Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Nâng cao hiệu qủa hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.57 KB, 59 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của khoá luận
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vị hành chính cơ sở, là
cấp gần dân nhất và là nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội của các tầng lớp nhân dân.
Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp xã là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa
phương, có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta,
là cầu nối chuyển tải và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với quảng đại quần chúng nhân dân. UBND
cấp xã thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội ở địa
phương theo thẩm quyền; đảm bảo cho các chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống.
Hoạt động của UBND cấp xã có ảnh hưởng lớn tới tính hiệu quả của các
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có ý nghĩa vô
cùng to lớn với việc củng cố sự phát triển bền vững của xã hội, đảm bảo dân
chủ và nâng cao đời sống nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cấp xã
là cấp gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
việc đều xong xuôi”.[3, tr.371]
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã còn chưa
được chuyên sâu, thiếu ổn định về nhân sự; tình trạng lãng phí, hình thức trong
hoạt động quản lý vẫn phổ biến. Bên cạnh đó, trình độ quản lý, chuyên môn,
nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn nhiều hạn chế, luôn rơi
vào trạng thái lúng túng, ngỡ ngàng trước sự thay đổi và xu thế phát triển
chung của thời đại, dẫn đến hiệu quả hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã
chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Khẳng định tầm quan trọng của Uỷ ban nhân dân cấp xã trong hệ thống
chính trị ở nước ta. Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã đề ra phương hướng
“đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở xã, phường, thị
trấn”. Nghị quyết chỉ đạo: “Cần nâng cao hiệu lực của cơ quan hành chính
theo hướng đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính cấp xã”


[7]. Gần đây, tại hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X đã
ban hành Nghị quyết số 17- NQ/TW ngày 01/08/2007 về đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước trong đó
có UBND cấp xã. Đó là những cơ sở quan trọng để chúng ta tiếp tục xây dựng
chiến lược cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của Uỷ ban nhân dân cấp xã trong hệ
thống chính trị ở nước ta, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu
qủa hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của khoá luận
Làm sáng tỏ các nội dung liên quan tới hoạt động của UBND cấp xã ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay, những mặt tích cực và hạn chế trong hoạt
động của UBND cấp xã và những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó. Khẳng
định vị trí và vai trò hết sức quan trọng của UBND cấp xã trong hệ thống chính
trị và dân cư. Từ đó, đưa ra được những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận
Hoạt động của UBND cấp xã rất rộng và đa dạng nên trong phạm vi của
khoá luận tốt nghiệp, em chỉ tập trung nghiên cứu một số hoạt động đặc thù
của UBND cấp xã có tác động trực tiếp đến người dân như: hoạt động hành
chính- tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo; giải quyết tranh chấp đất đai…Và
từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND
cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận
Khoá luận được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; các
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước; xây dựng và đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa
phương.

Để giải quyết những vấn đề cơ bản đã được đặt ra ở trên, em đã sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng của Triết học Mác- LêNin và những phương
pháp khác như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp
lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh nhằm làm sáng tỏ nội
dung và phạm vi nghiển cứu của khoá luận.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề chung về UBND cấp xã.
Chương II: Hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
Chương III: Nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. Khái niệm về Uỷ ban nhân dân cấp xã
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Ủy ban nhân dân là cơ quan chính
quyền nhân dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được lập ra ở
các cấp xã, phường, thị trấn trực thuộc huyện; huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. [34, tr.759]
Theo từ điển luật học: “UBND là tên gọi của các cơ quan chấp hành của
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”. [33, tr.538]
Điều 123 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: “UBND do Hội
đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp,
luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng
nhân dân (HĐND)”.
Điều 2 Luật tổ chức của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm
2003 quy định: “UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, do
HĐND bầu là cơ quan chấp hành của HĐND, chịu trách nhiệm trước HĐND

cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Theo đó: UBND cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
do HĐND cấp xã bầu ra, chịu trách nhiệm trước HĐND cấp xã và cơ quan nhà
nước cấp trên về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Như vậy, UBND cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
có thẩm quyền chung, hoạt động với tư cách:
Cơ quan chấp hành của HĐND cùng cấp;
Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Là cơ quan chấp hành của HĐND cấp xã: UBND cấp xã chịu sự giám
sát của HĐND cấp xã, chịu trách nhiệm và báo cáo các hoạt động của mình
trước HĐND cấp xã.
Là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương: UBND cấp xã có nhiệm
vụ triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước vào cuộc sống, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội và dân cư
trên địa bàn.
UBND cấp xã chính là đầu mối giải quyết các công việc thường ngày
của nhân dân và có quan hệ trực tiếp và gắn bó mật thiết với nhân dân, là cầu
nối để chuyển tải mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước vào cuộc sống. Vì vậy mà hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã có ảnh
hưởng rất lớn tới sự thành công của các chủ trương, chính sách được hoạch
định từ cấp trên và quyền, lợi ích của nhân dân trên địa bàn.
Chúng ta đã chuyển sang cơ chế quản lý mới trong điều kiện nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò của UBND cấp xã càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước,
nâng cao đời sống của nhân dân.
1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã.
Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Pháp
lệnh về nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND mỗi cấp năm
1996 thì nhiệm vụ, quyền hạn của UBND xã, thị trấn và UBND phường là
khác nhau. Sự khác nhau đó là do:

- Sự chênh lệch về quy mô dân số và diện tích ở xã, thị trấn và phường:
Cho đến nay, khu vực nông thôn ở nước ta vẫn chiếm khoảng trên 80% dân số
và diện tích cả nước trong khi đó con số này của khu vực đô thị là khoảng gần
20% dân số và diện tích cả nước. Mật độ dân số ở nông thôn không đồng đều,
các làng xã ở vùng đồng bằng thường đông đúc nhưng ngược lại ở khu vực
miền núi, vùng sâu, vùng xa thì dân cư lại thưa thớt mà đất đai lại rộng. Dân cư
ở nông thôn đơn giản, thuần nhất, gắn bó với nhau từ lâu đời, có tính truyền
thống và huyết thống cao tạo nên những bản sắc và phong tục tập quán riêng,
cuộc sống chủ yếu mang tính chất tự cấp, tự túc.
Ở địa hình thành phố, mật độ dân số cao, thành phần dân cư phức tạp,
không thuần nhất, có nguồn gốc, lối sống và tập quán khác nhau. Lối sống của
dân cư phường phần lớn phụ thuộc vào thị trường và chủ yếu thông qua
phương thức mua bán; sự liên kết dân cư rất lỏng lẻo.
- Về phương diện cơ cấu kinh tế: Ở nông thôn, kinh tế chủ đạo là kinh tế
nông nghiệp. Ở đô thị, kinh tế chủ đạo là kinh tế công nghiệp, dịch vụ, thương
mại.
- Về chức năng: UBND xã, thị trấn bên cạnh chức năng là cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương còn là cơ quan tự quản ở xã, đại diện cho cộng
đồng dân cư ở cơ sở, giải quyết những vấn đề nội bộ của địa phương.
Trong khi đó UBND phường chỉ thuần tuý là cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, thực hiện một số công việc quản lý hành chính nhà nước theo
quy định của pháp luật và một số nhiệm vụ do cấp trên giao.
Chính các điểm khác nhau nêu trên mà pháp luật đã quy định cho
UBND xã, thị trấn các nhiệm vụ và quyền hạn khác với UBND phường. Cụ
thể như sau:
1.2.1. Nhiệm vụ quyền hạn của UBND xã, thị trấn
* Trong lĩnh vực kinh tế:
- Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức thực hiện kế
hoạch đó;
- Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; tổ chức thực hiện ngân

sách địa phương và báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp
luật;
- Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các
nhu cầu công ích ở địa phương;
- Phối hợp với các cơ quan hữu quan thu thuế ở địa phương theo quy định
của pháp luật;
- Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong việc đầu tư xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn;
* Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và tiểu thủ
công nghiệp :
- Tổ chức và hướng dẫn việc thực hiện các chương trình, đề án ứng dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất.
- Tổ chức việc xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ; thực hiện việc tu bổ,
bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão
lụt;
- Quản lý, kiểm tra, bảo vệ việc sử dụng nguồn nước trên địa bàn;
- Tổ chức, hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành, nghề truyền
thống ở địa phương;
- Lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của xã;
* Trong lĩnh vực xây dựng, giao thông vận tải :
- Quản lý, kiểm tra việc xây dựng, cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ
ở điểm dân cư nông thôn theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức việc bảo vệ, kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm đường giao
thông và các công trình cơ sở hạ tầng khác ở địa phương;
- Huy động sự đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng đường xá,
cầu, cống trên địa bàn; tổ chức thực hiện việc xây dựng, tu sửa đường giao
thông trong xã theo phân cấp;
* Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ:
- Quản lý, sắp xếp chợ và các điểm buôn bán dịch vụ ở địa phương;
- Quản lý các hoạt động dịch vụ, buôn bán nhỏ ở địa phương theo quy

định của pháp luật;
- Phối hợp với các cơ quan hữu quan chống buôn lậu, trốn thuế, sản xuất
và lưu hành hàng giả ở địa phương;
* Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội và thể dục thể thao :
- Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương;
- Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của nhà trẻ, lớp mẫu
giáo, trường mầm non ở địa phương;
- Tổ chức và quản lý trạm y tế xã, tổ chức, thực hiện các chương trình y tế
cơ sở, dân số, kế hoạch hoá gia đình được giao;
- Tổ chức thực hiện chính sách, chế độ đối với thương, bệnh binh, gia đình
liệt sĩ, gia đình có công với nước; thực hiện công tác cứu tế xã hội, hoạt động từ
thiện ở địa phương;
- Quản lý, bảo vệ, tu bổ nghĩa trang liệt sĩ, quy hoạch quản lý nghĩa địa ở
địa phương;
- Xây dựng phong trào và tổ chức các hoạt động văn thể; vận động nhân
dân xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá…
* Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội:
- Tổ chức huấn luyện quân sự phổ thông; tuyên truyền, giáo dục xây dựng
quốc phòng toàn dân;
- Thực hiện công tác nghĩa vụ quân sự và tuyển quân theo kế hoạch; thực
hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ; thực hiện chính sách đối với các lực lượng vũ
trang nhân dân ở địa phương;
- Thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Quản lý hộ khẩu; tổ chức việc đăng ký tạm trú, tạm vắng;
* Trong lĩnh vực thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo :
- Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn và bảo đảm
thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.
* Trong lĩnh vực thi hành pháp luật :
- Tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản do chính UBND

cấp xã, cơ quan nhà nước cấp trên và HĐND cùng cấp ban hành;
- Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật; giải quyết các vi phạm pháp
luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân;
- Tổ chức và hướng dẫn hoạt động của các tổ hoà giải, thanh tra nhân dân;
- Tổ chức việc đăng ký hộ tịch, thực hiện công chứng, chứng thực theo
quy định của pháp luật;
- Tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân
theo thẩm quyền;
- Thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản của Nhà nước; bảo vệ tính mạng,
tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân;
- Tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc thi
hành án theo quy định của pháp luật; kiểm tra việc thi hành pháp luật trên địa bàn;
- Quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
* Trong việc xây dựng chính quyền và quản lý địa giới hành chính:
- Tổ chức và thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân theo quy định của pháp luật;
- Lập hồ sơ về việc phân vạch, điều chỉnh địa giới hành chính; quản lý hồ sơ,
mốc và bản đồ địa giới hành chính của địa phương. [12],[17]
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND phường
Do UBND xã, thị trấn và UBND phường đều thuộc một cấp hành chính
(cấp xã) nên cũng có những điểm tương đồng. Vì vậy, Uỷ ban nhân dân
phường, ngoài việc phải thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật đã
quy định cho UBND xã, thị trấn như đã nói ở trên còn có trách nhiệm thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: (Điều 118- Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 2003)
- Thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch
đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, phòng, chống các tệ nạn xã hội, giữ
gìn trật tự vệ sinh, sạch đẹp khu phố, lòng đường, lề đường, trật tự công cộng
và cảnh quan đô thị; quản lý dân cư đô thị trên địa bàn;

- Thanh tra việc sử dụng đất đai của tổ chức, cá nhân trên địa bàn
phường theo quy định của pháp luật;
- Quản lý và bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn phường theo
phân cấp
- Quản lý, kiểm tra giấy phép xây dựng của tổ chức, cá nhân trên địa bàn
phường; [12]
Căn cứ vào các nhiệm vụ, quyền hạn mà UBND cấp xã phải thực hiện,
chúng ta thấy UBND cấp xã vừa phải thực hiện những nhiệm vụ thuộc chức năng
quản lý nhà nước được Nhà nước phân cấp hoặc uỷ quyền vừa phải tổ chức thực
hiện các Nghị quyết của HĐND cấp xã về phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân trên địa bàn.
1.3. Cơ cấu, tổ chức, hoạt động của UBND cấp xã
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, UBND cấp
xã cần phải có một cơ cấu, tổ chức, hoạt động khoa học và hợp lý, phát huy vai
trò là nền móng của Bộ máy hành chính nhà nước.
1.3.1. Cơ cấu của UBND cấp xã
Điều 122 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: UBND
cấp xã do HĐND xã bầu ra, có từ 03 đến 05 thành viên, gồm có Chủ tịch, Phó
chủ tịch và Uỷ viên.
Người đứng đầu UBND cấp xã là Chủ tịch UBND do HĐND cấp xã trực
tiếp bầu ra. Chủ tịch UBND cấp xã nhất thiết phải là đại biểu HĐND cấp xã,
còn các thành viên khác của UBND cấp xã thì không nhất thiết phải là đại biểu
HĐND. Kết quả bầu các thành viên của UBND cấp xã phải được Chủ tịch
UBND cấp huyện phê chuẩn.
Trong nhiệm kì, nếu khuyết Chủ tịch UBND cấp xã thì Chủ tịch HĐND
cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch UBND để HĐND bầu. Người được
bầu giữ chức Chủ tịch UBND cấp xã trong nhiệm kì không nhất thiết là đại
biểu HĐND. Quy định này nhằm tạo ra cơ chế linh hoạt và đảm bảo tính hiệu
quả trong việc thực hiện chức năng quản lý và điều hành của hệ thống hành
chính nhà nước, khắc phục tình trang cục bộ địa phương. Điều này có mục đích

tốt, tuy nhiên có thể sẽ gặp phải khó khăn về mặt tâm lý, người dân địa phương
có thể cho rằng người địa phương khác đến không thể hiểu được tình hình của
đời sống dân cư tại địa phương mình. Đây chính là một trong những vấn đề của
cải cách bộ máy nhà nước.
Phó chủ tịch UBND cấp xã do HĐND cùng cấp bầu ra theo sự giới
thiệu của chủ tịch UBND bằng hình thức bỏ phiếu kín.
Các thành viên của UBND cấp xã cũng do HĐND cùng cấp bầu ra bằng
hình thức bỏ phiếu kín, theo sự giới thiệu của chủ tịch UBND.
Tuỳ theo quy mô số dân ở các xã, phường, thị trấn mà có cơ cấu tổ chức
khác nhau. Cụ thể:
* Ở các xã miền núi, hải đảo, có dân số từ 5000 người trở lên; xã đồng
bằng, trung du có dân số từ 8000 người trở lên và xã biên giới:
Cơ cấu tổ chức của UBND gồm 05 thành viên và được phân công như
sau:
Một chủ tịch phụ trách chung, khối nội chính, quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội ở xã.
Hai phó chủ tịch: Một phó chủ tịch phụ trách khố kinh tế, tài chính, xây
dựng, giao thông, nhà đất và tài nguyên môi trường. Một phó chủ tịch phụ
trách khối văn hoá- xã hội và các lĩnh vực xã hội khác
Các uỷ viên UBND: Một uỷ viên phụ trách công an. Một uỷ viên phụ
trách quân sự.
* Ở các xã không thuộc diện nêu trên:
Cơ cấu tổ chức của UBND gồm 03 thành viên: Một chủ tịch, một phó
chủ tịch và một uỷ viên. Căn cứ vào lĩnh vực công việc được phân công theo
quy định của pháp luật mà Chủ tịch UBND xã phân công các thành viên phụ
trách cho phù hợp với từng địa phương. Trong nhiệm kỳ, HĐND xã có thể ấn
định thêm số lượng thành viên UBND cấp mình nhưng tổng số không vượt quá
05 thành viên và phải được Chủ tịch UBND cấp huyện phê chuẩn.
* Đối với UBND phường, thị trấn:
Cơ cấu tổ chức gồm 05 thành viên: Một chủ tịch, hai phó chủ tịch, hai uỷ

viên và được phân công phụ trách công việc như sau:
Một chủ tịch phụ trách chung, khối nội chính, quản lý công tác quy
hoạch đô thị.
Hai phó chủ tịch: Một phó chủ tịch phú trách khối kinh tế- tài chính xây
dựng cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, nhà đất và tài nguyên môi trường.
Một phó chủ tịch phụ trách khối văn hoá xã hội và các lĩnh vực xã hội khác.
Hai uỷ viên: Một uỷ viên phụ trách công an. Một uỷ viên phụ trách
quân sự. [32, tr.45- 47]
1.3.2. Tổ chức của UBND cấp xã
UBND cấp xã tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong đó:
Chủ tịch UBND cấp xã là người lãnh đạo và điều hành công việc của
UBND, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của
mình và cùng với tập thể UBND chịu trách nhiệm về hoạt động của UBND
trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
Phó chủ tịch UBND cấp xã là người giúp việc cho Chủ tịch UBND cấp
xã, được Chủ tịch phân công phụ trách, thực hiện những công việc nhất định
và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND cấp xã về phần công việc được
giao.
Các thành viên của UBND cấp xã được Chủ tịch UBND phân công,
phụ trách những lĩnh vực chuyên môn nhất định. Đặc biệt với những lĩnh vực
quan trọng như: tài chính, công an, quân sự…Chủ tịch UBND cấp xã phải
phân công cho các thành viên UBND phụ trách, làm thủ trưởng. Mỗi thành
viên của UBND cấp xã chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực được phân công
phụ trách trước Chủ tịch UBND cấp xã.
1.3.3. Hoạt động của UBND cấp xã
Theo Điều 8 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, hoạt động của
UBND cấp xã được đảm bảo bằng hiệu quả hoạt động của:
- Tập thể Uỷ ban nhân dân;
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;

- Các thành viên của UBND và các cơ quan chuyên môn của UBND.
UBND cấp xã họp mỗi tháng một lần. Đây là hình thức hoạt động quan
trọng nhất của UBND cấp xã vì phần lớn nhiệm vụ quyền hạn của UBND cấp
xã được thực hiện tại phiên họp như: chương trình công tác của UBND hàng
năm hoặc trong cả nhiệm kỳ; kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, dự toán ngân
sách, quyết toán ngân sách; kế hoạch đầu tư xây dựng các công trình trọng
điểm; các biện pháp thực hiện Nghị quyết của HĐND cấp xã…
Những vấn đề nằm trong chương trình phiên họp của UBND cấp xã đều
được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Các quyết định của UBND thể
hiện bằng hình thức văn bản đó là: Quyết định và Chỉ thị.
Là người lãnh đạo, điều hành công việc của UBND cấp xã, Chủ tịch
UBND quy định chương trình hoạt động của UBND hàng tháng, hàng quý;
phân công công việc cho các thành viên của UBND và kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các nhiệm vụ của các chủ thể đó. Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách
nhiệm cá nhân về các quyết định của mình và cùng với tập thể UBND chịu
trách nhiệm đối với các quyết định thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã.
Các phó chủ tịch UBND cấp xã và các thành viên khác của UBND được
Chủ tịch UBND cấp xã phân công phụ trách các lĩnh vực nhất định, góp phần
bảo đảm sự thống nhất quản lý từ Trung ương tới cơ sở, đồng thời phải chịu
trách nhiệm trước Chủ tịch UBND trong việc quản lý các lĩnh vực được giao.
Như vậy, UBND cấp xã được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tập
trung dân chủ, là cơ quan gần dân nhất, hoạt động và làm việc theo chế độ tập
thể quyết định, cá nhân phụ trách, đảm bảo sự thống nhất trong quá trình quản
lý hành chính nhà nước ở địa phương.
CHƯƠNG II
HOẠT ĐỘNG CỦA UBND CẤP XÃ Ở NƯỚC TA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
UBND cấp xã là một bộ phận trong hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước, có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị của chúng ta.
Hoạt động của UBND cấp xã đã và đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp

đổi mới và phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân.
Là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, UBND cấp xã tiến hành
hoạt động quản lý hành chính trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như: tài
chính và ngân sách; nông- lâm- ngư nghiệp; thuỷ lợi, tiểu thủ công nghiệp; an
ninh quốc phòng; trật tự an toàn xã hội; giao thông vận tải; đất đai; chứng
thực, hộ tịch;…nhưng trong khuôn khổ của khoá luận tốt nghiệp em chỉ đề cập
đến hoạt động của một số lĩnh vực điển hình sau: hoạt động tài chính và ngân
sách, hoạt động quản lý đất đai, hoạt động chứng thực, hoạt động đăng ký hộ
tịch và một số vấn đề ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã như
hoạt động điều hành của UBND cấp xã và chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức của UBND cấp xã thừa hành nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Thời gian qua, hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta đã từng bước đổi
mới và nâng cao song cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Dưới
đây là những kết quả đã đạt được và những tồn tại, hạn chế trong hoạt động
của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay trên một số lĩnh vực điển
hình.
2.1. Những kết quả đạt được
* Trong hoạt động tài chính và ngân sách
Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định: “Cấp xã là một cấp
ngân sách, có nhiệm vụ thu- chi và thanh quyết toán”. [13] .Theo đó, UBND
cấp xã có nhiệm vụ quản lý thu, chi ngân sách theo kế hoạch của địa phương,
chỉ đạo tận thu các nguồn thu theo phân cấp và thực hiện các nội dung chi theo
đúng quy định.
Trên thực tế, công tác chấp hành quản lý thu- chi đã được UBND cấp xã
coi trọng, tích cực chỉ đạo tận thu các nguồn thu theo phân cấp và thực hiện
các nội dung chi theo đúng quy định, không có tình trạng toạ chi hoặc thu
ngoài ngân sách. Giám sát chặt chẽ các nguồn thu từ thuế, phí và lệ phí…tránh
thất thoát cho ngân sách Nhà nước.
Công tác lập dự toán ngân sách hàng năm của UBND cấp xã cơ bản đã
được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, chất lượng dự toán ngày một

nâng lên và bám sát được định hướng phát triển kinh tế, xã hội của địa
phương, phản ánh đúng nội dung thu, chi ngân sách qua Kho bạc Nhà nước.
* Trong hoạt động quản lý đất đai
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của Quốc gia, là tư liệu sản xuất
của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp; là địa bàn phân bố các khu dân cư và xây
dựng cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Vì vậy, đất đai cần
phải được quản lý chặt chẽ theo đúng quy hoạch, kế hoạch và phải được sử
dụng có hiệu quả. Có thể nói, UBND cấp xã là nơi gần gũi và nắm bắt rõ nhất
với những biến động về đất đai tại địa phương
Luật đất đai năm 2003 quy định UBND cấp xã có nhiệm vụ và quyền
hạn như sau:
- Quản lý mốc địa giới hành chính trên thực địa tại địa phương;
- Công bố công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết của địa
phương sau khi được UBND cấp có thẩm quyền quyết định hoặc xét duyệt;
- Tổ chức chỉ đạo, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa
phương, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi sử dụng đất trái với quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích
của xã, phường, thị trấn;
- Xác nhận hồ sơ để người đang sử dụng đất làm thủ tục xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Tổ chức kiểm kê đất đai của địa phương;
- Phối hợp với các cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý công trình có hành
lang bảo vệ an toàn. Kịp thời xử lý các trường hợp lấn chiếm, sử dụng trái
phép hành lang bảo vệ an toàn công trình;
- Phối hợp với Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà giải các tranh chấp đất đai;
- Chứng thực hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp
quyền sử dụng đất của hộ gia đình và cá nhân. [14]
Giúp việc cho UBND cấp xã trong hoạt động quản lý đất đai ở mỗi xã,

phường, thị trấn là công chức Địa chính.
Thực tế trong những năm vừa qua, UBND cấp xã đã từng bước tổ chức,
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong quản lý đất đai theo đúng thẩm
quyền, giúp cho cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý và sử dụng đất
đai có hiệu quả. Đặc biệt, trong hoạt động hoà giải tranh chấp đất đai, giải
quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, UBND cấp xã đã phối hợp với Uỷ ban Mặt
trận tổ quốc và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội giải quyết dứt điểm
các tranh chấp đất đai phát sinh trên địa bàn, tạo tâm lý phấn khởi trong nhân
dân, hạn chế tình trạng khiếu nại vượt cấp, khiếu kiện đông người gây mất ổn
định chính trị trên địa bàn.
* Trong hoạt động chứng thực
Chứng thực là việc UBND cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ,
hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho các
giao dịch của họ.
Điều 5 Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/05/2007 về cấp bản sao từ sổ
gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký quy định: “UBND
cấp xã có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ văn bản
bằng tiếng Việt; chứng thực chữ ký trong các giấy tờ văn bản bằng tiếng Việt.
Chủ tịch hoặc phó chủ tịch UBND cấp xã thực hiện chứng thực các việc
các việc trên và đóng dấu của UBND cấp xã”.
Hoạt động chứng thực do công chức Tư pháp- Hộ tịch thực hiện dưới sự
chỉ đạo điều hành của Chủ tịch hoặc phó chủ tịch UBND cấp xã. Nhiệm vụ của
công chức Tư pháp- Hộ tịch là giúp Chủ tịch hoặc phó chủ tịch UBND cấp xã
chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ văn bản bằng tiếng Việt; chứng
thực chữ ký trong các giấy tờ văn bản bằng tiếng Việt. Trước khi Chính phủ
ban hành NĐ 79/2007/NĐ- CP, hành vi này do UBND cấp huyện thực hiện
theo NĐ 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực.
Việc chuyển giao thẩm quyền chức thực bản sao từ bản chính trong các
giấy tờ giao dịch bằng tiếng Việt cho UBND cấp xã nhằm giải quyết tốt hơn
các yêu cầu của công dân, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân được cấp bản

sao một cách nhanh hơn. Việc phân cấp này đã mở ra hệ thống rộng rãi cho
hơn 10 vạn UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực thay vì chỉ có phòng công
chứng và UBND cấp huyện theo quy định của NĐ 75/2000/ NĐ-CP về công
chứng, chúng thực.
* Trong hoạt động đăng ký hộ tịch
Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận các sự
kiện sinh, tử, kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, nhận cha mẹ, con, thay đổi, cải
chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc;
căn cứ vào quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi vào sổ hộ tịch
các việc: xác định cha mẹ, con, thay đổi quốc tịch, ly hôn, huỷ việc kết hôn trái
pháp luật, chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Theo quy định của NĐ 158/2005/NĐ- CP của Chính phủ về công tác hộ
tịch, hoạt động đăng ký hộ tịch đã được phân cấp mạnh mẽ cho UBND cấp xã
thực hiện nhằm tạo thuận lợi nhất cho công dân khi có yêu cầu đăng ký các sự
kiện liên quan đến nhân thân, thân nhân… Theo đó, một số sự kiện hộ tịch
trước đây thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh nay đã được phân cấp cho
UBND cấp xã như: thay đổi, cải chính hộ tịch cho trẻ em dưới 14 tuổi, đăng ký
khai sinh cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà có cha hoặc mẹ là công
dân Việt Nam định cư ở nước ngoài…
Nhìn chung việc đăng ký khai sinh; khai tử; đăng ký kết hôn; đăng ký
việc nuôi con nuôi; đăng ký giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ
tịch; ghi vào sổ các thay đổi hộ tịch khác đã được UBND cấp xã thực hiện
tương đối tốt, đáp ứng được yêu cầu của nhân dân. Ví dụ: tỉnh Thái Nguyên
trong năm 2007, UBND cấp xã đã tiến hành đăng ký đúng hạn cho 19.065 sự
kiện sinh trong tổng số 29.265 sự kiện sinh, 6326 sự kiện tử trong tổng số 8816
sự kiện tử; đăng ký và đăng ký kết hôn cho 8895 trường hợp; đăng ký sự kiện
nuôi con nuôi cho 33 trường hợp; xác nhận sự kiện nhận cha, mẹ, con cho 42
trường hợp; thay đổi, cải chính hộ tịch cho 438 trường hợp; ghi vào sổ các thay
đổi hộ tịch khác là 104 trường hợp. [25]
* Hoạt động điều hành của UBND cấp xã

Trong thời gian qua, UBND cấp xã cũng đã có những đổi mới căn bản
về phong cách điều hành và chỉ đạo, từ sự chỉ đạo theo cách đối phó tình thế
từng bước đã chuyển sang sự chỉ đạo theo quy chế trong đó nổi bật là trách
nhiệm của chức danh Chủ tịch UBND cấp xã. Chế độ trách nhiệm đã được xây
dựng, cán bộ, công chức cấp xã có năng lực hơn, trẻ hơn, năng động hơn, biết
cách tổ chức quản lý, xử lý tốt và kịp thời các tình huống phát sinh trong công
việc trên cơ sở pháp luật.
* Hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn là những người đại diện cho
quyền lực nhà nước ở cơ sở, trực tiếp lãnh đạo nhân dân thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tiến hành vận động và
tổ chức quần chúng, huy động các nguồn lực và áp dụng những biện pháp cần
thiết để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ được giao.
Số lượng công chức làm công tác chuyên môn thuộc UBND cấp xã hiện
nay là 81.314 người chiếm 42,25% trong tổng số 192.438 cán bộ, công chức
trực tiếp làm công tác quản lý ở 10.987 xã, phường, thị trấn ( trong đó có 9106
xã, 1271 phường, 610 thị trấn, 125.710 thôn bản, tổ dân phố) [28], có trách
nhiệm giúp UBND cấp xã quản lý Nhà nước về lĩnh vực công tác (tài chính, tư
pháp, địa chính, văn phòng, văn hoá- xã hội, công an, quân sự) và thực hiện các
nhiệm vụ theo sự phân công của chủ tịch UBND cấp xã: Đó là một lực lượng
khá đông đảo trong tổ chức bộ máy hành chính của chúng ta.
Những năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức của UBND cấp xã đã có
những đổi mới tích cực theo hướng trẻ hoá, tạo động lực, nâng cao và phát huy
năng lực sáng tạo. Nhìn chung đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vẫn giữ vững
được phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống tốt và lành mạnh, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Về chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã hiện nay đã có
những bước tiến đáng kể so với giai đoạn trước đó
- Về cán bộ, công chức là nữ chiếm 16.21%.
- Về cán bộ công chức là Đảng viên chiếm 84,67%.

- Về trình độ chuyên môn: Số cán bộ, công chức có trình độ trên đại
học là 0,13%. Cao đẳng và Đại học là 9,04%.
- Về nguồn cán bộ: Có 90,45% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ do
bầu cử là người tại chỗ; 3,23% là cán bộ tăng cường; 6,03% là cán bộ hưu trí,
mất sức. [28]
Về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã: với cán bộ
chuyên trách ở xã, phường, thị trấn, việc chuyển từ sinh hoạt phí sang chế độ
lương đã tạo tâm lý an tâm, phấn khởi hơn đối với đội ngũ cán bộ, công chức.
Để tạo dựng được nguồn nhân lực dồi dào cho bộ máy hành chính nhà
nước nói chung và của UBND cấp xã nói riêng, Đảng và Nhà nước cần có sự
đầu tư và quan tâm hơn nữa tới việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, đặc biệt là
chế độ chính sách với đội ngũ cán bộ, công chức, tạo động lực để họ phát huy
trí lực và tận tụy với công việc, với nhân dân.
2.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả nói trên, hoạt động của UBND cấp xã vẫn bộc
lộ những tồn tại và hạn chế sau:
* Trong hoạt động tài chính và ngân sách
Hoạt động quản lý tài chính và ngân sách của UBND cấp xã vẫn tồn tại
nhiều hạn chế và vẫn hoạt động trên cơ sở một chế độ tài chính công không
tương thích, nguồn thu không tạo khả năng thúc đẩy nỗ lực của UBND cấp xã.
Ví dụ ở những xã vùng núi, vùng sâu, vùng xa; nguồn thu ít nhưng vẫn phải
đảm bảo các nhiệm vụ chi theo đúng quy định của pháp luật nên ngân sách của
các xã này luôn trong tình trang thiếu hụt trầm trọng. Theo Bộ tài chính, cho
đến nay mới có khoảng trên 20% số xã, phường, thị trấn tự cân đối được ngân
sách, 40% số xã, phường, thị trấn cân đối được một phần, gần 40% số xã,
phường, thị trấn gần như phải lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn bổ sung từ ngân
sách Trung ương. Chính sự bao cấp có tính bình quân của Nhà nước đối với
ngân sách cấp xã đã tạo ra tình trạng trì trệ trong các quan hệ tài chính- ngân
sách và tâm lý “chờ đợi” sự cấp phát kinh phí từ cấp trên.
Mặc dù Điều 34 luật ngân sách năm 2002 quy định: “Ngân sách xã, thị

trấn được hưởng tối thiểu 70% các khoản thu thuế chuyển quyền sử dụng đất;
thuế nhà, đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất
nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà, đất” [13]. Nhưng ở một số
nơi, UBND cấp xã lại sử dụng kinh phí sai mục đích, làm hao hụt ngân sách.
Bên cạnh đó, một số xã, phường, thị trấn còn chưa quan tâm, chú trọng đến
việc đầu tư, nuôi dưỡng các nguồn thu, sử dụng lãng phí hoặc thả nổi công tác
quản lý đất đai, tài nguyên, bến bãi… để cá nhân chiếm dụng, khai thác, từ đó
dẫn tới việc vừa không đảm bảo được nguồn thu, vừa gây thắc mắc, khiếu nại
trong nhân dân. Đặc biệt một số UBND cấp xã còn tự ý đặt ra những khoản thu
trái pháp luật như việc thu thêm một số loại phí và lệ phí, thu vượt mức so với
quy định... gây bất bình trong nhân dân.
* Hoạt động quản lý đất đai.
Quản lý đất đai là một nhiệm vụ rất quan trọng của UBND cấp xã.
Nhưng tại một số nơi, UBND cấp xã đã lơi lỏng trong việc quản lý đất đai,
nhất là đối với đất chưa được sử dụng, đất hành lang… dẫn đến tình trạng lấn
chiếm đất đai, sử dụng đất không đúng mục đích. Ví dụ: Tại tỉnh Thái Nguyên,
trên tuyến đường Cách mạng tháng Tám dài hơn 7 km đã có tới 135 trường
hợp lấn chiếm đất hành lang để phục vụ cho mục đích cá nhân gây mất mĩ quan
đô thị.
Trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, do các quyết
định thu hồi đất, phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, thực hiện quyết
định sau thanh tra, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy
định và không đảm bảo thời gian nên đã xảy ra tình trạng khiếu tố đông người
như vụ: 05 công dân khu dân cư số 08- Bắc cầu Tam Giang- phường Trần
Hưng Đạo, 05 công dân khu Bình Minh- phường Phạm Ngũ Lão khiếu tố về
việc thu hồi đất không thuộc diện quy hoạch của các hộ gia đình hay vụ việc
các hộ gia đình thôn Tứ Thông- xã Xuân Dương, thôn Đỗ Xá- xã Tứ Minh về
việc thực hiện chính sách bồi thường khi thu hồi đất, giải phóng mặt bằng khu
công nghiệp Đại An…[35]
Trình độ năng lực của một số cán bộ, công chức có thẩm quyền giải

quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về đất đai còn hạn chế, không nắm rõ được các
quy định của pháp luật, có khi còn lợi dụng chức quyền cố ý làm trái các quy
định của pháp luật, bao che cho cấp dưới, giải quyết khiếu nại, tố cáo sai, gây
thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Mặt khác, một số công chức Địa chính cấp xã chưa qua đào tạo về chuyên
môn, nghiệp vụ, trình độ năng lực còn hạn chế nên việc giải quyết các vụ tranh
chấp đất đai bị đình trệ, kéo dài và đùn đẩy lên cấp trên.
Vai trò của UBND cấp xã trong quản lý đất đai là rất quan trọng. Vì thế,
để thực hiện tốt chức năng quản lý đất đai, Nhà nước cần có kế hoạch đào tạo
về quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ cho Chủ tịch UBND cấp xã và
các công chức Địa chính cấp xã. Tăng cường các cán bộ trẻ có trình độ năng
lực về công tác tại xã, phường, thị trấn, tạo điều kiện cho UBND cấp xã thực
hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.
* Trong hoạt động chứng thực.
Hoạt động chứng thực của UBND cấp xã vẫn gặp rất nhiều khó khăn,
chưa đảm bảo được hiệu quả quản lý của UBND cấp xã. Số lượng các văn bản
chứng thực phân luồng về cho cấp xã tiếp tục tăng nhanh trong thời gian gần
đây. Theo số lượng thống kê chưa đầy đủ của tỉnh Hưng Yên từ tháng 7/2007
tới nay, số lượng văn bản chứng thực ở cấp xã là hơn 114.000 việc (tăng gấp
đôi so với trước đó) [35]. Khối lượng công việc nhiều như vậy trong khi đội
ngũ công chức Tư pháp xã, phường, thị trấn còn quá ít, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ còn hạn chế. Nhiều cán bộ, công chức không đủ năng lực thực hiện
thuần thục công việc chứng thực để nhận biết được những văn bản giả mạo khi
mà các văn bản, giấy tờ giả ngày càng tinh vi, khó phát hiện. Mặt khác công
chức Tư pháp cấp xã đang phải đảm nhiệm rất nhiều nhiệm vụ như tổ chức
việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân, hướng dẫn hoạt động của tổ
hoà giải…nay thêm “gánh nặng” chứng thực bản sao, điều này khiến công
việc trở nên “ngập đầu” công chức Tư pháp cấp xã trong khi phần lớn các xã,
phường, thị trấn hiện tại mới chỉ được biên chế một công chức Tư pháp.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động chứng thực còn thiếu

thốn nên nhiều địa phương đã rơi vào thế “bị động” khi bắt tay vào triển khai
NĐ 79/2007/NĐ- CP.
Đó là những vấn đề mà chúng ta cần sớm có giải pháp thật đồng bộ từ
phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền để mau chóng khắc phục tình trạng trên.
* Trong hoạt động đăng ký hộ tịch.
Trong thời gian qua, hoạt động đăng ký hộ tịch ở một số nơi, đặc biệt là ở
một số xã vùng sâu, vùng xã, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chưa được
thực hiện triệt để. Do nhận thức của người dân về vấn đề này còn hạn chế, bên
cạnh đó các công chức Tư pháp- Hộ tịch cũng chưa tích cực tuyên truyền để
nhân dân thấy được tầm quan trọng của việc đăng ký hộ tịch và tự giác đi đăng
ký, đặc biệt là đối với sự kiện khai tử: do tâm lý người dân cho rằng “việc gì
mà không mang lại quyền lợi cho mình thì không làm”. Trên thực tế, công chức
Hộ tịch cũng không thường xuyên đôn đốc nhân dân thực hiện, phải đến khi có
sự kiểm tra, rà soát của các cơ quan có thẩm quyền thì mới phát hiện ra được
sự thiếu sót đó. Ví dụ: tại Thái Nguyên trong năm 2007, UBND cấp xã đã
đăng ký quá hạn 3354 sự kiện sinh và đăng ký lại cho 6802 sự kiện sinh; đăng
ký khai tử quá hạn cho 1950 sự kiện và đăng ký lại cho 510 sự kiện tử. [25]
Đăng ký và quản lý hộ tịch là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên
của UBND các cấp trong đó có UBND cấp xã. Để làm tốt điều này, công chức
Hộ tịch phải được trang bị kỹ năng, chuyên môn nhất định thì mới thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời góp phần tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về
pháp luật hộ tịch trong nhân dân.
* Hoạt động điều hành của UBND cấp xã.
Hoạt động điều hành của UBND cấp xã hiện nay vẫn chưa thực sự đi vào
nề nếp, nhiều nơi còn vi phạm pháp luật. Việc ban hành các văn bản quản lý,
áp dụng pháp luật còn nhiều sai trái, gây tổn thất không nhỏ cho Nhà nước và
nhân dân.
Một vấn đề đang làm giảm sức mạnh trong hoạt động điều hành của
UBND cấp xã đó là tình trạng không phân biệt được khi nào là ý kiến của cá
nhân Chủ tịch UBND cấp xã, khi nào là ý kiến của thành viên UBND và ý kiến

của tập thể UBND nên gây nhiều khó khăn, trở ngại khi thực hiện, đặc biệt là
khi xảy ra sai phạm. Mặt khác, cũng do sự chưa phân định rõ chức năng, thẩm
quyền nên có nơi, cán bộ, công chức của UBND cấp xã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để trục lợi cá nhân, gia đình thậm chí cho cả dòng họ gây ra sự bất
bình trong nhân dân, giảm đi uy quyền của UBND cấp xã trong hoạt động quản
lý hành chính nhà nước ở địa phương.
Do năng lực quản lý, điều hành yếu kém nên một số nơi UBND cấp xã
không kiểm soát được tình hình, để mặc cho thôn xóm tự soạn ra quy chế,
hương ước trái với quy định của pháp luật như việc tự đặt ra các hình thức xử
phạt và mức phạt không đúng quy định (mức phạt có thể bằng thóc hoặc bằng
tiền), cho rằng “phép vua thua lệ làng” khiến cho tình hình trị an ở nông thôn
vốn đã phức tạp nay càng phức tạp hơn. Cũng do ý thức cục bộ của các cán bộ,
công chức cấp xã, dựa trên mối quan hệ họ mạc, làng xóm, quen biết nên đã
giải quyết thiên lệch về quyền lợi cho các cá nhân, tổ chức…làm cho nội bộ
của UBND cấp xã một số nơi mất ổn định, sinh ra bè phái, làm giảm hiệu quả
điều hành và làm mất lòng tin của nhân dân ở chính quyền nói chung và
UBND cấp xã nói riêng.
Hiện nay, ở một số nơi, UBND cấp xã có xu hướng đùn đẩy công việc
xuống các trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố tạo ra nguy cơ “hành chính hoá”
thôn, khu phố, tổ dân phố khiến hình ảnh thôn, khu phố, tổ dân phố như một
cấp hành chính cơ sở. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới tính ổn định của bộ máy
quản lý, điều hành ở cấp xã, gây ra cách hiểu sai trong nhân dân về vị trí và vai
trò của thôn, xóm, khu phố, tổ dân phố trên địa bàn.
* Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức của UBND xã, phường, thị trấn
Số lượng cán bộ, công chức chuyên trách cấp xã hiện nay là 192.438
người [28]. Đây thực sự là một lực lượng đông đảo trong bộ máy hành chính
nhà nước. Nhưng do khối lượng công việc phải giải quyết trên thực tế là rất
lớn nên việc quy định số lượng cán bộ, công chức cấp xã từ 17 đến không quá
25 người là không phù hợp đối với những đơn vị hành chính cấp xã có dân số
trên 04 vạn người.

Chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã trong thời gian qua
còn có nhiều quy định chưa thống nhất. Hiện nay Nghị định 159/2005/NĐ- CP
về việc phân loại đơn vị hành chính cấp xã đã được thực hiện, theo số liệu tính
đến ngày 30/12/2006 có 2981 xã loại I, 5657 xã loại II, 2292 xã loại III [28],
nhưng hiện tại vẫn chưa có một quy định cụ thể nào về chế độ, chính sách cho
cán bộ, công chức ở các xã loại I, II, III, cũng không tăng thêm số lượng cán
bộ, công chức ở các xã này mà vẫn thực hiện theo NĐ 121/2003/ NĐ- CP quy

×