tính nhỏ. Đây là
thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, nó khắc phục nhiều nhược điểm của thẻ từ, đảm
bảo tính an toàn cao.
1.1.3- Quy trình phát hành và thanh toán thẻ
1.1.3.1- Quy trình phát hành thẻ
Quy trình phát hành thẻ ngân hành bao gồm các bước như sau:
a- Nhận hồ sơ
 Đối với thẻ ghi nợ
- Phiếu đăng ký thông tin khách hàng (chỉ một số ngân hàng yêu cầu)
- Giấy đề nghị cấp thẻ theo mẫu của từng ngân hàng
- Bản sao chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu
- Số tiền tối thiểu để duy trì trong tài khoản
 Đối với thẻ tín dụng
- Phiếu đăng ký thông tin khách hàng
- Giấy đề nghị cấp thẻ và hợp đồng sử dụng theo mẫu của ngân hàng
- Bản sao chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu
b- Thẩm định hồ sơ
 Đối với thẻ ghi nợ: không cần thẩm định hồ sơ
 Đối với thẻ tín dụng:
• Phòng giao dịch/ Các chi nhánh tiến hành lập tờ trình thẩm định cấp thẻ tín
dụng và trình tại Ban tín dụng của Chi nhánh đó.
• Nội dung thẩm định như sau:
- Tư cách chủ thẻ ( đối với thẻ cá nhân), tư cách doanh nghiệp ( đối với thẻ doanh
nghiệp)
- Khả năng thánh toán của chủ thẻ hoặc doanh nghiệp
- Tiềm lực tài chính của chủ thẻ hoặc doanh nghiệp
- Tài sản đảm bảo
- Các yếu tố ảnh hưởng khác
c- Sau khi có kết quả thẩm định

 Đối với hồ sơ được chấp nhận
- Nhân viên phòng thẻ sẽ ghi các thông tin cần thiết vào phần dành cho ngân
hàng ở mặt sau, Đơn đề nghị cấp thẻ và các thông tin cần thiết vào hợp đồng sử
dụng thẻ
- Ban tín dụng ký duyệt vào tờ trình thẩm định, Đơn đề nghị cấp thẻ, Hợp đồng
sử dụng thẻ, quyết định Hạn mức tín dụng cho thẻ
 Đối với hồ sơ không được chấp nhận
- Phòng thẻ lập thông báo từ chối gửi đến khách hàng
d- Phát hành thẻ
• Nhân viên ngân hàng chuyển hồ sơ về trung tâm thẻ để làm thẻ cho khách hàng
• Sau khi làm thẻ xong, trung tâm thẻ sẽ phân loại thẻ và phân phối thẻ đến chi
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
17
nhánh.
• Chi nhánh nhận được thẻ làm thông báo giao nhận thẻ gửi cho trung tâm thẻ.
• Trung tâm thẻ tiến hành mở mã để thẻ được sử dụng.
• Về phía chi nhánh, lập hồ sơ theo dõi tình hình sử dụng thẻ của chủ thẻ.
1.3.1.2- Quy trình thanh toán thẻ
Quá trình thanh toán thẻ ngân hàng được thực hiện theo quy trình gồm:
 Tại ngân hàng phát hành
• Ngân hàng phát hành thẻ hoặc ngân hàng thanh toán thẻ phải thỏa thuận
bằng hợp đồng với đơn vị chấp nhận thẻ
• Ngân hàng phát hành thẻ phải hướng dẫn đầy đủ quy trình thanh toán thẻ
cho đơn vị chấp nhận thẻ
 Tại các đơn vị chấp nhận thẻ:
• Khi chủ thẻ xuất trình thẻ để mua hàng hóa, dịch vụ, đơn vị chấp nhận
thẻ phải dùng máy chuyên dùng để kiểm tra, đồng thời kiểm tra:
 Tính hợp lệ, thời hạn hiệu lực của thẻ
 Đối chiếu số thẻ của khách hàng với danh sách từ chối chấp nhận thanh
toán của ngân hàng phát hành thẻ

 Đối chiếu số tiền thanh toán với hạn mức thanh toán
 Kiểm tra chứng minh nhân dân, hộ chiếu của người cầm thẻ để xác định
xem đó có phải là chủ thẻ không
• Nếu thẻ đầy đủ thanh toán, đơn vị chấp nhận thẻ lập hóa đơn thanh toán,
yêu cầu chủ thẻ ký trên hóa đơn và đối chiếu với chữ ký trên thẻ ( nếu có
). Hóa đơn thanh toán được lập 3 liên, sử dụng như sau:
 1 liên đưa cho chủ thẻ
 1 liên lưu tại đơn vị chấp nhận thẻ
 1 liên cùng với các hóa đơn thanh toán gửi cho ngân hàng thanh toán để
tiến hành thanh toán thẻ
 Tại ngân hàng thanh toán thẻ:
• Nhận được bảng kê kèm các hóa đơn thanh toán của đơn vị chấp nhận
thẻ gửi đến.
• Sau khi kiểm tra các điều kiện thanh toán, ngân hàng tiến hành thanh
toán cho đơn vị chấp nhận thẻ
• Việc thanh toán giữa ngân hàng phát hành thẻ và ngân hàng thanh toán
thẻ về số tiền thanh toán cho đơn vị chấp nhận thẻ phải theo thỏa thuận
giữa 2 bên qua phương thức thanh toán giữa các ngân hàng
1.2- Rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ ngân hàng
1.2.1- Khái niệm về rủi ro trong kinh doanh thẻ của NHTM
Rủi ro trong hoạt động thẻ là các tổn thất về vật chất hoặc phi vật chất có liên
quan tới hoạt động kinh doanh thẻ, bao gồm hoạt động phát hành, sử dụng và thanh
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
18
toán thẻ. Đối tượng chịu rủi ro là ngân hàng, chủ thẻ và đơn vị chấp nhận thẻ.
1.2.2- Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
1.2.2.1- Xem xét rủi ro từ góc độ tổng quát chung: có thể xảy ra do những rủi ro sau:
• Rủi ro về môi trường pháp lý: trong hoạt động kinh doanh thẻ, quá trình thực hiện giao
dịch đôi khi có liên quan đến các chủ thể nước ngoài; do vậy có một số vấn đề không
những bị điều chỉnh bởi luật pháp trong nước mà còn có thể bị điều chỉnh bởi pháp

luật nước ngoài, thông lệ quốc tế. Nếu các chủ thể tham gia thanh toán thẻ không nắm
bắt được hết các nội dung, quy phạm pháp luật điều chỉnh dễ dẫn đến rủi ro.
• Rủi ro về kinh tế: các cơ chế chính sách về thuế thu nhập, thuế nhập khẩu,… đều ảnh
hưởng đến khả năng hoàn trả của chủ thẻ, cũng như hiệu quả của việc đầu tư, đổi mới
trang thiết bị ngành thẻ.
• Rủi ro về chính trị: Hệ thống chính trị xảy ra biến cố sẽ tác động đến nền kinh tế, dẫn
đến khả năng có thể xảy ra rủi ro; đặc biệt trong quan hệ với nước ngoài hoặc các tổ
chức quốc tế, bất cứ một lệnh cấm vận nào có hiệu lực thực hiện với nước có liên quan
đều ảnh hưởng và có thể gây nên tổn thất.
• Rủi ro về xã hội: Trình độ dân trí thấp dễ dẫn đến rủi ro trong hoạt động thanh toán
thẻ. Khi nhận thức chưa hết trách nhiệm, quyền hạn, quy định cũng như các ràng buộc
có thể dẫn đến những sai sót, vi phạm vô tình hay cố ý đều gây nên rủi ro cho chính
bản thân mình hoặc cho các chủ thể khác. Bên cạnh đó, đông đảo tầng lớp dân cư cho
dù không phải là chủ thẻ cũng có thể gây tổn thất, rủi ro cho ngân hàng như làm hư
hỏng các trang thiết bị giao dịch tự động đặt tại nơi công cộng.
• Rủi ro về kỹ thuật: rủi ro phát sinh khi hệ thống quản lý thẻ có sự cố liên quan đến xử
lý dữ liệu, hoặc kết nối do các sự cố, trục trặc về máy móc, thiết bị, công nghệ thông
tin viễn thông,…Trong điều kiện hiện nay, khi số lượng thẻ và khối lượng giao dịch
trên toàn cầu đã lên tới con số khổng lồ thì quá trình xử lý đòi hỏi sự hổ trợ và lệ thuộc
rất lớn vào trang thiết bị, công nghệ tin học, đặc biệt là thiết bị xử lý tự động. Với bất
cứ sự cố, sai sót nào của các thiết bị trong hệ thống viễn thông đều có thể dẫn đến tổn
thất lớn.
1.2.2.2- Xem xét rủi ro từ góc độ các chủ thể tham gia vào hoạt động phát hành, sử
dụng và thanh toán thẻ
 Rủi ro đối với ngân hàng phát hành (NHPH):
• Giả mạo thông tin phát hành thẻ: Khách hàng có thể cung cấp thông tin giả mạo về
bản thân, khả năng tài chính, mức thu nhập,… cho NHPH khi yêu cầu phát hành thẻ.
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
19
Nếu NHPH không thẩm định thông tin khách hàng, có thể dẫn đến những tổn thất tín

dụng cho NHPH khi chủ thẻ không có đủ khả năng thanh toán các khoản tín dụng thẻ
hoặc chủ thẻ cố tình lừa đảo để chiếm dụng tiền của ngân hàng.
• Thẻ giả: là loại rủi ro lớn nhất và nguy hiểm nhất hiện nay mà tất cả các tổ chức thẻ rất
quan tâm. Tội phạm làm thẻ giả dựa trên các thông tin lấy được qua việc đánh cắp các
dữ liệu của thẻ thật bằng các thủ đoạn khác nhau từ các chứng từ giao dịch thẻ hoặc từ
thẻ bị mất cắp, thất lạc. Theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế, NHPH chịu hoàn toàn
trách nhiệm với mọi giao dịch mang mã số của NHPH, nên buộc các NHPH phải có
những biện pháp bảo mật thông tin trên thẻ cũng như các ràng buộc kiểm tra khi chấp
nhận thanh toán thẻ.
• Thẻ mất cắp, thất lạc: Thẻ bị mất cắp hoặc thất lạc và bị sử dụng trước khi chủ thẻ kịp
thời thông báo cho NHPH để có các biện pháp chấm dứt sử dụng hoặc thu hồi thẻ. Thẻ
bị mất cắp, thất lạc cũng có thể bị bọn tội phạm sử dụng làm thẻ giả (như dập nổi, mã
hóa lại băng từ bằng các thông tin giả mạo). Cần cảnh giác với những trường hợp chủ
thẻ cố tình gian lận, báo mất thẻ và sau đó sử dụng thẻ.
• Rủi ro do sử dụng vượt hạn mức (sử dụng nhiều lần dưới mức cấp phép): rủi ro xảy ra
cho NHPH khi chủ thẻ lợi dụng quy định về hạn mức cấp phép. Chủ thẻ cố tình sử
dụng nhiều lần các giao dịch dưới hạn mức phải xin cấp phép, và dẫn đến tổng số sử
dụng vượt trội rất nhiều so với hạn mức được cấp. NHPH chỉ phát hiện khi tổng kết
các hóa đơn quay về ngân hàng hoặc khi in sao kê thanh toán. Rủi ro hoàn toàn xảy ra
khi chủ thẻ không đủ khả năng thanh toán.
• Rủi ro do lợi dụng tính chất thanh toán và quy định sử dụng thẻ để lừa gạt ngân hàng:
chủ thẻ thông đồng với người khác, giao thẻ và mã số PIN cho người đó mang đi sử
dụng ở nước ngoài bằng chữ ký giả mạo của chủ thẻ; sau đó từ chối thanh toán khi bị
NHPH đòi tiền vì chủ thẻ đã đưa ra bằng chứng hợp lý tại thời điểm đó chủ thẻ không
có mặt tại nơi xảy ra giao dịch.
• Chủ thẻ không nhận được thẻ do NHPH gửi: Thẻ bị đánh cắp hoặc bị lợi dụng thực
hiện giao dịch trong quá trình chuyển từ NHPH đến chủ thẻ. Thẻ bị sử dụng trong khi
chủ thẻ đích thực không hay biết gì về việc thẻ đã gửi cho mình. NHPH chịu mọi rủi
ro đối với các giao dịch bị lợi dụng đó.
• Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng: Rủi ro này phát sinh khi NHPH nhận được những

thay đổi thông tin của chủ thẻ đặc biệt là thay đổi địa chỉ của chủ thẻ. Do không xác
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
20
minh kỹ, nên NHPH đã gửi thẻ về địa chỉ theo như yêu cầu, mà không đến tay chủ thẻ
thực. Tài khoản của chủ thẻ thực đã bị người khác lợi dụng sử dụng.
• Sao chép thông tin tạo băng từ giả (Skimming): Trường hợp này xảy ra khi ĐVCNT
cấu kết với các tổ chức tội phạm lấy cắp thông tin trên băng từ của thẻ thật sử dụng tại
cơ sở của mình bằng các thiết bị chuyên dùng để tạo ra thẻ giả sử dụng. Đây là môt
hình thức lợi dụng rất tinh vi, vô cùng khó phát hiện, gây tổn thất tương đối lớn cho
NHPH.
• ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ: ĐVCNT được xác định là địa điểm xảy ra việc đánh
cắp dữ liệu thẻ để sử dụng vào mục đích tạo các thẻ giả hoặc giao dịch giả mạo. Hoặc
ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ chấp nhận thanh toán thẻ giả.
• Rủi ro tín dụng: Chủ thẻ sử dụng thẻ nhưng không thực hiện thanh toán hoặc không đủ
khả năng thanh toán. Cần lưu ý trong khâu thẩm định thông tin và khả năng thanh toán
của khách hàng.
 Rủi ro đối với ngân hàng thanh toán (NHTT):
• ĐVCNT giả mạo: ĐVCNT cố tình đăng ký các thông tin không chính xác với NHTT.
NHTT sẽ chịu tổn thất khi không thu được những khoản đã tạm ứng cho những
ĐVCNT trong trường hợp những ĐVCNT này thông đồng với chủ thẻ hoặc cố tình tạo
ra các hoá đơn hoặc giao dịch giả mạo.
• Nhân viên ĐVCNT in nhiều hoá đơn thanh toán của một thẻ hoặc sửa đổi thông tin
trên các hoá đơn thẻ: Khi thực hiện giao dịch, nhân viên của ĐVCNT đã cố tình in ra
nhiều bộ hoá đơn thanh toán thẻ, nhưng chỉ giao một bộ hóa đơn cho chủ thẻ ký để
hoàn thành giao dịch. Sau đó, nhân viên của ĐVCNT giả mạo chữ ký của chủ thẻ để
nộp các hoá đơn thanh toán còn lại cho NHTT để lấy tiền tạm ứng của NHTT.
• NHTT không cung cấp kịp thời danh sách đen cho ĐVCNT dẫn đến ĐVCNT thanh
toán thẻ đã cấm lưu hành.
• NHTT có sai sót trong việc cấp phép chuẩn chi với giá trị thanh toán lớn hơn giá trị
cấp phép.

 Rủi ro đối với ĐVCNT:
• Các giao dịch giả mạo thực hiện thanh toán qua thư, điện thoại, Internet: Các ĐVCNT
cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo yêu cầu bằng thư, điện thoại, fax của chủ thẻ, dựa trên
các thông tin giả mạo như loại thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ, ngày hiệu lực. Đặc biệt, khi
công nghệ Internet phát triển, thương mại điện tử đã trở thành phổ biến thì rủi ro này
rất dễ xảy ra. ĐVCNT cũng như NHTT có thể chịu tổn thất trong trường hợp chủ thẻ
thực không phải là khách đặt mua hàng của ĐVCNT và giao dịch đó bị từ chối thanh
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
21
toán.
• ĐVCNT thanh toán vượt hạn mức giao dịch không xin cấp phép, bị NHTT từ chối
toàn bộ giá trị giao dịch. Một số ĐVCNT quan niệm sai cho rằng mình chỉ chịu trách
nhiệm ở phần vượt hạn mức nên đã thanh toán nhiều giao dịch vượt hạn mức với tỷ lệ
nhỏ. Thực tế NHTT sẽ từ chối toàn bộ giao dịch chứ không phải chỉ từ chối phấn vượt
mà thôi.
• ĐVCNT vô tình hay cố ý chấp nhận thẻ giả mạo, thẻ hết hiệu lực, mất cắp, thất lạc
hoặc các trường hợp skimming,…
• ĐVCNT sửa chữa hóa đơn: theo qui định, khi thực hiện giao dịch, chủ thẻ sẽ giữ lại 1
liên để làm cơ sở đối chiếu sau này. Trong trường hợp vô tình hay cố ý mà ĐVCNT
sữa chữa, tẩy xóa hóa đơn xuất trình thanh toán, NHTT có thể căn cứ vào đó từ chối
thanh toán cho ĐVCNT.
 Rủi ro đối với chủ thẻ:
• Thẻ bị mất cắp hay thất lạc được sử dụng trước khi chủ thẻ kịp thông báo cho NHPH
có biện pháp hạn chế sử dụng hoặc thu hồi.
• Lộ mã số bí mật cá nhân (PIN): mã số PIN được giao cho chủ thẻ và chủ thẻ có quyền
thay đổi. PIN được sử dụng khi thực hiện các giao dịch tự động với các thiết bị tự
động, đặc biệt là thẻ ATM. Do vậy, khi để lộ PIN trong trường hợp thẻ bị mất cắp mà
chủ thẻ chưa kịp báo cho ngân hàng phát hành khóa thẻ hoặc trường hợp thẻ bị “lấy
cắp tạm thời” để rút tiền mặt hoặc chuyển khoản sẽ gây ra thiệt hại rủi ro cho chủ thẻ.
1.2.3- Các nguyên nhân và hậu quả rủi ro trong kinh doanh thẻ của ngân hàng

thương mại
1.2.3.1- Nguyên nhân
 Nguyên nhân xuất phát từ chính ngân hàng
Như đã nghiên cứu trên, rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ có thể phát sinh từ
nhiều phía. Dưới góc độ ngân hàng, rủi ro xảy ra từ một số nguyên nhân sau:
• Việc mở rộng thị trường thẻ thời gian qua còn nhiều điểm bất cập, các ngân hàng chỉ
lo phát triển thị phần mà thiếu quan tâm đến chất lượng dịch vụ. Hầu hết các ngân
hàng chưa quan tâm đúng mức đến việc cảnh báo khách hàng về rủi ro thẻ. Tại các
điểm giao dịch cũng như trên các trang web của ngân hàng, hầu như không có các
hướng dẫn an toàn khi sủ dụng thẻ mà chỉ có hướng dẫn về cách sử dụng thẻ.
• Trình độ của cán bộ thẻ ở một số ngân hàng còn hạn chế, còn non nớt nghiệp vụ, thiếu
thận trọng trong xử lý nghiệp vụ. Một số ngân hàng chưa chú trọng công tác đào tạo
cán bộ và phát triển nguồn nhân lực thẻ. Nhiều ngân hàng chưa có chương trình đào
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
22
tạo bài bản cho nhân viên, chưa tạo môi trường làm việc thân thiện, chính sách dùng
người hiệu quả Các cán bộ thẻ chủ yếu tự đào tạo bằng cách tự nghiên cứu tài liệu,
người làm trước hướng dẫn người làm sau. Họ không được đào tạo chuyên nghiệp
cũng như không được cập nhật tài liệu đầy đủ. Nhiều ngân hàng chưa có cán bộ
chuyên trách về nghiệp vụ thẻ mà chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm.
• Một số NHTT tại Việt Nam chưa chú trọng đến việc hướng dẫn các ĐVCNT thực hiện
theo quy trình chấp nhận thanh toán thẻ, đặc biệt là các trường hợp kiểm tra, phát hiện
sử dụng thẻ giả mạo khi giao dịch.
• Các chương trình phát triển thẻ của các ngân hàng hiện chưa chú trọng công tác quản
trị rủi ro. Cụ thể như chưa xác định cụ thể những rủi ro có thể gây thiệt hại cho ngân
hàng, không ước lượng được mức độ thiệt hại cho phép, chưa đề xuất cụ thể các biện
pháp giám sát và phòng chống rủi ro hiệu quả.
• Một số ngân hàng chưa thành lập quỹ dự phòng rủi ro cho dịch vụ thẻ và cũng chưa có
sự hợp tác chặt chẽ giữa các ngân hàng để phòng chống rủi ro, chống gian lận thẻ.
 Nguyên nhân do yếu tố công nghệ

Ngày nay, trình độ công nghệ luôn thay đổi, đòi hỏi các ngân hàng phải có nguồn
nhân lực am hiểu về công nghệ thông tin liên quan đến thẻ và phải có vốn đầu tư lớn
cho hệ thống mạng ATM, cũng như hệ thống kỹ thuật nối các máy POS. Thực tế cho
thấy rủi ro do yếu tố công nghệ phát sinh từ những nguyên nhân sau:
• Mặt bằng công nghệ, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho dịch vụ thẻ của các ngân
hàng thương mại Việt Nam chưa cao, chưa đáp ứng được tốc độ phát triển của hoạt
động kinh doanh thẻ. Những sai sót do lỗi hệ thống cũng thường xuyên xảy ra như
mạng bị treo, hệ thống xử lý không chính xác các giao dịch,… đã ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng dịch vụ thẻ và uy tín của ngân hàng.
• Hệ thống quản lý phát hành và thanh toán thẻ của các ngân hàng chưa thống nhất dẫn
đến sự không tương thức, gây khó khăn và tốn kém cho việc kết nối đồng bộ thành
một hệ thống sau này.
• Hầu hết các ngân hàng Việt Nam hiện nay chỉ phát hành thẻ từ, vốn rất dễ bị làm giả
nếu kẻ gian nắm trong tay dữ liệu về tài khoản của khách hàng. Hơn nữa, với sự tiến
bộ của công nghệ tin học, các tổ chức tội phạm ngày càng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh
vi kỹ thuật cao để sao chép dữ liệu, lấy cắp thông tin thẻ thật để làm thẻ giả lợi dụng
chi tiêu.
• Đối với rủi ro máy ATM chi lộn tiền, một trong những nguyên nhân là do các máy
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
23
ATM không có khả năng phân biệt tiền theo mệnh giá. Các máy ATM trên thế giới
đều được thiết kế với việc xác định mệnh giá tiền đưa ra khi chi trả cho khách hàng
qua các trang thiết bị cảm ứng về độ dày, chiều rộng của tờ tiền để tránh trường hợp
trả nhầm. Tuy nhiên, các mệnh giá tiền của Việt Nam hiện nay được thiết kế và sản
xuất khá tương đương nhau về kích cỡ, độ dày nên các chức năng trên hiện chưa phát
huy được hiệu quả tại Việt Nam nếu trường hợp xếp nhầm mệnh giá vào hộp tiền xảy
ra.
 Nguyên nhân do người sử dụng
Rủi ro do chủ thẻ gây ra, phát sinh do môt số nguyên nhân sau:
• Chủ thẻ mất khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng do chủ thẻ gặp tai nạn, tử vong, phá

sản, mất việc làm,…
• Nhiều chủ thẻ chưa có thói quen đảm bảo an toàn cho thẻ của mình, thường hay đưa
cho người khác cầm sử dụng thay mình. Người Việt Nam quen lấy số pin trùng với
ngày sinh, số xe hay số điện thoại nên khi mất ví, trong đó có thẻ ATM kèm luôn các
giấy tờ tuỳ thân, rất dễ bị kẻ gian lợi dụng chi tiêu. Do đó, chủ thẻ nên xem thẻ là tiền,
giữ thẻ và số PIN cẩn thận không chỉ bảo vệ túi tiền mà còn tránh rắc rối cho các mối
quan hệ gần gũi
• Phần lớn các chủ thẻ thường không đọc kỹ các hợp đồng dịch vụ sử dụng thẻ, hóa đơn
thanh toán, xem sơ rồi ký dẫn đến nhầm lẫn mất tiền hay khiếu nại tranh chấp bồi
hoàn.
 Nguyên nhân do ĐVCNT
Thời gian qua, rủi ro xảy ra xuất phát từ ĐVCNT có thể đúc kết từ một số nguyên
nhân sau:
• Rủi ro tác nghiệp của nhân viên tại ĐVCNT: một số ĐVCNT không thực hiện cẩn
thận các qui định trong qui trình chấp nhận thanh toán thẻ đã tạo điều kiện cho các cá
nhân, tổ chức tội phạm lợi dụng sử dụng thẻ giả để rút tiền hoặc thanh toán mua hàng
hóa dịch vụ. Theo thống kê khảo sát của Tổ chức thẻ Visa, chỉ 46% ĐVCNT hiểu biết
về những tiêu chuẩn quốc tế trong bảo mật thanh toán và chỉ có 26% số điểm bán hàng
thực sự áp dụng những tiêu chuẩn đó.
• Một số ĐVCNT đã cấu kết với các tổ chức tội phạm lấy cắp thông tin thẻ thật để tạo ra
thẻ giả hoặc cố tình gian lận thực hiện nhiều giao dịch thẻ chưa được sự đồng ý của
chủ thẻ như: sửa lại số tiền gốc, cà nhiều hóa đơn,….
 Nguyên nhân do yếu tố pháp lý
Hoạt động kinh doanh thẻ ở Việt Nam ngày càng phát triển phong phú đa dạng cả
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
24
về chất lượng lẫn số lượng, nhưng các qui đinh, luật lệ và văn bản hướng dẫn liên quan
không bắt kịp sự phát triển đó. Từ phía cơ quan quản lý nhà nước, các quy định của
luật pháp về phòng chống rủi ro thẻ chưa cụ thể, chưa có đủ cơ sở pháp lý riêng điều
chỉnh các tranh chấp trong lĩnh vực thẻ, thiếu các chế tài nghiêm ngặt bảo vệ người

tiêu dùng, trừng phạt kẻ xấu lợi dụng cơ chế để trục lợi. Trong Bộ luật Hình sư, tội
phạm thẻ cũng được quy vào tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Như vậy, việc hoàn
thiện khung pháp lý cho hoạt động thẻ vẫn chưa được quan tâm đúng.
1.2.3.2- Các hậu quả của rủi ro trong kinh doanh thẻ ngân hàng
Rủi ro trong kinh doanh thẻ đã gây ra nhiều hậu quả lớn đối với cả các ngân hàng
và cả về phía chủ thẻ và xã hội
 Về phía chủ thẻ:
Có thể nói, cho dù nguyên nhân gây ra rủi ro là từ phía ngân hàng, ĐVCNT hay
từ phía chủ thẻ thì chủ thẻ là đối tượng trực tiếp chịu hậu quả từ rủi ro trong việc kinh
doanh thẻ của các ngân hàng thương mại. Những rủi ro này phát sinh một cách thường
xuyên mà chủ thẻ không lường trước được hậu quả của chúng. Chẳng hạn như:
- Nếu chủ thẻ làm mất thẻ mà không báo ngay cho ngân hàng phát hành, vô hình chung
đã tiếp tay cho các tổ chức cá nhân, lừa đảo. Các tổ chức, cá nhân này có thể lợi dụng
thông tin thẻ có được để thực hiện hành vi lừa đảo trên mạng, bắt cóc tống tiền và yêu
cầu nạn nhân gửi tiền vào tài khoản của chủ thẻ. Sau đó, những đối tượng này sẽ cầm
thẻ ra ATM để rút tiền. Dựa vào cách này thì công an sẽ khó truy ra được thông tin của
tội phạm. Như vậy, chủ thẻ vừa bị lợi dụng tài khoản, vừa bị vướng vào cuộc điều tra
của công an.
- Đối với những sự cố kĩ thuật về máy ATM, máy POS khiến cho thẻ không sử dụng
được, gây mất thời gian cho khách hàng, đôi khi khiến chủ thẻ rơi vào những tình
huống khó xử nếu chủ thẻ không mang theo tiền mặt để thanh toán.
- Với những rủi ro tác nghiệp, chủ thẻ có thể bị mất tiền, rơi vào những cuộc tranh chấp,
khiếu nại không đáng có.
- Trong nhiều trường hợp, các rủi ro phát sinh sẽ làm chậm lại quá trình trao đổi, mua
bán hàng hóa dịch vụ của chủ thẻ. Đặc biệt, công việc kinh doanh của khách hàng có
thể bị gián đoạn, làm giảm lợi nhuận, thậm chí chủ thẻ có thể bị mất những thương vụ
làm ăn quan trọng.
 Về phía ngân hàng:
Những rủi ro trong kinh doanh thẻ để lại những hậu quả:
- Thứ nhất, gây ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của ngân hàng, tạo ấn tượng xấu, không

Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung
25
chuyên nghiệp.
- Thứ hai, ngân hàng có thể bị thiệt hại về tiền trong trường hợp chủ thẻ tín dụng không
có khả năng trả nợ, hoặc khi phát sinh các vụ việc khiếu nại, tranh chấp giữa ngân
hàng với ĐVCNT hoặc giữa ngân hàng với chủ thẻ
- Thứ ba, ngân hàng có thể bị thiệt hại về tài sản khi phát sinh sự cố về máy POS cài tại
ĐVCNT hoặc máy ATM như hỏng hóc, bị phá hoại….
- Thứ tư, ảnh hưởng đến quá trình phát triển bền vững lâu dài của ngân hàng.
Nhìn chung, ngân hàng là đối tượng chịu hậu quả lớn nhất mà rủi ro trong kinh
doanh thẻ mang lại. Nó đem lại hàng loạt các hiệu ứng tiêu cực, không chỉ làm giảm
lợi nhuận, gây thiệt hại lớn về tài sản mà còn làm mất uy tín của ngân hàng. Nếu ngân
hàng không có biện pháp xử lý kịp thời, có hướng quản trị rủi ro đúng đắn thì không
những không thu được nguồn lợi nhuận lớn từ hoạt động kinh doanh thẻ mà các hoạt
động khác cũng sẽ bị ảnh hưởng theo, do sự nhìn nhận chủ quan từ phía khách hàng,
đặc biệt là trong sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng trong thời điểm hiện tại.
 Về phía ĐVCNT:
- ĐVCNT phải bồi thường thiệt hại cho ngân hàng nếu không thực hiện đúng quy trình
chấp nhận thanh toán thẻ, bị tổ chức tội phạm sử dụng thẻ giả để lừa đảo.
- Mất hình ảnh, uy tín
- Làm chậm lại quá trình thanh toán
- Làm giảm lợi của ĐVCNT
Qua những hậu quả mà rủi ro trong kinh doanh thẻ gây ra, có thể thấy được sự
cần thiết phải đề ra các biện pháp, công cụ hữu hiệu để hạn chế những rủi ro này.
1.3- Hạn chế rủi ro trong kinh doanh thẻ đối với các ngân hàng thương mại
1.3.1- Quan điểm và sự cần thiết hạn chế rủi ro trong kinh doanh thẻ của các
NHTM
Kinh doanh thẻ là loại hình kinh doanh đặc biệt, tiềm ẩn nhiều rủi ro như đã đề
cập ở trên. Hoạt động kinh doanh của các NHTM là dùng uy tín để thu hút nguồn và
dùng năng lực quản trị rủi ro để sử dụng nguồn và phát triển dịch vụ khác với tư cách

là người “đứng giữa” các lực lượng cung và các lực lượng cầu về các dịch vụ Ngân
hàng. Hoạt động kinh doanh thẻ của các NHTM do đó bao gồm rất nhiều loại rủi ro.
Bởi vậy, nhiều ý kiến cho rằng các Ngân hàng cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên
mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng
đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro
mà Ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi
ro. Hiệu quả kinh doanh của NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro.
Sinh viên: Lê Thuỳ Nhung

×