Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.61 KB, 84 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những định chế tài chính quan trọng bậc nhất của
nền kinh tế. Bằng các sản phẩm, dịch vụ của mình, ngân hàng đã giúp các
luồng tiền thông suốt, vận động liên tục và thúc đẩy phát triển nền kinh tế.
Với tầm quan trọng như vậy, sự an toàn trong hoạt động của ngân hàng có
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nhiều tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
Về bản chất, rủi ro của ngân hàng là không tránh khỏi nhưng điều đó không
có nghĩa là không làm gì. Các ngân hàng đều cố gắng hạn chế tối đa các rủi ro
có thể xảy ra bằng các biện pháp khác nhau. Trong bối cảnh cạnh tranh và
hội nhập thị trường tài chính và nền công nghiệp dịch vụ tài chính - ngân
hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ đòi hỏi ngành ngân hàng phải có những
cải cách mạnh mẽ để nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong từng hoạt động
dịch vụ.
Sau khi Ngân hàng Nhà Nước ra quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
dụng, rủi ro càng trở thành vấn đề quan tâm của các ngân hàng và những
người quan tâm. Trong quá trình thực tập tại VPBank – chi nhánh Hoàn
Kiếm, em được tiếp xúc với các công việc của tín dụng, hiểu được quy trình
tín dụng cũng như tìm hiểu được một phần các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Do vậy, em chọn vấn đề: “Phòng ngừa và hạn
chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh (VPBank)” làm chuyên đề tốt nghiệp. Qua chuyên đề này
em hy vọng có thể góp phần vào việc hạn chế được những rủi ro hiện hữu
cũng như tiềm ẩn tại ngân hàng, tăng độ an toàn trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng.
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, chuyên đề gồm 3 chương:
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương I. Lý luận chung về ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng
trong ngân hàng thương mại


Chương II. Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank)
Ch  ng III: Mt s gii pháp phòng nga và hn ch ri ro tín dng ti
ngân hàng th  ng mi c phn các doanh nghip ngoài quc doanh Vit Nam
(VPBank)
Do thi gian nghiên cu cng nh kin thc còn hn ch, bài chuyên  
chc chn không tránh khi nhng thiu sót, em rt mong    c s ch bo ca
cô giáo và các cán b tín dng ti Ngân hàng th  ng mi c phn các doanh
nghip ngoài quc doanh Vit Nam (VPBank) – Chi nhánh Hoàn Kim   em
hoàn thin chuyên   này.
Em xin chân thành cm n!
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CH   N G I . LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Vài nét về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và
đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống
ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Từ 3500 năm trước công nguyên trở về trước, có rất ít tư liệu về hoạt động
của một cái gì mang tính chất giống như ngân hàng. Thời gian này cho đến
năm 1800 BC, nghĩa là trước cuộc chiến tranh thành Troa (1500 – 1000 năm
BC), tư liệu cho biết là đã có một vài hoạt động mang tính chất khá tương tự
như một số hoạt động của ngân hàng. Lịch sử gọi đây là “giai đoạn của ngân
hàng sơ khai”, nó ra đời khi các thiết chế tổ chức xã hội bắt đầu hình thành.
Ngân hàng vào thời gian này chưa có tên. Hoạt động của ngân hàng sơ khai
này gồm có: bảo quản, giữ hộ tiền và đổi tiền hưởng hoa hồng. Nhà thờ
thường có quyền thế và thợ vàng trở thành những nơi cất giữ tài sản của cải

cho công chúng. Hoạt động của chúng mang hình thích như những “tiệm cầm
đồ”. Ngân hàng sơ khai với những bản quyết toán đơn giản trong đó, dự trữ
cuối kỳ luôn luôn bằng tổng các khoản ký gửi, được gọi là trung tính trong
cung ứng tiền, vì không có một đồng tiền mới nào được tạo ra từ hoạt động
ngân hàng. Dự trữ tiền mặt trong kho như thế gọi là dự trữ 100%. Ngân hàng
ở các giai đoạn sau không dự trữ (reservers) đến mức thế.
Một cách thụ động theo sự thúc đẩy của nhu cầu thương mại và trao đổi,
các ngân hàng hoạt động như trên cho đến thời La Mã. Năm 323 trước công
nguyên sau cái chết của Alexander Macedoine, đế quốc Hy Lạp tan rã mở ra
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thời kì La Mã thống trị Hy Lạp về mặt quân sự và chính trị, nhưng lại bị
người Hy Lạp với đời sống và tổ chức xã hội cao hơn đồng hoá về mặt văn
hoá. Người ta gọi đây là thời kỳ “Hy Lạp hoá”, người La Mã mang văn hoá
Hy Lạp về đế quốc của họ củng cố vào văn hoá bản địa. Nghệ thuật ngân
hàng sơ khai cũng được mang theo về La Mã và trước Thiên Chúa giáng sinh
hoạt động này được gọi là “Ngân hàng”. Tên gọi đó được tiếp tục giữ và phát
triển cho đến ngày nay. Từ ngân hàng (Bank) xuất phát từ chữ La tinh là
Bancus – Bancus là chiếc bàn dài, có nhiều hộc được những người nhận tiền
gửi và cho vay tiền thời đớ sử dụng để ngồi làm việc, giao dịch, cất giữ tiền,
tài sản và sổ sách. Cả tên gọi và hoạt động ngân hàng bắt đầu phát triển từ đế
quốc La Mã cho đến thế kỷ thứ V sau công nguyên.
Trong vòng năm thế kỷ - từ thế kỷ thứ V cho đến thế kỷ thứ X, nhiều
hoạt động mới được áp dụng khiến cho ngân hàng vào thế kỷ X đã rất tiến bộ
so với ngân hàng sơ khai và người ta gọi đây là “ giai đoạn phát triển thứ hai”
của lịch sử phát triển ngân hàng. Có những bước tiến về mặt nghiệp vụ ngân
hàng: Ngân hàng bắt đầu ghi chép và theo dõi hoạt động của thân chủ qua số
liệu tài khoản. Ngân hàng áp dụng phương pháp bù trừ, và nghiệp vụ giải
ngân , tức là chuyển tiền từ nơi này đi nơi khác cũng được áp dụng...
Ngân hàng đã bước vào giai đoạn ba gắn khá chặt với việc tạo ra “tiền

ngân hàng”. Ngân hàng từ thế kỷ XVII đã có cách tạo ra tiền của nó và dự trữ
là mối dây liên quan đến chu trình này. Các chứng thư do ngân hàng phát ra
(như Séc ngày nay) từ xa xưa đã được chấp nhận như phương tiện thanh toán
trong giao dịch và trao đổi. Ngân hàng thời Trung cổ hay ngân hàng
Amsterdam (1609 – 1891) vào thế kỷ XVII với việc phát ra 100 tiền ngân
hàng thay thế cho việc cất kỹ 100 tiền vàng do nhà nước đúc ra lưu hành,
không tạo thêm được đồng tiền nào vào nền kinh tế. Việc cất tiền mặt như thế
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gọi là “dự trữ tiền mặt 100%”. Ngân hàng hoạt động như thế gọi là có “tác
động trung tính” đối với lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế.
Một ngân hàng vào cuối thế kỷ XVII không hành động như thế. Nó tạo
ra tiền và kể cả rủi ro khi nó không giữ đủ 100 đồng của khách hàng đã gửi
trong kho, mà tìm cách cho vay một ít. Vì tiền ngân hàng từ đầu thế kỷ XVII
đã được chấp nhận trong thanh toán như là tiền mặt, quá trình tạo tiền ngân
hàng ảnh hưởng sâu sắc tới tổng cung tiền tệ trong nền kinh tế.
Từ năm 1609 – 1694 các ngân hàng đều có quyền tạo ra những tờ giấy bạc có
hiệu lực pháp lý như nhau trong lưu thông. Tình trạng được phát hành tiền
ngân hàng bị lạm dụng. Các Nhà nước bắt đầu có ý thức “can thiệp vào hoạt
động ngân hàng” để hạn chế việc phát hành. Chỉ sau khi Chính phủ giới hạn
quyền phát hành tiền tệ về một ngân hàng vào cuối thế kỷ XVII, khoảng cách
giữa các ngân hàng bắt đầu phát sinh: đó là việc chỉ có một ngân hàng duy
nhất được phát hành tiền, trong khi những ngân hàng còn lại thì không. Từ đó,
các ngân hàng còn lại chỉ làm nhiệm vụ những “trung gian tài chính” giữa
những người cho vay và những người vay tiền trong nền kinh tế, trong khi
ngân hàng độc quyền phát hành đã trở thành Ngân hàng Trung ương, nó hoàn
toàn biệt lập với công chúng. Mọi hoạt động của nó đều thông qua những
định chế trung gian và Chính phủ để lan ra công chúng. Từ nguyên nhân này,
những ngân hàng còn lại trong nền kinh tế được gọi là “ngân hàng trung
gian”.

1.1.2. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khoá X thông qua vào ngày 12
tháng 12 năm 2007, định nghĩa:
“Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Luật này
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
còn định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập
theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động
kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử
dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Luật tổ chức tín dụng không có định nghĩa hoạt động của ngân hàng vì
khái niệm này đã được định nghĩa trong Luật Ngân hàng Nhà nước, cũng do
Quốc hội khoá X thông qua cùng ngày. Luật Ngân hàng Nhà Nước định
nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình
thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Ngân hàng thương mại sử dụng vốn để tiến hành các hoạt động kinh
doanh thu lợi nhuận. Các hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại
bao gồm:

- Hoạt động cấp tín dụng
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các
hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh,
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước như bao thanh toán tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay thấu chi,
và cho vay theo hạn mức tín dụng, và hạn mức tín dụng dự phòng…Trong các
hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ
trọng lớn nhất.
- Góp vốn mua cổ phần
Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn,
mua cổ phần các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo
quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn được góp vốn,
mua cổ phần và liên doanh với Ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng
liên doanh.
- Tham gia thị trường tiền tệ
Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của
thị trường tiền tệ.
- Kinh doanh ngoại hối
Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập
công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước
và thị trường quốc tế.
1.1.3.3. Hoạt động trung gian
Ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian khi thực hiện các dịch vụ
bao gồm: dịch vụ thanh toán, uỷ thác và nhận uỷ thác, cung ứng dịch vụ bảo
hiểm và tư vấn tài chính.
- Dịch vụ thanh toán
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông

qua ngân hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng
trong và ngoài nước. Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thông qua Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản
tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đó
số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của NHTM
được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố
nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán của NHTM bao
gồm các hoạt động sau:
+) Cung cấp các phương tiện thanh toán.
+) Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
+) Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
+) Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác nhau theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước.
+) Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.
+) Thực hiện dịch vụ thu và phát triển tiền mặt cho khách hàng.
+) Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nước.
+) Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.
- Uỷ thác và nhận uỷ thác
Ngân hàng thương mại được uỷ thác, nhận uỷ thác làm đại lý trong các
lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn
đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác, đại
lý.
- Cung ứng dịch vụ bảo hiểm
Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập
công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của

pháp luật.
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Tư vấn tài chính
Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền
tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư
vấn trực thuộc ngân hàng.
1.1.4. Vai trò của Ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Vai trò của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành
lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo loại hình doanh
nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức
huy động vốn khác nhau, tuy nhiên vốn vay ngân hàng là một trong những
nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với bản thân các doanh nghiệp mà
còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các
doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương
mại cung cấp. Không có một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng
hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại
vững chắc trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp
thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất
- kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu
tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại hỗ trợ thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp
thông qua các dịch vụ thanh toán: dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế,
dịch vụ thu hộ, chi hộ…giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi
phí, đặc biệt trong thanh toán xuất nhập khẩu, nâng cao sức cạnh tranh và cớ
sự phát triển mạnh mẽ như ngày nay.
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.4.2. Vai trò của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế

Đối với nền kinh tế, ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài
chính quan trọng nhất. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu
hộ tiêu dùng, hầu hết các doanh nghiệp và kể cả các cơ quan chính quyền.
Ngân hàng còn là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô của
Chính phủ. Trên thực tế, để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội, vai trò của ngân hàng ngày càng lớn, thể hiện
qua:
- Vai trò thực thi chính sách tiền tệ: Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc
về Ngân hàng Trung ương; để thực thi các chính sách tiền tệ đó phải sử dụng
các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn
mức tín dụng...Chính các Ngân hàng thương mại là chủ thể chịu sự tác động
trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc
chuyển tiếp các tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng
vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách ti tiền tệ
đến khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế. Ngược lại, cũng qua Ngân
hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình, sản
lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt...của nền kinh tế được phản
hồi về cho Ngân hàng Trung ương để Chính phủ và Ngân hàng Trung ương
có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể. Hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại gắn liền với các hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Trong quá trình hoạt
động đó, ngân hàng thương mại thực hiện vai trò tham gia điều tiết kinh tế vi
mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của mình, biểu hiện các mối
quan hệ giữa ngân hàng thương mại đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân về
mặt tín dụng, tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt... đảm bảo hoạt động
của ngân hàng và nền kinh tế được bình thường. Vai trò điều tiết nền kinh tế
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vi mô của ngân hàng Thương mại được thể hiện qua việc tiếp nhận, thu hút
khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế vào Ngân hàng thương mại, đồng

thời ngân hàng thương mại cũng cung ứng tiền mặt theo nhu cầu khi các
doanh nghiệp rút tiền mặt từ tài khoản của mình để trả lương cho công nhân
viên chức, trả tiền mua nguyên vật liệu, thu mua hàng hoá..., khi công chúng
rút tiền gởi để chi dùng cho những nhu cầu của mình. Quá trình thu nhận và
cung ứng khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đã tạo ra mối quan hệ giữa
lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ trong từng khu vực.
Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ,
ngân hàng thương mại còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác, trong nền
kinh tế. Đây là những dịch vụ trung gian, tạo cho ngân hàng thương mại
những nguồn lợi đáng kể, góp phần tăng thêm các khoản thu nhập cho ngân
hàng thương mại, đồng thời cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển toàn diện và thoả mãn các yêu cầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các chủ thể kinh tế. Với tư cách là trung gian thanh toán không dùng tiền
mặt, ngân hàng thương mại đã giúp các chủ thể tham gia thanh toán, tiết kiệm
chi phí trong mua bán hàng hoá, cung ứng và tiếp nhận các dịch vụ, tiết kiệm
thời gian, đồng thời giúp cho doanh nghiệp thu hồi tiền bán hàng nhanh để
tiếp tục quá trình luân chuyển vốn tiếp theo, tạo thuận lợi cho sự phát triển
của doanh nghiệp..., từ đó đảm bảo quyền lợi của người mua và người bán,
đảm bảo an toàn và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, góp phần tạo nên văn
hoá tiền tệ cho xã hội.
- Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng tạo tiền
của Ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, chức năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô thuộc
về Ngân hàng Trung ương. Chức năng này thể hiện trên hai mặt:
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thứ nhất, tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và soạn
thảo chính sách tiền tệ. Với chức năng và vai trò của mình, Ngân hàng Trung
ương có đủ điều kiện thiết lập một kế hoạch tổng thể về việc phân bổ, sử dụng
các nguồn lực cho nhu cầu phát triển kinh tế, từ đó Ngân hàng Trung ương trở

thành một trong những trung tâm điều độ, mà sự phát triển của nền kinh tế
phụ thuộc rất lớn vào trung tâm điều độ này. Chính sách tiền tệ là loại công cụ
của chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản thân cơ chế thị trường và
quy luật vận động của nó. Nhưng Ngân hàng Trung ương không trực tiếp giao
dịch với công chúng, do đó phải dựa vào thông tin phản hồi từ các định chế
tài chính trung gian để làm căn cứ soạn thảo chính sách tiền tệ. Như vậy, rõ
ràng là nếu không có hệ thống Ngân hàng thương mại cung cấp, thì việc
hoạch định chiến lược và soạn thảo chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung
ương sẽ không hoàn hảo.
Thứ hai, chính sách tiền tệ được thiết kế và khởi động từ Ngân hàng
Trung ương, lan ra đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động
dây chuyền của hệ thống ngân hàng trung gian và các tổ chức tài chính trong
nước. Như vậy, nếu không có sự chấp hành của hệ thống ngân hàng trung
gian thì mục đích và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương sẽ không
thực hiện được. Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, Ngân hàng
Trung ương sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội,
mà trước hết là trong hệ thống Ngân hàng thương mại. Các công cụ này là
những thao tác hoạt động của Ngân hàng Trung ương. Vì thế, có thể nói rằng,
mọi hoạt động của Ngân hàng Trung ương đều tác động đến nền kinh tế vĩ mô
trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ đã vạch ra.
Sự điều tiết tiền tệ (bao gồm chính sách tiền tệ và các công cụ của nó) có
thể điều tiết gián tiếp và vô cùng hiệu quả đến những hoạt động của nền kinh
tế quốc gia từ vĩ mô đến vi mô. Một nội dung quan trọng của điều tiết tiền tệ
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
là điều hoà khối tiền tệ. Điều hoà khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh
việc tạo tiền và sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Một khả năng
kỳ bí của hệ thống ngân hàng hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để
ổn định tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, nên có
việc phân chia hai loại tiền: tiền ngân hàng trung ương (giấy bạc hay tiền mặt)

và tiền ngân hàng (tiền ghi sổ, bút tệ). Tiền trung ương là tiền do Ngân hàng
Trung ương độc quyền phát hành. Tiền ngân hàng là tiền do các ngân hàng
thương mại tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặc biệt là tiền
trên các khoản thanh toán sec. Nó được tạo ra như là sự mở rộng gấp nhiều
lần quỹ dự trữ ngân hàng (thông qua hệ số tạo tiền). Tiền của hệ thống Ngân
hàng thương mại chiếm bộ phận lớn nhất trong tổng khối lượng tiền tệ ngày
nay ở các nước có nền kinh tế phát triển. Một nền kinh tế càng đi dần vào
hiện đại, càng phát triển bao nhiêu, nền kinh tế ấy càng sử dụng nhiều hơn
tiền do các Ngân hàng trung gian tạo ra.
Như vậy, bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô
của Ngân hàng Trung ương trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh của
mình, Ngân hàng Thương mại đã thể hiện vai trò của mình trong việc góp
phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung ương thông qua
chính sách tiền tệ.
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn xảy ra đối
với một sự việc. Tuy nhiên, không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi
ro. Chỉ có những tình trạng không chắc chắn nào có thể ước đoán xác suất xảy
ra mới được xem là rủi ro. Những tình trạng không chắc chắn nào chưa từng
xảy ra và không thể ước đoán được xác suất xảy ra được xem là sự bất trắc
chứ không phải rủi ro.
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh khi một hoặc các bên tham gia hợp
đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. Đối với
ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng
không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của các khoản cho vay, hoặc là việc
thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng hạn của khách hàng. Nếu tất cả các
khoản cho vay của ngân hàng đều được thanh toán đầy đủ và đúng hạn cả gôc

và lãi thì ngân hàng không bị rủi ro tín dụng. Ngược lại, nếu người vay tiền
không có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ thì rủi ro tín dụng nảy sinh.
Rủi ro tín dụng gắn liền với các hình thức tín dụng, do đó, nó không chỉ
giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính
chất tính dụng khác của ngân hàng thương mại: hoạt động bảo lãnh, chiết
khấu và cho thuê tài chính.
- Rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu:
Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá
ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
Tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã
được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
Chiết khấu có thể xảy ra rủi ro trong các trường hợp sau:
+) Thương phiếu giả mạo:
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thương phiếu là một loại giấy xác nhận nợ được lập trên cơ sở thương
mại vì vậy khi thực hiện tín dụng tái chiết khấu Ngân hàng được đảm bảo
bằng một lượng hàng hoá ở người mua. Thương phiếu bị giả mạo nghĩa là
không có lượng hàng hoá tương ứng đảm bảo kèm theo nên Ngân hàng cho
vay trên cơ sở thương phiếu này sẽ phải chịu rủi ro.
+) Người nhận trả không có khả năng trả nợ:
Trên thực tế có những doanh nghiệp đang có nguy cơ bị phá sản hoặc
không còn khả năng huy động vốn nào khác, muốn dùng số tiền chiết khấu
thương phiếu để thanh toán công nợ, vì vậy nếu Ngân hàng không nghiên cứu
kỹ đến khách hàng mà thực hiện tín dụng chiết khấu sẽ xảy ra rủi ro không
thu hồi được khoản nợ này. Để hạn chế rủi ro trong tín dụng tái chiết khấu,
Ngân hàng phải xem xét kỳ phiếu, hối phiếu của người trả trước đây có được
thanh toán sòng phẳng hay không.
- Rủi ro đối với tín dụng thuê mua:
Nói chung đây là một hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì

trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng thuê mua, tài sản cho thuê
vẫn thuộc quyền sở hữu của người cho thuê. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng sẽ xảy
ra khi bên thuê không trả tiền thuê theo đúng thoả thuận hợp đồng, vi phạm
một trong các điều khoản hợp đồng hoặc bên thuê bị mất khả năng thanh toán,
phá sản, thanh lý, giải thể.
1.2.2. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Một số dấu hiệu thường thấy từ phía khách hàng có thể dẫn tới rủi ro tín
dụng cần được kiểm tra:
● Từ báo cáo tài chính :
- Ngân hàng không nhận được cáo báo cáo tài chính từ người vay một cách
kịp thời
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Tiền mặt của khách hàng giảm
- Khả năng thanh khoản/vốn lưu động giảm
- Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định
- Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ hoặc cổ
đông của công ty
- Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng
- Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng
- Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm
- Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh
● Từ hoạt động kinh doanh
- Thay đổi về phạm vi kinh doanh
- Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc
nguồn cung cấp
- Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà cung ứng
chính
- Sự thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mà có thể
làm mất năng lực sản xuất hiện hành

● Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng
- Số dư tài khoản tại ngân hàng giảm
- Xuất hiện khoản nợ quá hạn
- Đặt niềm tin nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn
- Xin gia hạn nhiều lần hoặc đảo nợ nhiều lần
- Xuất hiện các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ (như theo đề nghị vay vốn)
nhưng không dễ dàng nhận thấy chúng.
- Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc về
vốn lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi
● Những dấu hiệu liên quan đến quản trị công ty
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi
- Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện một sự
chắp vá
- Mong muốn hoặc khăng khăng đòi “đánh bạc” với kinh doanh có những rủi
ro quá mức
- Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế
- Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt
- Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các
điều kiện kinh tế
Tuy nhiên, khi khách hàng có một trong những dấu hiệu trên thì không
đáng kể. Nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra đồng thời thì cán bộ cần xem xét,
đánh giá kỹ để có thê hạn chế và giảm thiểu tác động của rủi ro tín dụng gây
nên.
1.2.3. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hoạt động của ngân hàng
1.2.3.1. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hoạt động của ngân hàng
Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài
sản nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là đã ảnh
hưởng lớn đến ngân hàng. Dưới đây là một số tác động xấu mà ngân hàng có

thể gặp phải khi rủi ro tín dụng xảy ra:
Thứ nhất, rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi có một
khoản nợ bị coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút ngay; một
phần vì không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong khi vẫn phải trả
lãi cho nguồn huy động, một phần do các chi phí quản lý, giám sát phát sinh.
Mặt khác, nếu các khoản nợ quá hạn chuyển thành khó thu hoặc không thu
được, thì việc xử lý tài sản đảm bảo luôn gặp rất nhiều khó khăn về pháp lý và
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
định giá nên trường hợp ngân hàng có thể thu hồi được nợ khi phát mại tài
sản là rất khó xảy ra.
Thứ hai, rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Tỷ
lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao không những làm giảm thu nhập của ngân
hàng mà còn làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh toán
của ngân hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ phải đi vay trên thị trường liên ngân
hàng với lãi suất cao, bởi huy động từ tiền gửi dân cư thường mất rất nhiều
thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài với việc hàng loạt người gửi tiền rút
tiền, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
Thứ ba, rủi ro tín dụng giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân
hàng. Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều nguồn
khác nhau, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm đi nghiêm
trọng. Hơn nữa tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá không tốt về tình hình hoạt động của ngân hàng. Điều này
sẽ ảnh hưởng lớn đến tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc huy động
vốn trở nên khó khăn hơn và gặp nhiều trở ngại trong việc cạnh tranh với các
ngân hàng khác.
1.2.3.2. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới nền kinh tế
Hoạt động của Ngân hàng thương mại mang tính xã hội hoá cao vì nó
liên quan đến nhiều ngành nghề và nhiều thành phần khác nhau trong nền
kinh tế. Do vậy, khi một ngân hàng bị phá sản, nó sẽ gây ảnh hưởng đến các

bộ phận còn lại trong xã hội. Trước tiên là các ngân hàng khác, bởi có quan
hệ mật thiết với nhau trong hoạt động nên một ngân hàng sụp đổ rất có thể
dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng còn lại. Ngoài ra, việc sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn; người gửi tiền không
lấy lại tiền. Những hậu quả này còn làm giảm lòng tin của công chúng vào sự
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực của các
chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
1.3. Một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng
1.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Chỉ tiêu1 : Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn
thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Tỷ lệ nợ qúa hạn =
Nợ quá hạn
*100%
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ này gián tiếp cho thấy quy mô của các khoản vay có vấn đề của
ngân hàng. Nếu tỷ lệ này lớn, chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là
kém, ngân hàng phải xem xét lại khả năng đánh giá lại các khoản cho vay của
mình, đánh giá lại quy trình thủ tục cho vay, đặc biệt xem xét khả năng thực
hiện nhiệm vụ của cán bộ tín dụng.
Theo quy định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng có tỷ
lệ dư nợ quá hạn trên 7% thì là các ngân hàng yếu kém. Ngân hàng có tỷ lệ dư
nợ quá hạn nhỏ hơn 5% là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng
cho vay cao.
Tuy nhiên, ta cũng phải nhận thức rõ ràng hai vấn đề dường như trái
ngược nhau là: Thứ nhất, chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể thấp, có thể giảm đi
qua các năm nhưng là do dư nợ của ngân hàng tăng nhanh chóng (nợ quá hạn

của ngân hàng có thể vẫn tăng đều đặn). Nếu ngân hàng quá tin tưởng vào chỉ
tiêu này cho rằng rủi ro tín dụng đối với ngân hàng là không đáng kể khi chỉ
tiêu này thấp thì rất nguy hiểm. Bởi vì rất có thể việc mở rộng quy mô cho
vay của ngân hàng không gắn liền với việc nâng cao chất lượng sẽ làm cho rủi
ro của khoản cho vay mới đó trong tương lai mới bộc lộ. Thứ hai, nợ quá hạn
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chưa hẳn đã là tổn thất của ngân hàng, đây vẫn là chỉ tiêu gián tiếp. Bởi vì
không phải tất cả các khoản nợ quá hạn đều dẫn đến rủi ro.
Chỉ tiêu 2 :
Khả năng mất vốn =
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
*100%
Dư nợ quá hạn
Đây là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh rủi ro, ảnh hưởng đến thu nhập của
ngân hàng. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng tổn
thất tức là không có khả năng thu hồi. Nói cách khác, chỉ tiêu này phản ánh
mức độ có thể gây ra rủi ro trong số nợ quá hạn của ngân hàng.
Chỉ tiêu 3 : Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ.
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Nợ khó đòi
*100%
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu 4 : Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng theo quyết định 493 của
Ngân hàng nhà nước
Quyết Định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 ban
hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Quyết Định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm:
+) Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu

hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn;
+) Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ;
+) Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn;
+) Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất
cao;
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+) Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không còn
khả năng thu hồi, mất vốn.
Tỷ Lệ Trích Lập và Công Thức Tính Dự Phòng Cụ Thể
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ 1, 2, 3, 4, và 5 lần
lượt là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%. Quyết Định 493 đưa ra cách tính số tiền
dự phòng bằng công thức hoàn toàn mới khác với cách tính dự phòng quy
định tại các quy định trước đây. Theo các quy định trước đây, số tiền dự
phòng chỉ đơn giản bằng tỷ lệ trích dự phòng nhân với tài sản có từng nhóm.
Trong khi đó, Quyết Định 493 đưa ra công thức tính số tiền dự phòng
như sau:
R = max {0, (A-C)} x r
trong đó, R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị khoản nợ
C: giá trị tài sản bảo đảm (nhân với tỷ lệ phần trăm do Quyết Định 493 quy
định đối với từng loại tài sản bảo đảm)
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Chỉ tiêu 5 : Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng:
Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng =
Giá trị dự phòng tổn thất trong kỳ
*100%
Doanh số cho vay trong kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng cho vay trong kỳ thì ngân hàng bỏ ra
bao nhiêu đồng dự phòng tổn thất.
1.3.2. Một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng
● Mô hình chất lượng: dựa trên yếu tố 6 C
- Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin
vay của khách hàng, mục đích vay của khách hàng có phù hợp với chính sách
tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không, đồng thời xem xét về lịch sử đi
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập
thông tin từ nhiều nguồn khác như Trung tâm phòng ngừa rủi ro…
- Năng lực của người vay (Capacity): Tuỳ thuộc vào qui định luật pháp của
quốc gia. Đối với cá nhân, dưới 18 tuổi không đủ tư cách ký hợp đồng tín
dụng; đối với doanh nghiệp, phải căn cứ vào giấy phép kinh doanh, quyết
định thành lập, quyết định bổ nhiệm người điều hành.
- Thu nhập của người vay (Cash): Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ
của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ
bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán … Sau đó cần phân
tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn thông qua các tỷ số tài
chính sau:
+) Nhóm chỉ tiêu thanh khoản (Liquidity ratios):
Hệ số lưu động = Tài sản nợ lưu động / nợ ngắn hạn .
Hệ số này phải lớn hơn 1, nếu không doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong
việc thanh toán nợ đúng hạn.
Hệ số thanh khoản nhanh =
Tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Các doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho chậm đòi hỏi hệ số này phải
cao, còn doanh nghiệp có hệ số vòng quay hàng tồn kho nhanh thì chỉ tiêu này
có thể nhỏ hơn 1.

Hệ số ngân quỹ = ngân quỹ / nợ ngắn hạn
+) Nhóm chỉ tiêu đòn cân nợ (Leverage ratios):
Hệ số nợ =
Tổng tài sản - Vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hệ số này có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 0,5 là lý tưởng vì có ít nhất phân nửa
tài sản của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn chủ sở hữu.
Hệ số khả năng trả lãi = lợi tức trước thuế và lãi / chi phí trả lãi. Hệ số này đo
lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi cho các chủ nợ.
+) Nhóm chỉ tiêu hoạt động (Activity ratios):
Hệ số vòng quay hàng tồn kho = giá vốn hàng bán / hàng tồn kho
Hệ số vòng quay các khoản phải thu = doanh thu / các khoản phải thu
Hệ số vòng quay tài sản = doanh thu thuần / tổng tài sản
+) Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios):
Hệ số mức sinh lời trên doanh thu = tổng lợi tức sau thuế / doanh thu thuần
Hệ số thu nhập trên tổng tài sản = tổng lợi tức sau thuế / tổng tài sản
Hệ số thu nhập trên vốn thuần = tổng lợi tức sau thuế / vốn chủ sở hữu thuần
Tuỳ theo từng loại hình tín dụng mà ngân hàng quan tâm đến các chỉ số khác
nhau: cho vay ngắn hạn thì lưu ý đến các chỉ số lưu động, chỉ số về nợ; cho
vay dài hạn thì quan tâm đến chỉ số sinh lời, khả năng trả nợ.
- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng
và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.
- Các điều kiện (Conditions): Ngân hàng quy định các điều kiện tuỳ theo
chính sách tín dụng theo từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều
kiện thâu ngân phải qua ngân hàng, nhằm thực thi chính sách tiền tệ của
NHTW quy định theo từng thời kỳ.
- Kiểm soát (Control): Tập trung vào những vấn đề như các thay đổi trong
pháp luật và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của

người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng ?
● Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model):
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đây là mô hình do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh
nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro
tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
- trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó,
X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch toán của tổng
nợ
X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số Z
thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ
nợ cao. Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số
thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
● Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng:
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho
điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản,
số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số tài khoản cá
nhân, thời gian công tác. Sau đây là những hạng mục và điểm thường được sử
dụng ở các ngân hàng Mỹ.



Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 1.1 : Điểm tín dụng tiêu dùng
STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm số
1
Nghề nghiệp của người vay- chuyên gia hay phụ trách kinh doanh-
công nhân có kinh nghiệm (tay nghề cao)- nhân viên văn phòng-
sinh viên- công nhân không có kinh nghiệm- công nhân bán thất
nghiệp
1087542
2
Trạng thái nhà ở- nhà riêng- nhà thuê hay căn hộ- sống cùng bạn
hay người thân
642
3 Xếp hạng tín dụng- tốt- trung bình- không có hồ sơ- tồi 10520
4
Kinh nghiệm nghề nghiệp- nhiều hơn một năm- từ một năm trở
xuống
52
5
Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành- nhiều hơn một năm- từ một
năm trở xuống
21
6
Điện thoại cố định- có - không có 20
7
Số người sống cùng (phụ thuộc)- Không- Một- Hai- Ba- Nhiều
hơn ba
33442
8

Các tài khoản tại ngân hàng- cả tài khoản tiết kiệm và phát hành
séc- chỉ tài khoản tiết kiệm- chỉ tài khoản phát hành séc- không có
4320
Nguồn : Theo TCKT 24/01/2007
Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 mục nêu trên là 43 điểm,
thấp nhất là 9 điểm. Gỉa sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa
khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng
hình thành khung chính sách tín dụng theo mô hình điểm như sau:

Bảng 1.2 : Mô hình điểm
Nguyễn Thu Hà –Tài chính doanh nghiệp 46C

×