I. Nguồn gốc, khái niệm pháp luật
1.Nguồn gốc pháp luật
Theo học thuyết Mác-Lê Nin nhà nước và pháp luật là hai
hiện tượng lịch sử có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu
vong, do đó những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước
cũng chính là nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không có nhà nước bởi
thế khong có pháp luật, nhưng xã hội cộng sản nguyên thủ
cần đên squi tắc đẻ điều chỉnh hành vi con người duy trì trật
tự xã hội đó, đã xuất hiện các quy tắc xã hội bao gồm tập
quán, tín điều, tôn giáo.
Tập quán này được mọi người thi hành mọt cách tự nguyện
theo thói quen không cần cưỡng chế của nhà nước.
Khi chế độ tư hữ về tư liệu sản xuất ra đời, xã hội phân chia
thành những giai cấp đối kháng, nhà nước xuất hiện cùng với
nó là pháp luật cũng hình thành để điều chỉnh những vấn đề
mới phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước.
Nhà nước và xã hội là sản phẩm của xã hội có giai cấp. Pháp
luật đầu tiên của xã họi loài người là là pháp luật của nhà
nước chủ nô.
Có thể nhận thấy rằng pháp luật hình thành từ hai con đường
- Nhà nước thừa nhận những quy tắc vốn tồn tại trong xã họi
và cải tạo những quy tắc đó cho phù hợp với lợi ích của nhà
nước (Tập quán pháp, án lệ)
- Thông qua con đường hoạt động xã hội, nhà nước ban
hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã họi
mới nảy sinh trong thực tế mà trước đó không có.
2. Khái niệm PL
Là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung
I
Do NN đặt ra hoặc thừa nhận
Thể hiện ý chí của NN
Được NN bảo đảm thực hiện
Nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
pháp luật là hệ thống các quy tắc hành vi, quy tắc xử sự do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận đựoc nhà nước đảm bảo
thực hiện nhằm điểu chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình
II. Bản chất va thuộc tính của pháp luật
1. Bản chất
Bản chất của luật pháp phản ánh bản chất của Nhà
nước đặt ra nó. Nhà nước kiểu nào thì pháp luật kiểu
đó. Chính vì vậy, luật pháp có tính chất giai cấp. Luật
pháp còn có tính xã hội vì nó chứa đựng những chuẩn
mực chung được số đông trong xã hội ủng hộ. Nếu
không luật pháp sẽ bi chống đối. Luật pháp có tính
dân tộc, nghĩa là phù hợp với truyền thống, tập quán,
giá trị đạo đức của các dân tộc trong đất nước. Bản
chất này cho phép luật pháp gần gũi với dân chúng,
được dân chúng ủng hộ, do đó mà có hiệu quả điều
chỉnh lên các quan hệ xã hội. Luật pháp có tính thời
đại, nghĩa là phù hợp với trình độ phát triển kinh tế
của đất nước, có khả năng hội nhập với luật pháp quốc
tế.
2. thuộc tính của pháp luật
Về mặt nội dung, luật pháp có tính quy phạm phổ
biến. Luật pháp là do Nhà nước đặt ra, nên đối tượng
II
điều chỉnh của nó phổ biến hơn (rộng rãi hơn) các quy
phạm xã hội khác.
Về mặt hình thức, luật pháp có tính chặt chẽ. Để dân
chúng biết được và phải biết ý chí của Nhà nước, thì ý
chí này phải được thể hiện dưới các hình thức chặt
chẽ. Có 3 hình thức luật pháp cơ bản, đó là tập quán
pháp, tiền lệ pháp, và văn bản quy phạm pháp luật.
Luật pháp được đảm bảo bằng Nhà nước. Sau khi đặt
ra luật pháp, Nhà nước đưa luật pháp vào đời sống
thông qua các cơ quan Nhà nước, các thiết chế chính
trị, các cán bộ, nguồn lực tài chính, các phương pháp
quản lý đặc biệt là phương pháp cưỡng chế.
IV. Chức năng, vai trò của PL
1.Chức năng
a- Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội
Là sự tác động trực tiếp của pháp luật tới các quan hệ xã
hoọi và được thực hiện thông qua việc ghi nhạn qui định cho
phép, ngăn cấm, khuyến khích, qui định quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể. Như vậy, chức năng chính của pháp luật là
hướng các qui phạm xã hội vào phạm vi, khuôn mẫu và tạo
ra điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển trong một trật
tự chung.
b- Chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội
III
Pháp luật qui định những phương tiện nhằm bảo vệ các quan
hệ xã hội (Các quy định về xử phạt hành vi vi phạm – chế tài,
hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật), nền tảng của xã hội khi
có các vi phạm pháp luậ. Ngoài ra, pháp luật còn loại trừ
(Cấm) các quan hệ xã hội lạc hậu, không phù hợp với bản
chất chế độ (bói toán, lên đồng….)
c- Chức năng giáo dục
Chức năng này được thực hiện bằng các biện pháp tuyên
truyền, phổ biến, thông qua sự tác động gián tiếp đến ý thức
của tâm lý con người làm cho họ có hành động phù hợp với
cách xử sự ghi trong qui phạm pháp luật.
2. Vai trò
Là phương tiện chủ yếu để NN quản lý mọi mặt của đời sống
XH
Là phương tiện để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân
Là cơ sở hoàn thiện bộ máy NN và tăng cường quyền lực NN
Góp phần tạo dựng những quan hệ mới
Là cơ sở tạo lập mối quan hệ đối ngoại
I. Thực hiện pháp luật
1.Khái niệm
ý thức pháp luật là tổng thể các học thuyết, tư tưởng, tình
cảm của con người thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính
công bằng hoặc không công bằng, đúng đắn hoặc không
đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ
và pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hoặc không hợp
pháp trong cách xử sự của con người, trong hoạt động của
các cơ quan , tổ chức.
2. Đặc điểm:
- Với tính cách là 1 hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật
chịu sự quy định của tồn tại xã hội nhưng có tính độc lập
IV
tương đối. Thể hiện:
+ Nó thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Thực tế đã chứng
minh: tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức nói chung trong
đó có ý thức pháp luật do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng
trong 1 thời gian dài. Những tàn dư của quá khứ được giữ
lại đặc biệt ngoan cố trong lĩnh vực tâm lý pháp luật, nơi
mà các thói quen truyền thống đóng vai trò to lớn. Ví dụ:
những biểu hiện tâm lý của pháp luật phong kiến như sự
thờ ơ, phủ nhận đối với pháp luật vẫn phổ biến trong xã hội
ta.
+ Trong những điều kiện nhất định, nhiều tư tưởng pháp
luật, đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học có thể vượt lên
trên sự phát triển tồn tại xã hội. Nếu là tư tưởng pháp luật
của giai cấp cầm quyền thì nó sẽ có cơ hội thuận lợi thể
hiện thành pháp luật và tạo ra những tiến bộ trong đời sống
xã hội.
+ ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của 1 thời đại
nào đó, song nó cũng kế thừa những yếu tố nhất định thuộc
ý thức pháp luật của thời đại trước. Tất nhiên những yếu tố
được kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ.
+ ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, với
ý thức chính trị, đạo đức, với các yếu tố thuộc kiến trúc
thượng tầng pháp lý như nhà nước và pháp luật.
Tùy thuộc vào ý thức pháp luật tiến bộ hoặc lạc hậu mà sự
tác động của nó có thể là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của các hiện tượng trên.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo
dục pháp luật là phải biết phát huy mặt tích cực trong
những biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý thức pháp
luật và hạn chế tới mức thấp nhất những mặt tiêu cực của
biểu hiện đó.
V