Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Câu quan hệ có từ "là " trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.67 KB, 146 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
________________



Bùi Mai Hương



CÂU QUAN HỆ CÓ TỪ “LÀ”
TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ
Mã số : 60 22 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN





Thành phố Hồ Chí Minh -2009



LỜI CẢM ƠN

Thực hiện đề tài này, tôi chỉ mong góp thêm một thử nghiệm vận dụng
lý thuyết về câu quan hệ, khảo sát, phân tích các ngữ liệu thu thập được nhằm
hiểu rõ thêm về câu quan hệ trong tiếng Việt.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Dư Ngọc Ngân
-
người thầy đã dành nhiều thời gian, công sức, động viên, hướng dẫn tận tình
tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô
trong khoa Ngữ văn, phòng Khoa học-Công nghệ Sau Đại học, thư viện
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo điều kiện cho tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp nơi tôi công tác đã
quan tâm, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.

Thành phố Hồ Chí Minh, 2009


LỜI CAM ÐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả được đưa ra trong luận văn là trung thực và chưa được
công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.



Tác giả luận văn



Bùi Thị Mai Hương



QUI ƯỚC TRÌNH BÀY

Luận văn này chúng tôi trình bày theo những quy ước như sau:

1. Những trường hợp in nghiêng:
- Tên tác phẩm
- Các trích dẫn
2. Trường hợp in nghiêng, chữ đậm : Nội dung nhấn mạnh.

3. Những số ở trong ngoặc vuông [,]: số đầu chỉ nguồn trích dẫn theo thứ
tự trong “ Tài liệu tham khảo”, số thứ hai chỉ số trang của tài liệu trích
dẫn.

Ví dụ: [3,5] là nguồn trích dẫn lấy từ tài liệu Các văn bản pháp quy,
trang 5.
4. Những số trong ngoặc đơn ( ) có hai trường hợp:
a. Số thứ tự của các ví dụ: được đặt trước các ví dụ.
b. Cho biết nguồn của các ví dụ: đặt sau các ví dụ.
5. Những ví dụ không ghi chú nằm trong trường hợp:
- Những ví dụ do người viết đặt ra.
- Những ví dụ lấy từ đối thoại thực tế.
6. Tài liệu trích dẫn được viết tắt là : TD







DẪN NHẬP

0.1 . Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Ngôn ngữ là một thành tựu vĩ đại nhất của loài người. Mỗi ngôn ngữ
thể hiện trong nó không chỉ là bề dày lịch sử, nền văn hóa, mà cả trình độ văn
minh của một quốc gia, một dân tộc. Ngôn ngữ học, ngành khoa học nghiên
cứu về ngôn ngữ, có một vị trí rất quan trọng trong các khoa học xã hội và
nhân văn. Nó giúp chúng ta tìm hiểu về ngôn ngữ nói chung và đặc trưng của
các ngôn ngữ cụ thể. Việc nghiên cứu ngôn ngữ cũng sẽ giúp c
húng ta hiểu rõ
cách nhận thức thế giới, cách truyền đạt tri thức và cách giao tiếp của các
cộng đồng ngôn ngữ. Hơn thế, nghiên cứu tiếng mẹ đẻ còn góp phần giữ gìn,
bổ sung, trau dồi cho ngôn ngữ của mỗi người ngày càng trong sáng hơn,
hoàn thiện hơn.
Hiểu được tầm quan trọng của việc nghiên cứu ngôn ngữ, yêu quý và

trân trọng tiếng mẹ đẻ, và suy nghĩ rằng nghiên cứu sâu tiếng Việt trên một
bình diện nào đó cũng đều rất quan trọng, chúng tôi chọn nghiên cứu về câu
quan hệ trong tiếng Việt. Trong ngữ pháp truyền thống, các nhà nghiên cứu
theo khuynh hướng cấu trúc chủ yếu khảo sát câu về cấu trúc hình thức. Gần
đây khuynh hướng ngữ pháp chức năng đã đi sâu tìm hiểu câu từ góc độ ngữ
nghĩa của câu, chẳng hạn dựa trên sự hình thành các quá trình (Process) để
phân ra các loại câu như: các quá trình vật chất (các quá trình hành động),
các quá trì
nh tinh thần (các quá trình cảm giác) và quá trình quan hệ (các quá
trình tồn tại). Trong các loại câu đó thì câu quan hệ là loại câu khá đa dạng,
phong phú về ngữ nghĩa và được dùng phổ biến trong tiếng Việt cũng như

trong các ngôn ngữ khác. Từ trước tới nay, một số công trình về ngữ pháp
tiếng Việt có đề cập đến câu quan hệ nhưng có lẽ chưa có công trình nào
nghiên cứu sâu và cụ thể vào một khía cạnh nào đó của câu quan hệ. Chúng

tôi nhận thấy vấn đề “Câu quan hệ trong tiếng Việt” đặc biệt là “câu quan hệ
có từ “là” trong tiếng Việt” là một vấn đề lý thú và bổ ích nên quyết định
chọn làm đề tài luận văn.
Để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi dùng các ngữ liệu trên ngôn ngữ
viết thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau như phong cách khoa học,
phong cách chính luận, phong cách hành chính, phong cách ngôn ngữ văn
chương.
Luận văn khảo sát câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm c
ác
mục đích sau đây :
- Tiếp xúc với các vấn đề lý thuyết về ngữ nghĩa học, về ngữ pháp chức
năng (đặc biệt là quan niệm của M.A.K. Halliday, S.C. Dik), vận dụng vào
việc khảo sát, lý giải một loại câu quan hệ trong tiếng Việt.
- Kết quả khảo sát, phân tích loại câu quan hệ có từ “là”trong tiếng Việt
có thể có những đóng góp thiết thực vào thực tiễn nói, viết và thực tiễn giảng
dạy tiếng Việt.
0.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như trên đã nói, có rất nhiều công t
rình nghiên cứu về các kiểu quá
trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ, trong đó có quá trình quan hệ.
Ở mỗi công trình các tác giả có thể có những cách tiếp cận khác nhau. Luận
văn không có tham vọng bao quát đầy đủ quá trình nghiên cứu về câu quan hệ
trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Thông qua tìm hiểu
của bản thân, chúng tôi chỉ cố gắng điểm qua tình hình nghiên cứu câu quan
hệ của những tác giả tiêu biểu trên thế giới và
ở Việt Nam.

Trên thế giới
:

Các kiểu quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ được rất
nhiều nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Có nhiều cách tiếp
cận các quá trình này với những quan điểm khác nhau. Công trình nghiên cứu
được xem là đầy đủ, xứng đáng được xem là một cuốn sách giáo khoa cho
những ai muốn tìm hiểu về các kiểu quá trình trong hệ thống ngôn ngữ, là của
M.A.K.Halliday. Đó là cuốn “Dẫn luận Ngữ pháp chức năng”. Các quá trình
mà M.A.K.Halliday miêu tả chủ yếu là trong tiếng Anh, nhưng xét thấy có
nhiều điểm có
thể vận dụng vào tiếng Việt nên luận văn của chúng tôi áp
dụng những mô hình lý thuyết mà ông đưa ra để giải thích và nghiên cứu về
câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt. M.A.K.Halliday khái quát về quá
trình quan hệ (Relational processes) như sau: “để liên hệ mảng này với mảng
kia của thế giới kinh nghiệm: cái này giống cái kia, cái này là một loại của
cái kia là quá trình quan hệ” [24, 206]. Hệ thống các quá trình quan hệ trong
tiếng Anh của M.A.K. Halliday hoạt động theo ba kiểu chính là:
Quan hệ sâu (intensive
): ‘x is a’  x là a
Quan hệ chu cảnh (circumstantial): ‘x is at a’ x ở a
Quan hệ sở hữu (possessive): ‘x has a’  x có a
Mỗi kiểu như vậy xuất hiện dưới hai phương thức tách biệt mà Halliday
gọi là phương thức đồng nhất (identifying) và phương thức định tính
(attributive). Như thế, chiếu theo phương thức quan hệ và kiểu quan hệ mà
ông đưa ra, sẽ có sáu cặp phạm trù quan hệ tương ứng. Những đóng góp của
Halliday về các quá trình chuyển tác có giá trị rất lớn với tiếng bản xứ (Anh)
và cả với các ngôn ngữ khác tr
ên thế giới, chẳng hạn tiếng Việt.
Cùng với M.A.K. Halliday, các nhà chức năng luận khác như Fawcett,

V.Z. Panfilov, C. Fillmore, Simon C.Dik … cũng đề cập đến câu quan hệ hay
loại câu tương tự câu quan hệ.

Nhà ngôn ngữ học Simon C. Dik trong Functional Grammar (Ngữ pháp
chức năng-1978), đã dùng thuật ngữ “sự tình” (cái có thể là tình huống trong
một thế giới nào đó). S.C. Dik dựa trên hai thông số cơ bản là tính động
(Dynamism) và tính có chủ ý (Control) để xác lập ra bốn loại hình sự tình:
hành động, quá trình, trạng thái, tư thế (xem bảng trình bày các sự tình của
S.C. Dik) trong đó không có loại hình sự tình quan hệ. Đến năm 1989, S.C.
Dik đưa thêm Tính thành quả (Telicity) vào bộ thông số và cho ra một bảng
phân loại gồm sáu sự tình: Tư thế (Position), Trạng thái (State), Hành động
hoàn thành (Accomplishm
ent), Hành động diễn tiến (Activity), Quá trình biến
đổi (Change), Quá trình biến động (Dynamism). Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại
những khiếm khuyết như Siewierska (1991) thừa nhận: “Những loại hình sự
thể lọt ra ngoài bảng phân chia loại nhỏ này thì không được nêu tên gọi.”
[54, số 10, tr.14]. Diệp Quang Ban cho rằng ngoài lĩnh vực các quan hệ, cách
phân loại sự thể của S.C. Dik khá thỏa đáng nhưng rất khó để tìm kiếm được
một giải pháp khả thi mới để kết hợp cả hai cách phân loại của S.C. Di
k và
M.A.K. Halliday.
Bảng trình bày các loại sự tình của S.C. Dik.(nguồn NPCN,tr.50)
Sự tình

+ Động
Sự kiện
-Động
Tình huống
+ Chủ ý Hành động Tư thế
- Chủ ý Quá trình Trạng thái


Sự tình quan hệ ở đây được S.C. Dik xem là một thể loại của sự tình
trạng thái và cũng dựa trên những phân biệt trong các chỉ định của kết cấu vị
ngữ hạt nhân.
Ví dụ
:
(1) The substance is red .(trạng thái)
(2) The table stood in the corner. (trạng thái) [-Động,-Chủ ý]
(3) John tasted the wine in the soup. (trạng thái)
Theo S.C. Dik “ Nếu một kết cấu vị ngữ trạng thái chỉ có một tham tố,
tôi cho rằng tham tố đó có chức năng nghĩa là zero. Tôi thấy không có lý do
gì để quy gán bất kỳ một chức năng ngữ nghĩa cụ thể nào cho các tham tố
như thế.
Các tham tố kết cấu vị ngữ trạng thái hai vai thường có hai tham tố
chức năng zero, và thậm chí có thể có sự tình trạng thái ba vai với ba tham tố
chức năng zero. Tuy
nhiên, tham tố thứ hai trong các kết cấu vị ngữ trạng
thái cũng có thể có chức năng thời gian hay vị trí.” [29; 54]
Ví dụ
:
(4) Rose ф are red.
(5) That man ф is the killer.  ф chức năng nghĩa là zero.
(6) The cup ф is on the table.
Theo nhận định của Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp
chức năng thì tiêu chí (+Động, - Động) và (+Chủ ý, -Chủ ý) của Simon
C.Dik rất quan trọng đối với nhiều loại ngôn ngữ trên thế giới. S.C.Dik đã
đưa ra được một lược đồ khá cơ bản, thế nhưng sự đơn giản ấy lại làm
cho
lược đồ của ông trở nên khó ứng dụng, chẳng hạn ô tư thế (+chủ ý,-động)


không cân bằng với ba ô còn lại. Các vị từ làm hạt nhân cho loại câu này như
đứng, ngồi, nằm, quỳ… có thể đếm trên đầu ngón tay, theo thống kê không
tới 0,2% trong số các vị từ làm hạt nhân cho các loại câu nằm ở ô hành động,
trạng thái, quá trình. Không chỉ vậy, lược đồ của Dik khó có thể chia ra chi
tiết hơn nữa, chẳng hạn không thể xếp các câu tồn tại, câu định vị (ví dụ như
câu: “Cá nằm
trên thớt” không được xếp vào ô loại tư thế vì thiếu tiêu chí (+
chủ động).), hay câu đẳng thức .v.v… không xếp vào ô nào trong bốn ô phân
loại các loại sự tình của Dik). Như vậy, không thể dựa vào bảng phân loại sự
tình của S.C. Dik để miêu tả câu quan hệ tiếng Việt.
John Lyons, nhà ngôn ngữ học truyền thống ở Anh, tiếp cận vấn đề từ
quan điểm logic. Ông cũng đã đưa ra các kết cấu tồn tại, định vị và sở hữu
tương tự th
uật ngữ “các quá trình quan hệ” mà luận văn đang đề cập. John
Lyons cho rằng trong rất nhiều ngôn ngữ có những tương tự hiển nhiên giữa
những câu định vị và câu tồn tại, chẳng hạn:
Ví dụ
: Tiếng Anh
(7) Coffee will be here in a moment. không có sự khác nhau
(7’) There will be coffee here in a moment. về nghĩa giữa (7) và (7’)
John Lyons, tiếp cận vấn đề từ quan điểm logic học, với các câu tồn tại
câu định vị, và câu sở hữu, ông phân ra làm hai xu hướng “vị ngữ tính”
(tương đương với câu tả trong tiếng Việt) và “vị ngữ danh” (tương đương với
câu luận trong tiếng Việt). Tuy nhiên, vì sự phân tích cú pháp của các câu có
“vị ngữ danh” phức tạp nên ông quyết định bỏ qua tất cả những điểm
khác
nhau giữa các tiểu loại và phân tích tất cả như những “vị ngữ danh từ”.
Đặc biệt, trong Nhập môn ngôn ngữ học ông nói nhiều đến “động từ là”
và “động từ có”, ông cho rằng đó là những câu tồn tại, định vị và sở hữu có
quan hệ qua lại trong nhiều ngôn ngữ “…cái thường được gọi là “động từ


là”, và “động từ có” trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác là một yếu tố
ngữ pháp, vô nghĩa, chỉ dùng để “mang” các dấu hiệu về thời, thức, thể ở cấu
trúc nổi của câu.”
Theo mô hình của Fawcett, giao điểm của kiểu quá trình và kiểu đương
thể cho ra 12 kiểu quá trình quan hệ trong tiếng Anh.

Mô hình các quá trình quan hệ trong tiếng Anh của Fawcett: Các hệ thống
ban đầu. [40, 273]
Hoàng Văn Vân cho rằng “ … đây là một mô hình chi tiết và đã đi sâu
vào việc tìm hiểu bản chất của quá trì
nh quan hệ trong tiếng Anh … Mô hình
của Fawcett quan tâm đến những kiểu quá trình cụ thể hơn là đến sự khái
quát hóa các quá trình quan hệ”. [40, 276]. Cũng theo Hoàng Văn Vân, mô
hình các quá trình quan hệ của Fawcett đã không thể hiện được sự khái quát
hóa các quá trình quan hệ; đồng thời trong công trình nghiên cứu về các quá
trình quan hệ của Fawcett cũng không hề đề cập đến hệ thống Dạng (là một
Định tính
Đương thể đơn
Sở hữu
Định vị
Kiểu đương thể
Đương thể bị tác động
Đương thể tác nhân
Đương thể thứ ba
Đương thể thứ ba
Kiểu quá trình

hệ thống mà chính Fawcett khẳng định không thể thiếu khi nghiên cứu các
công trình ngữ pháp) đồng thời “… nếu chấp nhận một mô hình như vậy sẽ

làm cho vấn đề trở nên phức tạp vì người ta phải xây dựng lại các tiêu chí
định nghĩa” [40, 277] cho tất cả các quá trình trong hệ thống chuyển tác của
ngôn ngữ.
Từ việc tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
theo hướng chức năng luận, chúng tôi nhận thấy m
ô hình miêu tả quá trình
chuyển tác quan hệ của M.A.K. Halliday là mô hình lý thuyết phù hợp nhất để
miêu tả câu quan hệ tiếng Việt.
Tại Việt Nam
Đã có khá nhiều công trình ngữ pháp đề cập trực tiếp đến câu quan hệ
như Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân, Bùi Minh Toán,
Nguyễn Thị Lan Anh, Đỗ Thị Kim Liên … Ngoài ra còn có những công trình
nghiên cứu về những kiểu câu tương tự câu quan hệ như câu tả, câu luận,
trong sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việ t Nam
(1983), ha
y những những động từ chỉ các trạng thái tâm lý hướng tới đối
tượng, biểu thị trạng thái tồn tại, sở hữu có thể có thành tố phụ sau là một
danh từ, cụm danh từ chỉ đối tượng như : có, còn, xuất hiện, diễn ra … trong
Ngữ pháp Việt Nam của Nguyễn Thị Ly Kha, hay những bài viết cùng bàn về
cấu trúc “Danh là Danh” và các mối quan hệ của nó của Lê Xuân
Thại,
Nguyễn Đức Dân, Trần Ngọc Thêm, v.v… Từ những năm 2000 trở lại đây,
cũng có một số bài viết đề cập đến một số tiểu loại của câu quan hệ trong
tiếng Việt trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, của các tác giả Nguyễn Thị
Thanh Phương, Nguyễn Thế Lịch …, hoặc so sánh đối chiếu câu quan hệ
tiếng Việt với tiếng Anh của Hoàng Tuyết Minh nhằm t
ìm ra một số lỗi người
Việt thường mắc khi sử dụng động từ quan hệ tiếng Anh …

Cao Xuân Hạo kế thừa lược đồ phân loại các loại sự tình cơ bản của

S.C. Dik nhưng ông xếp loại câu quan hệ và câu trạng thái vào một loại câu,
đó là câu chỉ tình hình : “Trong các câu chỉ tình hình có thể phân biệt câu chỉ
trạng thái với câu chỉ quan hệ. Trạng thái là một tình hình có mặt trong bản
thân chủ thể (thực thể mang nó, hay ở “trong trạng thái” đó). Quan hệ là một
tình hình mà nội dung là một cái gì ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp
xúc, một khoảng cách, một mối
dây nhân quả, hay một sự so sánh.” [13, 430].
Cao Xuân Hạo đưa thêm sự tình tồn tại (hiện hữu), mà S.C.Dik còn thiếu, vào
hàng sự tình cơ bản bậc một ngang hàng với biến cố và tình hình. Cao Xuân
Hạo đã thay ô sự tình tư thế (bậc hai) của S.C. Dik bằng loại quan hệ và xem
vị trí của nó tương đương với vị trí của sự tình trạng thái trong những sự tình
tĩnh [-Động].
Theo khảo sát trên tư liệu tiếng Việt của tác giả Bùi Minh Toán và Lê
Thị Lan Anh thì bên cạnh những nét cơ bản phù hợp hệ thống các quá trình
mà M.A.K. Halliday nghiên cứu “…có thể nhận t
hấy chỉ có một số kiểu sự
tình quan hệ là được tổ chức theo cả hai phương thức đồng nhất và định tính”
[2, 1], chẳng hạn quan hệ cảnh huống (chỉ có loại quan hệ vị trí và quan hệ
nguyên liệu là tổ chức theo hai phương t
hức đồng nhất và định tính; còn các
quan hệ cảnh huống khác như: quan hệ mục đích, quan hệ so sánh, quan hệ
tương hỗ, quan hệ nguyên nhân, quan hệ nguồn gốc, quan hệ vai diễn thì
không tồn tại cả hai phương thức trên.), hay quan hệ sở hữu (chỉ tổ chức theo
một phương thức định tính). Trong bài viết “Câu quan hệ tiếng Việt: sự hiện
thực hóa các thành tố của sự tình quan hệ ”, tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị
Lan Anh đã đưa ra 13 l
oại sự tình quan hệ trong tiếng Việt theo quan niệm
của M.A.K. Halliday. Tiếc là bài viết này không coi “câu quan hệ có từ là”
như là một đối tượng nghiên cứu mà chỉ nói chung chung đến các loại sự tình
quan hệ trong tiếng Việt.


Sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam cũng
nhắc đến câu quan hệ nhưng dưới thuật ngữ câu tả và câu luận. Đây cũng
chính là hai loại câu chính của câu đơn hai thành phần được làm thành từ một
cụm chủ ngữ (C)- vị ngữ (V), chủ ngữ và vị ngữ có quan hệ qua lại với nhau.
Câu tả là loại câu để biểu thị một quá trình miêu tả đối tượng trong hoạt
động, trạng thái hay tính chất của nó. Câu tả có nghĩa về trạng thái tồn tại của
sự vật (câu tồn tại) có phần đề do từ loại danh từ, phần thuyết do tiểu loại
động từ tồn tại đảm n
hận (có, còn, hết…), đây là loại câu khá đặc biệt, tương
đương câu quan hệ mang đặc điểm “không có từ là”. Vì ở luận văn này chúng
tôi nghiên cứu loại “câu quan hệ sâu có từ là” trong tiếng Việt, nên chúng tôi

sẽ nhắc nhiều đến loại câu luận là loại câu tương đương câu quan hệ đặc biệt
“có dùng động từ là”.
Câu luận là kiểu câu biểu thị một quá trình tư duy và thông báo mang
tính suy luận, phán đoán. Nó có thể đưa ra một nhận xét, một ý kiến đánh giá
và đôi khi mang tính triết lý. Vị từ “là” trong câu luận có thể coi là động từ
mang trọng trách đặc biệt, làm “chính tố”, “động từ thuyết tính của câu luận”.
Ví dụ
:
(8) Tổ chức là
biện pháp cơ bản để thực hiện chính sách . (mô hình A là B)
A B
(9) Ruộng rẫy là
chiến trường. (mô hình A=B)
A B
Câu luận trong tiếng Việt là loại câu tương đương “câu quan hệ sâu có
từ là”. Đó là một loại câu có cách thể hiện khá đa dạng.
Ví dụ

: Câu luận “A là B”
(10) Cuốc cày là vũ khí. [39, 185]  có thể thay đổi vị trí A và B
[57, 185]

(11) Nguyên tắc là nguyên tắc. [39, 185]  có thể thay đổi vị trí A và B.
(12) Hà là một cán bộ nhà nước.[39, 183] không thể thay đổi vị trí A và B
Như trên có thể thấy loại câu luận có mô hình “A là B” tương đương
câu quan hệ sâu đồng nhất và định tính,“là” ở câu luận đóng vai trò là động từ
(vị từ) chứ không phải trợ từ.
Diệp Quang Ban đã đưa ra cách phân loại chi tiết và khá bao quát cho
các loại câu tồn tại. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm ấy, cách phân loại của ông

không đưa ra được “một mô hình toàn diện nhất để giải thích các kiểu quá
trình quan hệ.” tức là phải đáp ứng “… ba điều kiện: (i) nó phải xem ‘quan
hệ’ như là một đặc điểm của cả cú chứ không phải chỉ là một đặc điểm của
động từ; nghĩa là, nó phải được trừu tương hóa để có đủ sức giải thích cho
những đặc điểm cụ thể của các quá t
rình quan hệ trong tiếng Việt; và (ii) nó
phải được kiểm chứng bằng sự phù hợp của cả hai tiêu chí ngữ nghĩa và ngữ
pháp-từ vựng’’[40, 271].
Lê Thị Lan Anh bàn nhiều về sự tình quan hệ trong bài viết “Đặc trưng
ngữ nghĩa của sự tình quan hệ so sánh trong tiếng Việt”. Tác giả đã đưa ra vị
tố biểu thị quan hệ so sánh trong tiếng Việt gồm:
như, như thể, in như, như,
giống, khác, khác biệt, bằng, hơn, kém, tựa, hệt, sánh, ví, tày ... và tổ hợp của
các vị tố này: như là, hệt như, giống như là, y hệt như là …, đồng thời đưa ra
khá đầy đủ những ví dụ để phân tích, chứng minh làm nổi bật các đặc trưng
ngữ nghĩa của sự tình so sánh trong tiếng Việt. Tuy nhiên bài viết không nhắc
đến vị từ “là”, trong khi “là” cũng có thể là một vị từ so sánh trong một số
trường hợp. Bài “Phương thức định tí

nh và đồng nhất trong sự tình quan hệ
thâm nhập” của Lê Thị Lan Anh dùng thuật ngữ “thâm nhập” thay vì thuật
ngữ “sâu” của M.A.K. Halliday, nhưng về cơ bản cũng dựa trên mô hình “x
is a”, dựa trên cơ sở lý thuyết của M.A.K. Halliday để xem xét loại sự tình

quan hệ thâm nhập ở hai phương thức: định tính và đồng nhất trong tiếng Việt
“Đồng nhất thể và định tính là hai phương thức quan hệ hoàn toàn khác
nhau, mỗi phương thức sẽ cho chúng ta một loại sự tình riêng với những đặc
trưng ngữ pháp, ngữ nghĩa đặc thù của nó” [54,số 2, tr.62].
Theo tác giả, trong tiếng Việt, các vị tố : là, biểu hiện, biểu đạt, minh
họa, thể hiện… thường chỉ xuất hiện t
rong câu biểu thị sự tình quan hệ
thâm nhập định tính.
Ví dụ
:
(13) Cây nguyệt quế biểu hiện sự vinh quang.
(Yêu thơ văn em tập viết)[54, số 2; tr.62]
(14) Sài Gòn tức Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố đầy nắng gió
phương Nam với những chiều mưa về hối hả.
(Yêu thơ văn em tập viết) [54; số2, tr.62]
Còn các vị tố : là, tức là, nghĩa là, có nghĩa (có nghĩa là), đồng nghĩa,
đóng vai, làm … là những vị tố quan hệ xuất hiện trong câu quan hệ thâ
m
nhập đồng nhất.
Ví dụ
:
(15) Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân.
(Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61]
(16) Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết. (Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61]

Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh chưa trình bày được hết
những vấn đề của “câu quan hệ thâm nhập” (theo cách gọi của tác giả), câu

quan hệ sâu (cách gọi của Halliday). Tuy nhiên, bài viết đã gợi ra một số vấn
đề cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi.
Hoàng Văn Vân, người trực tiếp dịch công trình “Dẫn luận ngữ pháp
chức năng” của M.K.A. Halliday, … Trong công trình “Ngữ pháp kinh
nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”, Hoàng
Văn Vân đã tiếp thu quan điểm của M.A.K. Halliday: quan điểm chức năng
hệ thống. Công trình của Hoàng Văn Vân nghiên cứu bình diện kinh nghiệm
của cú tiếng V
iệt, dựa vào mô hình kinh nghiệm của Halliday để mô hình hóa
các khu vực chuyển tác khác nhau trong cú tiếng Việt. Tuy nhiên, chuyên
khảo của Hoàng Văn Vân mới chỉ nghiên cứu giải thích các phạm trù ngữ
pháp trong hệ thống chuyển tác (hay hệ thống các kiểu quá trình) trong tiếng
Việt, còn ở cấp độ chi tiết hơn như “câu quan hệ sâu có từ “là” trong tiếng
Việt” thì Hoàng Văn Vân chưa khảo sát đến.
Bàn thêm về cấu trúc “Danh + là + Danh” của Trần Ngọc Thêm có
phân ra hai kiểu:
“Danh + là + Danh” kiểu 1: tự bản thân hoàn toàn là một câu
độc lập, không
phụ thuộc bên ngoài cả cấu trúc và nội dung. Cấu trúc này có thể tham gia vào
câu lớn hơn với tư cách như một mệnh đề, hay một đối tượng. Đặc biệt, nó
không kết hợp được với đại từ chỉ định.
“Danh + là + Danh” kiểu 2: không bao giờ là một câu độc lập, và chỉ có thể là
một thành phần của một câu độc lập khác. Cấu trúc câu kiểu này luôn kết hợp
được với
các đại từ chỉ định.
Theo Trần Ngọc Thêm, cấu trúc kiểu 1 khi nghĩa của từ “là” biểu hiện
quan hệ đồng nhất giữa Danh 1 và Danh 2. Danh 1 là tập hợp được xác định,

có thể đơn nhất hay trên một phần tử. Quan hệ ngữ pháp của cấu trúc kiểu 1 là
quan hệ chủ - vị.

Ví dụ: (17) Em tôi là công nhân.
Cấu trúc kiểu 2 khi nghĩa của từ “là” chỉ sự phụ thuộc của Danh 2 vào Danh
1. Danh 1 ở kiểu 2 là tập hợp không đơn nhất và không được xác định. Quan
hệ ngữ pháp của kiểu cấu trúc 2 là quan hệ chính - phụ.
Ví dụ
: (18) Những cô gái là sinh viên.
Đỗ Thị Kim Liên trình bày các nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc biểu thị
quan hệ so sánh trong các câu tục ngữ Việt cũng có nhắc đến từ so sánh “là”.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng khi câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc có từ so sánh
“là” thì “luôn vắng yếu tố cơ sở so sánh”, ở một số trường hợp có thể lược bỏ
“là”.
Ví dụ
:
(20) Cái bị là chị cái thúng.  Cái bị chị cái thúng. [54,số 11, tr.11]
(21) Đậu nành là anh nước lã. Đậu nành anh nước lã. [54,số 11, tr.11]
Khi lược bỏ “là”, các câu tục ngữ có nhóm danh từ chỉ quan hệ thân tộc
có sự bù đắp hết sức tinh tế, từ ba nét nghĩa (giới tính, thứ bậc, quan hệ huyết
thống) chúng chỉ còn lại một nét nghĩa.
Ví dụ
: “là” là vị từ so sánh.
(22) Bàng già là bà lim.  Bàng già bà lim.
Cái so sánh Cái được so sánh.
Trong các câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc, “là” có thể được coi như
một vị từ so sánh.
Ví dụ
: “là”  vị từ so sánh
(23) Cờ bạc là bác thằng bần.

Cái so sánh Cái được so sánh

(24) Chồng già vợ trẻ là tiên.
Cái so sánh Cái được so sánh
(25) Ruộng rẫy là chiến trường.
Cái so sánh Cái được so sánh
Nguyễn Thị Thanh Hương với bài viết “Bước đầu tìm hiểu về kiểu câu
vị ngữ danh từ tiếng Việt” đã phân ra làm 5 tiểu loại ( câu vị ngữ danh từ nêu
đặc trưng về số lượng; câu vị ngữ danh từ nêu lai lịch; câu vị ngữ danh từ nêu
đặc trưng về màu sắc, mùi vị, hình thể; câu vị ngữ danh từ xác định thời g
ian,
không gian; câu vị ngữ danh từ nêu quan hệ phân phối). Bài viết này cho thấy
khá rõ tác giả đồng quan điểm với John Lyons, khi cho là cách dùng động từ
“có” và động từ “là” trong các “câu vị ngữ động” khi chuyển qua kiểu “câu vị
ngữ danh” của tiếng Việt có thể loại bỏ hoặc ngược lại khá thú vị. Tiểu loại
câu vị ngữ DT xác định thời gian cho rằng “Tất cả các câu xác định thời gian,

không gian cũng có thể được diễn đạt theo cấu trúc câu vị ngữ động từ, mà
trong đó từ “là” làm thành tố chính” [55,số 4, 10] nhưng nếu diễn đạt theo
cấu trúc vị ngữ DT (tức là lược bỏ vị từ “là”) thì sẽ cho ra cấu trúc câu ngắn
gọn hơn, độc đáo hơn, mang đậm sắc màu Á Đông hơn.
Ví dụ:
(26) Lạt theo chân Keng đi luôn. Đến đầu ngõ thì gặp Ngọ. Hôm nay
chủ nhật. (…) Cô lên phố huyện chơi với bạn làm
công trường trên đó. (Anh
Keng- Nguyễn Liên) [55,số 4; tr.9]
(27) Đây suối Lê-nin, kia núi Mác. (Hồ Chí Minh) [55,số 4, tr.9]
Với tiểu loại “câu vị ngữ danh từ nêu đặc trưng về số lượng” thì “trừ các
câu nêu số lượng tuổi, các câu nêu số lượng khác của tiếng Việt đều có thể


kết hợp được với động từ có hay các tính từ khác mà không tạo ra sự khác
biệt với người giao tiếp” [55, số 4; tr.8]
Ví dụ:
(28) Chiếc xe này ba bánh.  Chiếc xe này có ba bánh. [55,số 4; tr.8]
(28) Vườn nhà tôi hai sào.  Vườn nhà tôi rộng hai sào. [55,số 4; tr.8]
Tiểu loại “câu vị ngữ danh nêu lai lịch của con người” đều có thể kết
hợp với động từ “là” để tạo thành câu có nghĩa tương đương.
Ví dụ:
- Cháu tên gì?
(29) - Tui tên Nhọn. [55,số 4,8]  - Tui tên là Nhọn.
(30) -
Anh ấy kỹ sư. [55,số 4,8]  - Anh ấy là kỹ sư.
Nói tóm lại, các nhà nghiên cứu trên ở những mức độ khác nhau đều đã
đề cập đến câu quan hệ, hay tương tự “câu quan hệ sâu có từ là trong tiếng
Việt”, nhưng vẫn chưa có sự phân tích kỹ lưỡng về kiểu câu này và chưa đưa
ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt.
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Câu quan hệ của tiếng Việt là một loại câu rất phong phú và đa
dạng. Điều kiện của một luận văn thạc sĩ không cho phép nghiên cứu toàn bộ
những kiểu câu quan hệ như câu quan hệ sở hữu, câu quan hệ chu cảnh và các
phương thức quan hệ của chúng nên chúng tôi chỉ xin giới hạn đề tài trong
một phạm
vi nhất định. Mục đích của luận văn là tìm hiểu câu quan hệ có từ
“là” trong tiếng Việt theo quan niệm ngữ pháp chức năng; xác định cái nhìn
tổng quan về câu quan hệ trong tiếng Việt; thống kê, khảo sát các dữ liệu về
câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm nêu lên được đặc điểm ngữ

nghĩa và ngữ pháp của chúng, tần số xuất hiện của kiểu câu này trong các loại
phong cách văn bản.

Về cơ sở lý thuyết luận văn này dựa trên quan điểm của M.A.K.
Halliday trong “ Dẫn luận ngữ pháp chức năng”. Qua khảo sát chúng tôi nhận
thấy có nhiều điểm tương đồng giữa kiểu và hai phương thức quan hệ định
tính và đồng nhất của “câu quan hệ sâu” trong tiếng Anh mà Halliday nghiên
cứu với câu quan hệ trong tiếng Việt. Bên cạnh đó, chúng tôi
có tham khảo
thêm các công trình nghiên cứu của các nhà ngữ pháp trong và ngoài nước
khác như S.C. Dik, John Lyons, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn
Vân, Nguyễn Thị Lan Anh, các tác giả quyển Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy
ban Khoa học Xã hội Việt Nam ….
0.4.
Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
0.4.1. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp và thủ pháp nghiên cứu khoa học chung
như: thu thập dữ liệu, phân loại, luận văn chủ yếu sử dụng những phương
pháp sau:
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – cú pháp : Phương pháp này dùng
để phân tích ngữ nghĩa, cấu trúc của các loại câu quan hệ trong tiếng Việt.
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được dùng khảo sát, miêu tả
các loại câu quan hệ trong tiếng Việt.
- Phương pháp thống kê: Thống kê ngữ liệu về mặt số lượng nhằm x
ác
định tần số xuất hiện của loại “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt trong
văn bản thuộc những phong cách khác nhau.
0.4.2. Nguồn ngữ liệu
Về ngữ liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng giới hạn cụ thể như sau:

Một số bài nghiên cứu khoa học (khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội), các bài nghiên cứu trong tạp chí nghiên cứu và phê bình văn học
(phong cách ngôn ngữ khoa học)

Truyện ngắn của các tác giả như Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Lý
Biên Cương …. (phong cách ngôn ngữ văn chương)
Các tin tức trên một số

báo điện tử, báo viết, truyền hình, lời kêu gọi
của Bác … (phong cách ngôn ngữ chính luận)
Một số

nghị quyết, nghị định, thông tư, hợp đồng, báo cáo, thông báo
…(phong cách ngôn ngữ hành chính)
0.5. Bố cục luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được cấu
trúc thành hai chương.
Chương 1: Chương này tóm tắt quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
trong và ngoài nước như Simon C. Dik, M.A.K. Halliday, Cao Xuân Hạo,
Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân …. về câu quan hệ, chủ yếu là quan điểm
của M.A.K. Halliday về câu quan hệ. Đây l
à chương làm tiền đề cho việc
miêu tả và khảo sát câu quan hệ trong tiếng Việt ở chương sau.
Chương 2: Chúng tôi đi vào chức năng ngữ nghĩa của từ “là” trong câu quan
hệ (câu quan hệ sâu theo Halliday), hình thức các tham thể xung quanh vị từ
“là” trong câu quan hệ, thống kê và đưa ra tần số xuất hiện của kiểu câu này
trong văn bản mà chúng tôi chọn làm ngữ liệu, có chú ý khảo sát trong một
số phong cách văn bản. Chương này thông qua những dữ liệu thu t
hập, làm
nổi rõ chức năng ngữ nghĩa và đặc điểm cấu trúc của loại câu quan hệ có từ
“là” trong tiếng Việt.

Chương 1 : NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm câu

Các công trình nghiên cứu và sách về ngữ pháp tiếng Việt từ trước đến
nay thường nêu lên nhiều định nghĩa về câu. Cho đến nay đã có đến hàng
trăm định nghĩa về câu được đưa ra.
1.1.1. Theo ngữ pháp truyền thống.
Từ những thế kỷ thứ III-II trước Công nguyên, học phái ngữ pháp
Alêcxăngđria đã nêu định nghĩa: “Câu là đơn vị ngôn ngữ có cấu tạo ngữ
pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩa
tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói,hoặc có thể kèm
theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp truyền đạt tư tưởng, tình cảm.
Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ”.[4,tập 2; tr.
107].
Aristoteles thì đề cao cấu trúc chủ - vị biểu hiện mệnh đề, theo ông cấu trúc
chủ - vị là điều kiện giúp cho câu có tính t
rọn vẹn, Nhà ngôn ngữ học nổi
tiếng người Nga, viện sĩ Vinogradov đã định nghĩa về câu như sau: “Câu là
sự hoàn chỉnh về lời nói được hình thành về mặt ngữ pháp theo các quy luật
của một ngôn ngữ nhất định, làm công cụ quan trọng nhất để cấu tạo, biểu
đạt và truyền đạt tư tưởng. Trong câu không phải chỉ có sự truyền đạt tư
tưởng mà còn có cả mối quan hệ của người nói và hiện thực.” [40, 58]
. Nhà
ngôn ngữ học cổ điển của Mỹ, L.Bloomfield, coi câu là kết cấu lớn nhất trong
bất kỳ lời nói nào. Bystrov, Nguyễn Tài Cẩn, Stankevich đã đưa ra bốn tiêu
chí xác định câu tiếng Việt: “Câu là một đơn vị ngôn ngữ biểu thị một tư
tưởng tương đối trọn vẹn; câu không chỉ phản ánh hiện thực mà còn chứa
đựng sự đánh giá hiện thực về phía người nói nữa; câu có những đặc trưng

bên ngoài là các tiểu từ tình thái dứt câu và chỗ ngắt câu; câu có những đặc
trưng bên trong là cấu trúc của nó” [40, 58].
Như vậy, câu theo quan điểm các nhà ngôn ngữ học từ trước đến nay là
“sự tổng hợp của các từ biểu thị một tư tưởng trọn vẹn” (học phái ngữ pháp

Alêcxangđria); là “đơn vị cơ bản của lời nói, của ngôn từ, của văn bản’’
(Benveniste), là đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng vào việc giao tế. Nói cách

khác, câu là ngôn bản (văn bản) nhỏ nhất.
Định nghĩa về câu của Trần Trọng Kim : “Câu lập thành do một mệnh-
đề có nghĩa lọn hẳn, hoặc do hai hay nhiều mệnh- đề.” [23, 27], và ông phân
ra làm ba thứ mệnh- đề, thứ nhất là mệnh đề phụ (gồm có mệnh đề phụ bổ
túc, mệnh đề chỉ trường hợp và mệnh đề chỉ định), thứ hai là mệnh đề độc lập
và thứ ba là mệnh đề chính. Theo Trần T
rọng Kim một câu có bao nhiêu
tiếng tĩnh từ biểu diễn một cái thể hay tiếng động từ biểu diễn một cái dụng
của chủ từ, là có bấy nhiêu mệnh đề, đồng thời một mệnh đề có thể là một câu
hay là một vế trong câu.
Định nghĩa về câu của Hoàng Trọng Phiến: [(…), câu là ngữ tuyến
được hình thành một cách trọn vẹn về ngữ pháp và về ngữ nghĩa với một ngữ
điệu theo các quy luật của một ngôn ngữ nhất định, là phương tiện diễn đạt,
biểu hiện tư tưởng về thực tế và
về thái độ của người nói đối với hiện thực]
Hay cách phân tích câu tiếng Việt theo mô hình Chủ - Vị với chức năng
thông báo: “ Chủ ngữ là phần nêu lên một cái gì đó, vị ngữ là phần nói về chủ
ngữ” [32, 31]

Câu nói chung gồm câu đơn và câu ghép được định nghĩa ngắn gọn:
“Câu là đơn vị dùng từ hay đúng hơn dùng ngữ mà cấu tạo nên trong quá
trình tư duy, thông báo; nó có nghĩa hoàn chỉnh, có cấu tạo ngữ pháp, và có
tính chất độc lập” [39, 167]…

Hoàng Dân đã đúc kết khái niệm chung về câu thật đơn giản trong
“Tiếng Việt cho mọi nhà” theo ngữ pháp truyền thống, câu là đơn vị ngôn ngữ
có một hình thức hoàn chỉnh, khởi đầu bằng một chữ cái viết hoa, kết thúc

bằng một dấu ngắt câu. Cấu trúc hoàn chỉnh hay chưa hoàn chỉnh ấy được xác
định dựa trên sự có mặt của thành phần chủ ngữ , vị ngữ hay khuyết vắng
thành phần chủ ngữ, vị ngữ. Câu phải có một nội dung t
hông báo hoàn chỉnh
hoặc tương đối hoàn chỉnh kèm theo một ngữ điệu nhất định. Vấn đề ngữ điệu
kết thúc câu cũng như vấn đề câu là đơn vị của ngôn ngữ hay đơn vị lời nói đã
và còn rất nhiều ý kiến tranh luận.
Trong ngữ pháp truyền thống, thuật ngữ “câu” được dùng khi người ta
muốn nói đến một đơn vị ngữ pháp lớn nhất m
à đơn vị ngữ pháp ấy chính là
đơn vị được làm thành từ một mệnh đề hay hơn một mệnh đề, là đơn vị nằm ở
bậc cao nhất của tổ chức ngữ pháp và được làm thành từ các đơn vị nhỏ hơn
nó (chẳng hạn: cụm từ, từ, hình vị)…
Nói tóm lại, ngôn ngữ học truyền thống khi phân tích, nghiên cứu câu
thì đặt câu dưới dạng hằng thể, câu chỉ được chú trọng về mặt cú pháp và hình
thức mà chứ không chú trọng đến hai bình diện rất quan trọng khác, đó là

bình diện nghĩa và dụng pháp của câu.
Một định nghĩa về câu đơn giản, dễ hiểu và được coi là khá hoàn chỉnh
nhất của ngữ pháp truyền thống có lẽ là định nghĩa của nhóm Alêcxăngđria:
“Câu là sự tổng hợp của các từ biểu thị một tư tưởng trọn vẹn”.

1.1.2. Theo ngữ pháp chức năng
Ngữ pháp chức năng là một trào lưu ngữ pháp được kế thừa di sản chủ
yếu của ba trường phái:

×