Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Ôn tập một số Tác phẩm văn học 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.46 KB, 129 trang )

Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
ÔN TẬP MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC 12
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
Chặng đường sáng tác
Mỗi tác phẩm đều là một sự thể nghiệm của nhà văn. Tất cả những tư tưởng, tình
cảm và con người đều in dấu vào trang sách, hắt sáng lên những trang đời mới mẻ.
Với gần hai trăm năm mươi trang sách, thật sự là những trang đời đầy nặng, bút ký
Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa ra mắt bạn đọc là một đóng
góp mới, một bước tiến mới của anh trên con đường sáng tạo văn học.
Với quan niệm rằng, trước khi biến thành mực chảy qua ngòi bút, những gì nhà văn
viết ra đã chảy qua tim như một dòng máu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xông xáo đi vào
những nơi mũi nhọn của cuộc sống và những nơi anh qua đều có để lại trang viết. Với "nỗi
khát vọng sâu xa muốn hiểu biết một cách khoa học về toàn bộ những gì mà những bài học
vở lòng về lịch sử và địa lý của Tổ quốc đã gợi lên từ tuổi ấu thơ, về cuộc sống và những
miền xa xôi của đất nước",Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa người đọc xuôi theo dòng sông
thơm ngát hương hoa, bằng chiếc thuyền tâm hồn mình, có mái chèo là ngòi bút lặng lẽ,
miệt mài. Mỗi trang viết là kết quả của sự soi bóng tâm hồn người viết vào dòng sông ấy,
chiếu sáng vào trang sách, dòng sông như lung linh hư ảo, biến thành nhiều dòng chảy -
những dòng chữ buông dầm xuôi mái,đưa người đọc dọc theo chiều dài của đất nước, đến
những miền xa xôi, lùi xa vào lịch sử đang còn khuất nẻo, vươn dài tới tương lai, đánh thức
bóng dáng của quá khứ, mở ra những dự báo ở ngày mai. Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta
mới biết những bước thăng trầm của dòng sông Hương, vị trí lịch sử lâu đời của thành Hóa
Châu thời Lê (Ai đã đặt tên cho dòng sông), về chủ nghĩa nhân đạo trong chiều sâu văn hóa
của vườn cây Huế (Hoa trái quanh tôi), về cuộc chiến đấu anh hùng và bản lĩnh của những
người dân biển, những người lính Cồn Cỏ (Cồn Cỏ ngày thường). Người viết đưa chúng ta
về Điện Bàn, soi vào mảnh đất gò như chiếc thuyền con neo giữa dòng sông Thu Bồn, lần
theo hành trang cuộc đời những nhân vật lịch sử như Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ, Trần Cao
Vân (Đứa con của phù sa), hoặc lên tận biên giới phía Bắc xem tận mắt cuộc chiến đấu của
quân và dân ta, xem tận mặt lòng dạ thâm độc của kẻ thù (Rừng hồi, Ai về châu xưa).
Nguyễn Tuân đã từng tấm tắc khen người tâm đắc với thể loại ký với mình rằng: "Đánh


giặc thì lúc lâm trận, có gì đánh bằng cái ấy. Người yêu nước Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
lấy luôn gốc hồi sở tại ải Bắc làm võ khí mà bồi luôn cho bành bá Tầu một đòn trí mạng"
(3). Vì rừng hồi của ta nhiều tinh dầu hơn của chúng, nên để độc quyền trên thị trường quốc
tế, chúng đã bỏ tiền của ra gạ gẫm mua vỏ cây hồi để diệt cả rừng hồi của ta. Tội ác và sự
thâm hiểm kiểu Tầu nầy cùng bản chất với đế quốc Mỹ, khi chúng rải chất độc hóa học
thiêu hủy cả rừng tùng, tiêu diệt cả chim thú trên cánh rừng A Sao ngày nào (Đời rừng).
Theo dõi chặng đường sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc dễ dàng
nhận ra những dấu ấn mang chiều sâu bản chất sáng tạo của nhà văn. Đó là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố trữ tình về chính luận. Thông qua cảm hứng trữ tình, ngợi ca
mà đặt ra những vấn đề mới mẻ. Trong cùng một bài ký, anh vừa thể hiện sự nhân hậu bao
đời của dòng sông, của mảnh vườn có hàng cây ngã bóng bên đường, râm mát như tấm lòng
của những con người đã uống nước dòng sông ấy, ăn trái cây khu vườn ấy, lại vừa đề xuất,
kêu gọi hãy yêu mến dòng sông, bảo vệ mảnh vườn, chống lại mọi sự lãng quên của con
1
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
người đối với thiên nhiên.
Mỗi người viết có một cái "tạng" riêng, một vũ trụ riêng gắn liền với lối tư duy nghệ
thuật không hề lẫn với người khác được. Hạn chế của Hoàng Phủ Ngọc Tường là không có
cái nhìn nhọn hoắt đối với đời sống, chưa đi vào trung tâm bão của cuộc sống và đặt ra
những vấn đề xã hội một cách gay gắt. Quan niệm thông thường về ký là phải phản ánh
những vấn đề nóng hổi một cách xung kích, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đi vào xu
hướng sử thi hóa cảm xúc lịch sử, khám phá những vấn đề chiều sâu văn hóa của những
vùng đất, anh hướng vào cái hiện thực từ lâu lắng lại, đã được khẳng định từ lương tâm mà
soi rọi dưới ánh sáng mới. Lần theo quá khứ, nhà văn không dừng ở tính chất hoài cổ mà
bao giờ cũng nồng ấm hiện tại, dùng lịch sử để lý giải những vấn đề của hôm nay.
Nếu với Rất nhiều ánh lửa, Hoàng Phủ Ngọc Tường xoay đầu gánh nặng về phía đất
mũi Cà Mau thì đến Ai đã đặt tên cho dòng sông đầu nặng xoay về hướng Bắc, nơi tuyến
biên giới đang nóng bỏng của Tổ quốc. Cái trục để xoay, trung tâm vẫn là miền trung, nơi
người viết sinh ra và lớn lên, gắn bó suốt đời.

Đặc điểm xuyên suốt quá trình sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là cảm hứng về
Bình Trị Thiên, về Huế. Huế trong sáng tác của anh không phải là Huế cổ kính rêu phong
của triều Nguyễn mà là Huế của nhân dân, là văn hóa của dân tộc, của lịch sử đi qua còn in
bóng bên dòng sông thơ mộng và trong chiều sâu tâm hồn con người. Anh cố tìm trong cái
bằng lặng, rêu phong ấy, những gì sôi sục, thanh sạch, đẹp đẽ có ích cho hôm nay. Viết về
vùng đất nào anh cũng liên tưởng đến Huế, nhắc đến Huế. Người viết lúc nào cũng ở trong
tâm thể hướng về quê hương, ngay khi đang ở những miền xa xôi nhất của Tổ quốc. Viết về
đâu anh cũng soi xét dưới con mắt của người đô thị và cố gắng sử dụng từ địa phương tiếng
Huế một cách tự nhiên, nhuần nhụy và có khi biến thành tiếng chuẩn phổ thông trong một
ngữ cảnh nào đó. Huế trong sáng tác của anh còn là cái thầm lặng, thâm trầm, những tình
cảm hướng nội cô độc và sâu lắng, đậm đà tinh thần Á đông. Đọc trang viết chúng ta hình
dung ra vóc dáng gầy gầy của anh, dường như lúc nào cũng lặng lẽ một mình dưới ánh đèn
khuya, trước bàn viết. Cũng vì cái trầm lặng, hiền hiền ấy mà văn anh ít có cái gân guốc cần
thiết.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng một khối lượng kiến thức rất lớn, về lịch sử,
địa lý, sinh vật, âm nhạc và cả hội họa, vào trong sáng tác của anh. Nhờ sức liên tưởng kỳ
diệu mà Hoàng Phủ Ngọc Tường có những trang miêu tả về thiên nhiên đẹp. Thiên nhiên
trong sáng tác của anh, không chỉ được miêu tả mà còn phân tích, nhân hóa trở thành nhân
vật có cuộc đời riêng như con người. Nếu nhà văn chỉ dừng lại ở việc miêu tả thiên nhiên
thì đôi khi một bức tranh tĩnh vật nói được nhiều điều hơn, trong bức tranh thiên nhiên vẫn
nổi lên những vấn đề của xã hội, của con người. Dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
không phải là dòng sông tĩnh lặng, nó đã được thuần hóa, trở nên gần gũi và in bóng con
người. Những con người bình thường như bà Lan Hữu trở thành nhân vật độc đáo khi được
nhà văn đặt trong quan hệ với thiên nhiên, với mảnh vườn.
Có thể nói, ký là một thể loại văn học khó. Người viết ký đối điện với sự thật, với
người đọc, như một người lính xuất kích, phơi trần lưng không nơi ẩn nấp. Tầm vóc, suy
nghĩ, tài năng, nhân cách người viết có thế nào bộc lộ ra thế ấy không giấu diếm, không nhờ
vả, vay mượn được của ai. Người viết ký phải tạo dựng một bức tranh khách quan, ở đó
không chỉ có sự kiện, vì sự kiện mới chỉ một phần, tất cả còn ở những bình giá, suy nghĩ,
nhận xét các sự kiện ấy (4). Chính vì thế mà ngoài những trang viết làm say lòng người đọc,

Hoàng Phủ Ngọc Tường có lúc vẫn còn sa vào sự kiện, gây cho người đọc cảm giác nặng
nề, như Đánh giặc trên hàng rào điện tử, Vành nôi trong lửa
2
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
Nhưng dù sao một nhà văn cũng không thể làm hết mọi điều của văn học, của đời
sống đặt ra. Điều cần được ghi nhận là với Ai đã đặt tên cho dòng sông Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã khẳng định một bước tiến khá dài trên chặng đường sáng tác, khẳng định dấu ấn
riêng của mình không lẫn vào đâu được. Có người cho rằng ký của anh giống với ký của cụ
Nguyễn Tuân. Thật ra chiều sâu bản chất sáng tạo đã định hình của Nguyễn Tuân là một
phong cách độc đáo, một vị trí khó có người thay thế. Sự tiếp nối của Hoàng Phủ Ngọc
Tường có chăng là ở sự tâm đắc về thể tài, sự đồng cảm về nhận thức thẩm mỹ, nhưng khác
nhau hoàn toàn về thủ pháp nghệ thuật.
Với thái độ tích cực của nhà văn, sự năng động và sung sức của ngòi bút, tin rằng
Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đóng góp nhiều hơn nữa vào nền văn học cách mạng của
chúng ta.
* Nhận xét về kí của HPNT:
Đánh giá chung về sự nghiệp văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sách Ngữ văn 12 có
đoạn viết:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác
của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với
suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học§, văn hóa, lịch sử§, địa
lí§ Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
Trích thêm ý kiến của người trong giới:
• Nhà văn Nguyễn Tuân§:
Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có "rất nhiều ánh lửa".
• Nhà văn Nguyên Ngọc§:
Trong một cuốn sách gần đây của anh, viết và in ngay giữa những ngày anh đang vật lộn với cơn
bệnh nặng-chứng tỏ ở anh một đức tính dũng cảm và một nghị lực phi thường của một người lao
động nghệ thuật-anh tự coi mình là "người ham chơi". Quả thật, anh là một người ham sống đến

mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước, với nhân dân, với con người, đi say mê và say
mê viết về họ
• Nhà thơ Hoàng Cát§:
Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút ký văn học của riêng mình. Thế mạnh của
ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời
điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được
• Nhà thơ Ngô Minh:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước ta vài chục
năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí
tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài
tình Thực ra, bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người
đọc thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ
sâu thẳm thời gian, sâu thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc. Nhà thơ Nguyễn Trọng
Tạo§ cho rằng thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường thấm đẫm "triết học về cái chết thơ anh buồn mỗi
nỗi buồn đứt ruột Đấy là thơ của cõi âm" Đó là một nhận xét xác đáng.
• Trên Website vnexpress:
Dường như trong suốt cuộc đời mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường bị ám ảnh bởi hoa. Điều đó, dù
cuộc đời lận đận những ngày tù cộng với những năm tháng bôn ba khắc nghiệt của chiến tranh
3
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
vẫn không tước đoạt nổi của ông Ông viết rất nhiều về hoa và đặc biệt, ông bị ám ảnh bởi sắc
diện phù dung.
Đề : Cái tôi của HPNT trong bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
1. Một cái tôi dạt dào cảm xúc:
1.1. Tư thế và tâm thế:
+ Tư thế: Một người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh,vừa
bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng,một tư
thế tự do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dòng chảy của lịch sử dân tộc để
khẳng định sức sống, sức mạnh của nó.

+ Tâm thế: Một người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn khi chọn cho mình
một điểm nhìn thật đặc biệt về con sông.Chất lãng mạn, nghệ sĩ thể hiện ở sự lựa chọn thời
gian mùa thu và không gian khu vườn cổ sầm uất, một khu vườn mùa nào cũng có hoa
nở.và trái chín mà vẫn thể hiện một “thần thái yên tĩnh và khoáng đạt giống như một sự tự
do nội tâm”- một không gian vừa cổ kính, vừa thắm tươi, vừa phóng khoáng. Trong không
gian ấy, tâm thế của nhà văn trở nên thư thái, có sự tự do nội tâm để cảm nhận một cách
tinh tế và có chiều sâu về đối tượng. Sự thư thái biểu hiện trong những hoạt động cụ thể:
vừa ăn trái hồng ngọt và thanh để cảm nhận hương vị thực, vừa đọc Kiều để đắm mình
trong thế giới tưởng tượng của thơ ca. Đi giữa cõi thực và cõi thơ, sống trong sự giao thoa
của những rung động với khung cảnh thiên nhiên và những rung động trước một mối tình
say đắm trong những trang Kiều để từ đó nhà văn có một phát hiện độc đáo về mối liên hệ
giữa những câu Kiều với âm hưởng sâu thẳm của Huế: “dòng sông đáy nước in trời và
những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của
hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết…” và quan trọng nhất là
nhận ra rằng sông Hương và thành phố của nó như một vang bóng trong thời gian hình
tượng cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê,
thi ca và âm nhạc”. Có thể thấy đó là một tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ
những rung động của tình yêu- một thứ tình yêu rất sâu và rất đắm say của nhà văn với con
sông xứ Huế.
1.2. Cảm hứng và cảm xúc:
+Cảm hứng: niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút,
quyến rũ riêng của con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và
văn hoá. Cả bài tuỳ bút dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành
cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn là
độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện lên trong cuộc tim kiếm của
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý mà là một sinh thể, một con người
“sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm
nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó.
+ Cảm xúc: vô cùng phong phú. Có khi nó đựơc bộc lộ trực tiếp với các trạng thái

nội tâm: vừa thích thú, vừa lơ đãng , miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc
không ngừng, nhớ da diết điệu chảy lặng lờ của con sông khi ngang qua thành phố, cái điệu
chảy như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế trong trăm nghìn ánh hoa đăng; thất
vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu bởi hiểu sâu sắc rằng nền âm
nhạc Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương, là linh hồn của con sông nên chỉ là
4
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
chính nó vang lên trong đêm giữa tiếng rơi bán âm của nước từ những mái chèo khuya. Có
khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại đượcbộc lộ gián tiếp trong cuộc hành trình
lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện: Cái “tôi” tác giả khi thì chứng kiến một
nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang
Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, khi bất ngờ và
ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở “nỗi vương vấn và chút
lẳng lơ kín đáo của tình yêu”; có khi lại cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên Hiệp
quốc về Huế bằng sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn để “thấy hiện bóng khuôn mặt quyến
rũ và tươi trẻ của dòng sông thành phố giữa lòng thế giới hiện đại ”; đồng thời cũng hoài
niệm đến khắc khoải khi phát hiện ra một sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày
xưa, rất xưa “màu áo lục điều với loại vải…ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện” để
từ cái sắc màu văn hoá ấy mà liên tưởng một cách rất ngẫu hứng mà có lí tới “màu của
sương khói trên sông Hương giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu
khuôn mặt thực của dòng sông”
Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi
nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc trong bản đàn lòng để
tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương.
2. Một cái tôi nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện
2.1. Kiến thức và ý thức
+ Kiến thức: phong phú và có chiều sâu. Có thể nói trong bài bút ký pha tuỳ bút này,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông Hương
từ địa lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo cổ, cái hiện sinh và

những gì thuộc về xa xưa…Đọc bài viết có thể thấy công phu nghiên cứu, tìm hiểu của nhà
văn thật đáng nể: vừa quan sát để thấy được từng nét diện mạo của con sông trong từng
khoảng không gian cụ thể, vừa nghiên cứu để thấy mối liên hệ giữa đặc điểm địa lý với đặc
điểm dòng chảy của con sông, vừa tìm hiểu con sông trong từng thời kỳ lịch sử, vừa thâm
nhập thực tế để nhận biết một cách cụ thể những nếp sinh hoạt, những cách thức lao động,
những hương vị riêng của cỏ cây, hoa trái, đất đai, vừa đọc tư liệu, sách vở để hình dung ra
quá khứ một thời vang bóng trong những dấu tích còn lại của thành quách, đình đền. Trong
khối lượng kiến thức được huy động, đáng kể nhất là kiến thức địa lý, lịch sử và văn hoá.
Các mặt kiến thức này không tách rời nhau, không độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ
nhau tạo thành một điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ
Huế.
+ ý thức: Cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất
nghiêm túc để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi “Ai dó đặt tên cho dũng sụng”. Đây là câu
hỏi ngỡ như bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một câu hỏi
đầy ngụ ý của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập mối quan hệ
giữa dòng sông với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn, cách nghĩ và
những cảm nhận của con người về nó. ý thức về điều này nên trong khi tìm hiểu về sông
nhà văn cũng rất công phu tìm hiểu về cuộc sống và con người bên dòng sông ấy. Nghĩa là
con sông đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với con người. Trong mối liên hệ
ấy, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và không gian, văn hoá và lịch sử,
sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới tinh thần…Và trong quá trình tìm
hiểu “Ai dó đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ mình không chỉ là
5
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
một cái tôi giàu hiểu biết, ham tìm hiểu mà còn là một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng
sâu sắc trong những khám phá, tìm hiểu những chiều sâu văn hoá tinh thần, tâm hồn của
sông Hương cũng là của con người xứ Huế.
2.1. Con đường và đích đến;
+ Con đường: Đọc bài tuỳ bút dễ thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường rất tinh tế khi lắng

nghe và chiêm nghiệm những cảm xúc, cảm giác phong phú và những ý nghĩ sâu xa. Vì thế
cái dễ nhận thấy từ những trang văn là chất trữ tình đậm đà đằm thắm. Song nếu chỉ đào sâu
vào những cảm xúc, cảm giác của mình hoặc lục tìm trong sách vở thì thế giới của một cái
tôi dẫu phong phú rộng mở đến mâý cũng chỉ là giới hạn. Thành công của Hoàng Phủ Ngọc
Tường trong tuỳ bút này không chỉ do nhà văn biết lắng nghe và xúc động, biết nghiên cứu,
tìm hiểu và suy ngẫm mà còn bởi người nghệ sỹ ấy có thực tế từ những chuyến đi. Đọc bài
tuỳ bút cũng rất dễ để thấy rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường rất hay đi: “Xuân hạ thu đông tôi
vẫn thường lên thăm vườn An Hiên của bà Tùng ở Kim Long ” để từ đó “từ mái rêu phong
của chiếc cổng vòm quay ra mặt sông” mà cảm nhận cái âm hưởng sâu thẳm của Huế trêm
mỗi trang Kiều. Song nhà văn lại cũng ý thức sâu sắc rằng “Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn
khuôn mặt kinh thành của nó, người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông
Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn
sâu thẳm của nó”. Vì thế nhà văn đã thực hiện một cuộc hành trình theo suốt chiều dài của
con sông từ nơi khởi nguồn giữa lòng Trường Sơn với rừng già, ghềnh thác, vực xoáy để rồi
chuyển dòng liên tục mà hoà mình với cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại và bắt đầu hành
trình tìm kiếm thành phố tương lai của nó. Và bởi cũng đã từng biết đến sông Xen của Pari,
sông Đanuyp của Buđapet, sông Nêva của Nga mà Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể nhận ra
nét riêng của Sông Hương trong nhịp điệu, trong sắc thái văn hoá và trong quan hệ của nó
với thành phố của mình. Trong những chuyến đi dọc sông Hương, chuyến đi về làng Thành
Trung có một vai trò quan trọng đặc biệt bởi nó cho nhà văn không chỉ những thông tin, dấu
vết về một khu thành cổ, một vùng đất chiến lược thuở xa xưa mà còn là một cơ hội để
nhận rõ bản lĩnh Việt sâu sắc, một sức sống Việt thật mãnh liệt, một tâm hồn Việt thật giàu
có phong phú, một khí đất thật hùng hậu và hương đất thật nồng nàn…
+ Đích đến: đi suốt dọc sông Hương để trải nghiệm bao nhiêu cảm xúc, cảm giác để
hiểu thấu bao nhiêu giá trị, nhận ra bao nhiêu vẻ đẹp của địa lí và văn hoá, đời sống và lịch
sử, cuối cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm được câu trả lời cho câu hỏi đầy khắc khoải
vẫn luôn vang vọng trong suốt bài tuỳ bút: “Con người đã đặt tên cho dòng sông như nhà
thơ chọn bút hiệu cho mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái Đẹp và tiếng
Thơm để xây đắp văn hoá và lịch sử”
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương không chỉ bằng cảm nhận và hiểu biết về

dòng sông mà còn bằng cảm nhận và hiểu biết về con người Huế để từ đó mà thấy một cách
sâu sắc và thấm thía rằng, không chỉ đặc điểm địa lý mà quá trình lịch sử cùng với diện mạo
văn hoá do con người tạo nên đã hình thành cho sông Hương một diện mạo, dáng vẻ và cả
một tâm hồn.
3. Một cái tôi tài hoa và vô cùng lãng mạn.
+ Giàu tưởng tượng (quá trình tâm lý xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở kinh
nghiệm của cá nhân và thực tiễn của đời sống): Sở dĩ bài bút ký này của Hoàng Phủ Ngọc
Tường được cho là có nhiều chất tuỳ bút có lẽ một phần vì nhà văn không thuần tuý chỉ ghi
chép một cách chính xác khách quan mà còn biết tạo cho mình rất nhiều cơ hội để tưởng
tượng: Viết về con sông song lại không bắt đầu từ việc quan sát thực tế, từ việc đi thực địa
mà lại bắt đầu từ việc đọc Kiều để cảm nhận văn chương hoà quyện với cảm nhận về con
6
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
sông xứ Huế. Và phút nhận ra cuộc gặp gỡ giữa âm hưởng sâu thẳm của Huế với cảnh sắc
thiên nhiên qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du trên mỗi trang Kiều cũng chính là lúc nhà
văn tưởng tượng về mối quan hệ giữa sông Hương và thành phố của nó là mối quan hệ của
một cặp tình nhân lý tưởng với tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm
nhạc. Cũng trong trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn, sông Hương khi là một dòng nhạc
đa âm sắc (bản trường ca rầm rộ của rừng già, điệu slow của tình cảm, bản đàn lúc đêm
khuya với tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo), khi là một con người giàu nữ tính và
có đủ sức mạnh để trưởng thành dần trong cuộc hành trình (cô gái Digan phóng khoáng và
man dại giữa rừng Trường Sơn, người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu
Hoá đầy hoa dại, người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với sắc đẹp dịu dàng và trí
tuệ giữa chốn kinh thành). Song có một điều quan trọng là, trong cuộc hành trình dù không
ít những gian truân và cũng không hề ngắn ngủi ấy phẩm chất nữ tính của sông Hương
khiến nó luôn tự bộ lộ mình là một người con gái rất mực đa tình: dù với tâm hồn tự do và
trong sáng hay sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ thì hành trình của sông cũng là hành trình tìm
kiếm người tình mong đợi để khi gặp được rồi, sông Hương trở nên mềm hẳn đi “như một
tiếng vâng không nói ra của tình yêu”, rồi cũng như Kiều khi gặp chàng Kim, sông Hương

gặp Huế đã trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya để rồi khi phải lưu luyến ra đi,
sông Hương như chưa nỡ rời xa thành phố mà cố ý đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông –
tây để gặp lại thành phố lần cuối trong “nỗi vương vấn” “chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”
như nàng Kiều trong đêm tình tự đã chí tình trở lại cùng Kim Trọng để nói một lời thề mà
sự vang vọng của lời thề ấy, trong tưởng tượng và sự hình dung của nhà văn chính là giọng
hò dân gian “Còn non- còn nước- còn dài -còn về- còn nhớ…”
Trí tưởng tượng mạnh mẽ và phong phú khi kết hợp với cái kho vốn cảm xúc, cảm giác rất
dồi dào mà cũng vô cùng tinh tế sâu sắc đã tạo nên một chất thơ chan chứa trên mỗi trang
văn và một sức lôi cuốn khó cưỡng lại đối với người thưởng thức.
+ Vốn chữ nghĩa và sức sáng tạo: Thông thường người ta chỉ nói “Thi trung hữu
hoạ” “Thi trung hữu nhạc”. ở đây ta có thể hoàn toàn tự tin mà nói về chất nhạc, chất hoạ,
thậm chí là sự hoà quyện lý tưởng giữa chất nhạc, chất hoạ và chất thơ trong chữ nghĩa của
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hãy nghe nhà văn diễn tả cảm giác của mình “Mùa thu tôi ngồi
đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay mái ra sông ăn trái hồng ngọt và
thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan ra thành dư vang của
một tiếng chim”. Chỉ có ăn một trái hồng thôi mà thấy đủ cả hương vị, thanh sắc của đất
trời, huống hồ là khi đối diện với với một con sông của một miền đất mà mình yêu mến, tự
hào và gắn bó. Dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về con sông thì có bấy nhiêu
kiểu chữ nghĩa được huy động để diễn tả cho thật riêng, thật sắc, thật tinh góc nhìn, điểm
nhìn ấy: Cần đặt con sông trong không gian địa lí thì nó là “một bản trường ca của rừng già
rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn
lốc vào dưới đáy vực bí ẩn, dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của
hoa đổ quyên rừng, dịu dàng và trí tuệ khi trở thành bà mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ
sở, mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá, trầm mặc như triết lí, như cổ thi gữa đám quần sơn
lô xô, đền đài lăng tẩm và rừng thông u tịch , vô tư giữa những biền bãi xanh biếc, yên tâm
kéo một nét thẳng khi nhìn thấy chiếc cầu của thành phố in ngầm trên nền trời…” Cần đặt
con sông trong tổng thể những sắc màu văn hoá thì nó trở thành một “vang bóng trong thời
gian hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều”, lập loè trong đêm sương
những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”, điệu chảy lặng lờ như một điệu
slow tình cảm dành riêng cho Huế có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh

7
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy. Cần đặt sông Hương trong dòng
chảy lịch sử thì sông Hương lại là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa
màu cỏ lá xanh biếc ”, khi “tự biến đời mình thành một chiến công ”, khi lại trở về “làm
một người con gái dịu dàng của đất nước ”.Đây không phải thứ chữ nghĩa mà ta quen gặp
trong văn xuôi thông thường.Lối chữ nghĩa giàu hình ảnh và thấm đượm cảm xúc đó là kiểu
chữ nghĩa thường chỉ thấy nhiều trong thi ca, nó khiến người đọc không chỉ tiếp nhận được
những thông tin cần thiết mà còn có thêm hứng thú và nguồn mĩ cảm dồi dào.
4.Đánh giá:
Với kho vốn cảm xúc, kiến thức, tưởng tượng và trải nghiệm thực tế lại cộng thêm
vốn chữ nghĩa dồi dào mà rất đẹp, rất thơ, rất công phu, trau chuốt thậm chí đôi khi còn hơi
làm dáng điệu đà, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực sự mê hoặc được người đọc để hoàn
toàn chủ động trong việc dẫn dắt người đọc đi theo nhà văn để hào hứng thưởng thức vẻ
đẹp của một dòng sông không phải như con sông địa li vô tri mà như một con người- một
người con gái có nhan sắc, có tâm hồn, có sức sống và cũng đầy sức mạnh để đi hết cuộc
hành trình, sống trọn vẹn đời sống và khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh và lý tưởng của nó.
8
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
Đề : Hình tượng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông
1. Dòng sông xinh đẹp và đa cảm
1.1. Vẻ đẹp đa dạng và đầy quyến rũ
+ Luôn được nhìn nhận và khẳng định trong mối quan hệ với không gian địa lí.
Dường như chính sự phong phú của đặc điểm địa lí ở vùng đất mà sông Hương đi qua đã
góp phần hình thành nên vẻ đẹp của dòng sông. Vì vậy để thấy được vẻ đẹp phong phú của
sông Hương cần xem xét nó trong sự gắn bó với không gian, với địa hình và cảnh thiên
nhiên trong từng khoảng thời gian cụ thể
+ Không gian núi rừng Trường Sơn

- Đặc điểm và cấu trúc địa lí: vô cùng phong phú với bóng cây đại ngàn,
ghềnh thác, vực sâu, dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng…Tất cả tạo nên một
môi trường để thử thách, rèn luyện và hình thành tính cách, tâm hồn cho sông Hương.
- Đặc điểm của sông Hương trong môi trường địa lí ấy: dòng chảy khi rầm
rộ, khi mãnh liệt, khi cuộn xoáy, khi lại dịu dàng và say đắm. Phần hồn riêng của sông được
bộc lộ trong hành trình và qua đặc điểm dòng chảy là phần hồn của một con người đã trải
qua cả một quá trình trưởng thành từ con gái trở thành bà mẹ: vừa mang sức sống mãnh liệt
và hoang dại, vừa có diện mạo dịu dàng trí tuệ, vừa có tâm hồn trong sáng thẳm sâu lại vừa
dạt dào một khát vọng tự do.
+ Không gian châu thổ vùng Châu Hoá
- Đặc điểm địa lí: là sự chuyển tiếp từ vùng đồi núi sang vùng đồng bằng nên
rất đa dạng về địa hình: có vực sâu, có đồi núi trùng điệp, có thềm đất bãi, có vùng lăng tẩm
giữa mây trời và rừng thông.
- Đặc điểm của dòng sông: Như một người con gái đẹp vừa tỉnh giấc mộng
đã bộc lộ tính cách riêng, tâm hồn riêng- chuyển dòng liên tục, uốn khúc quanh co để tự tìm
kiếm và bộc lộ vẻ đẹp riêng của nó. Dòng chảy của sông phẳng lặng, hiền hoà, trầm mặc
“như triết lí, như cổ thi”, sắc nước của sông xanh thẳm khi qua lòng vực, phản chiếu màu
sắc của đồi núi, mây trời khi qua những quả đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, hình thế
của sông thay đổi theo hình thế của địa hình, lúc uốn khúc quanh co, lúc lại mềm như tấm
lụa.
+ Không gian kinh thành Huế:
- Đặc điểm địa lí: Huế trong tổng thể là một đô thị cổ nằm suốt dọc 2 bờ
sông-nhiều biền bãi, nhiều cồn đảo và những nhánh sông đào mang nước sông Hương toả
đi khắp đô thị.
- Đặc điểm của sông: càng trở nên mềm mại, gợi cảm và đa cảm hơn. Dòng
chảy hiền hoà, chậm rãi và yên tĩnh như mặt nước hồ. Diện mạo vô cùng xinh đẹp, lộng lẫy
với trăm nghìn ánh hoa đăng. Tâm hồn đa cảm: vừa vui tươi khi gặp vùng biễn bãi xanh
biếc của vùng ngoại ô Kim Long, vừa hiền hoà trong những đường cong qua vùng không
gian nhiều cồn đảo, vừa ngập ngừng muốn đi muốn ở khi gặp được nét riêng văn hoá Huế,
vừa sâu lắng trong những khúc nhạc đêm khuya, vừa mơ màng lưu luyến khi phải rời xa

thành phố, vừa vương vấn quyến luyến đến độ phải tạo nên 1 khúc quanh để vòng lại thành
phố thân thương .
1.2. Vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình:
+ Nữ tính: Đây là nét riêng của sông Hương trong cái nhìn riêng của Hoàng Phủ
Ngọc Tường (Sông Đà cũng được nhìn như một con người nhưng là con người với những
tính cách hoàn toàn đối lập, vừa hung bạo, vừa trữ tình, lúc như một hung thần, lúc như một
mĩ nữ xinh đẹp và gợi cảm). Sông Hương cũng có một đời sống và tính cách phong phú
9
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
song trong sự phong phú ấy có thể thấy 1 nét thống nhất là chất nữ tính rất đậm: Khi là một
cô gai Digan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng,
khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng, khi là người con gái dịu dàng của đất nước, khi
là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ. Dù ở
bất kỳ trạng thái tồn tại nào, sông Hương trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn
đầy nữ tính. Nữ tính không chỉ ở vẻ ngoài xinh đẹp hiền hoà hay ở tâm hồn trong sáng
mạnh mẽ. Chất nữ tính đậm đà nhất của sông Hương nằm trong chính đời sống tình cảm rất
riêng của nó để trở thành 1 con sông rất mực đa tình.
+ Đa tình: Ngay từ đầu bài tuỳ bút, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có một cảm nhận rất
độc đáo về sông Hương trong mối quan hệ với thành phố của nó-đó là quan hệ của một cặp
tình nhân lý tưởng trong Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và
âm nhạc”. Sông Hương sau đó vẫn được nhà văn khẳng định “là Kiều, rất Kiều”- nghĩa là
không chỉ xinh đẹp, tài hoa mà còn đa tình và say đắm. Từ góc nhìn mang tính phát hiện
này, nhà văn đã hình dung ra cuộc hành trình của sông Hương là cuộc hành trình tìm kiếm
người tình mong đợi- một cuộc hành trình gian truân và cũng không hề ngắn ngủi, một cuộc
hành trình tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Trong cuộc
hành trình ấy, sông Hương có lúc trầm mặc, có lúc dịu dàng, cũng có lúc mãnh liệt mạnh
mẽ…Song nó chỉ thực “vui tươi” khi đến ngoại ô thành phố, chỉ yên tâm khi nhìn thấy
chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời. Gặp được thành phố người tình mong
đợi rồi, con sông trở nên duyên dáng ý nhị trong cái cách “uốn một cánh cung rất nhẹ sang

cồn Hến ”, cái đường cong “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Cũng như Kiều
khi gặp chàng Kim ở hội Đạp Thanh, sông Hương qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi,
muốn ở để ánh hoa đăng chao nhẹ trên mặt nước “như những vấn vương của một nỗi lòng”.
Và cũng như Kiều trong đêm tự tình với Kim Trọng, sông Hương đã rời khỏi kinh thành lại
đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông- tây để gặp lại thành phố 1 lần cuối. Cái khúc
quanh bất ngờ ấy, trong cảm nhận đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành
nỗi vương vấn, thành chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, là hành động chí tình của người con
gái để gặp lại người tình, nói lời thề chưa kịp nói mà âm vang lời thề ấy cho đến giờ vẫn
ngân nga vang vọng trên mặt sông thành những câu hò “Còn non, còn nước, còn dài, còn
về, còn nhớ…”. Cần hiểu đây không thuần túy chỉ là tưởng tượng lãng mạn của một tâm
hồn nghệ sĩ vốn rất say những trang Kiều, đây còn là cách nhìn của một trí thức vốn hiểu
thấu cả dòng sông và con người của xứ sở mình. Khi con sông được hiểu là mang trong nó
linh hồn của con người thì lời thề của dòng sông với thành phố chính là tấm lòng của người
dân châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.
b. Dòng sông đằm thắm, lắng sâu:
b.1. Cốt cách văn hóa rất riêng:
+ Cũng như nàng Kiều không chỉ có nhan sắc mà còn rất mực tài hoa, sông Hương
trong cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya”. Cái nhìn này trước hết có cơ sở từ thực tế: Sông Hương là dòng sông âm nhạc, đây
cũng là nét riêng không thể lẫn của sông Hương với các dòng sông khác của đất nước. Trên
đất nước Việt Nam tuy dòng sông nào cũng gắn với điệu hò, câu hát, song có được sự tồn
tại song song của hai dòng nhạc cung đình và dân gian như sông Hương thì không thể có
hai. Dòng nhạc cung đình rất trang nhã, rất sang trọng và cũng rất đặc sắc. Dòng nhạc dân
gian cũng rất đằm thắm, da diết ân tình. Điểm gặp gỡ của cả nền âm nhạc cổ điển cũng như
những câu hò dân gian là đều đã được sinh thành trên mặt nước sông Hương nên nó chỉ
vang lên hay nhất trong những khoang thuyền, chỉ bộc lộ trọn vẹn sức lay động của nó với
10
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
những ai từng lênh đênh trên sông nước trong những đêm khuya.

+ Dòng sông thi ca: ở điểm này, người con gái đẹp, người con gái đa tình, người tài
nữ đã thực sự trở thành nàng thơ trong những tâm hồn thi sĩ. Sự phong phú của diện mạo và
cốt cách văn hóa đã khiến sông Hương trong thơ ca được khám phá và rung động theo một
cách rất riêng, không bao giờ lặp lại: “Từ xanh biếc … trong thơ Tố Hữu”. Và tuy có vẻ
như Nguyễn Du và Tố Hữu có một chút gặp gỡ trong cảm hứng(Nguyễn Du lênh đênh trên
những con thuyền với phiến trăng sầu nên những bản đàn đã đi suốt đời Kiều, còn Tố Hữu
cũng đã thấy bóng dáng những nàng Kiều trên sóng nước Hương Giang ) song Tố Hữu lại
chủ yếu hướng tới khẳng định sức mạnh phục sinh trong tâm hồn những người con gái ấy
bằng một cái nhìn thắm thiết tình người
+ Ngay cả đến cái tên của dòng sông Hương cũng có một vẻ rất riêng của con gái để
làm bâng khuâng một tâm hồn thi sĩ và gợi nguồn thi cảm trong chính hồn văn của Hoàng
Phủ Ngọc Tường để trong suốt quá trình tìm hiểu về con sông, không ít lần nhà văn bày tỏ
niềm xúc động và những suy nghĩ chủ quan đậm đặc chất nghệ sĩ: không chỉ nhớ thương,
nhà văn còn vô cùng xao xuyến mà liên tưởng mùi đất thơm với mùi da thịt, không chỉ hình
dung sông Hương là người con gái mà còn thấy sông Hương hiện lên thành người con gái
thần tiên.Và khi ấy cái tên của dòng sông lại gắn với một huyền thoại đẹp, để dòng sông trở
thành con sông huyền thoại được yêu quý bởi người của đôi bờ: “Vì yêu quý con sông xinh
đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông để
làn nước thơm tho mãi mãi”
Như vậy, nhìn từ góc độ kết tinh văn hóa, con sông của xứ Huế vốn đã rất đẹp ở diện
mạo, dáng vẻ lại càng đằm thắm và đầy sức mê hoặc ở chiều sâu tâm hồn. Nó khiến mỗi
người khi đến với con sông không thể lấy cái tôi của mình mà áp đặt cảm nhận, chỉ có
thể tìm sự hòa hợp với linh hồn của con sông để cùng sống và cùng rung động trong nỗi
bâng khuâng.
b.2. Sức sống mãnh liệt.
+Bản năng: Dòng sông Hương, ngay từ điểm khởi nguồn giữa lòng Trường Sơn đã
là “một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại” với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và
trong sáng. Và cho dù sức mạnh bản năng của người con gái ấy đã được chế ngự bởi người
mẹ rừng già, thì nó vẫn đủ cho sông Hương đi hết cuộc hành trình của riêng nó- một cuộc
hành trình đầy gian truân qua cả ghềnh thác, vực thẳm, cồn đảo, quần sơn lô xô, đền đài,

lăng tẩm, biền bãi, thành phố, xóm làng…Và không chỉ đi hết cuộc hành trình, bản năng
sống đã khiến cô gái sông Hương sống trọng vẹn cuộc sống của riêng mình: từ cô gái trở
thành bà mẹ, từ say mê tìm kiếm người tình đến hào phóng nuôi dưỡng và đắp bồi một nền
văn hóa.
+ Khả năng: Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mượn chính văn kiện của Liên Hiệp quốc
để nói về khả năng tạo lập, hình thành và hoàn thiện nền văn hóa Huế của sông Hương.
“Dòng sông và những đầm phá của nó, những dòng kênh uốn lượn qua thành phố cũng với
tư thái của những ngôi nhà giữa những khu vườn xanh tươi, tất cả mang lại cho Huế một vẻ
trong sáng và thư thái, giành riêng cho cảm hứng nghệ thuật và tri thức”. Chính sông
Hương đã nuôi dưỡng nguồn cảm hứng nghệ thuật, bồi đắp cho những tâm hồn nghệ sĩ để
Huế có dòng thi ca và âm nhạc của riêng mình. Song cũng chính sông Hương đã bồi đắp
nguồn sức sống cho đôi bờ để bốn mùa hoa trái thắm tươi, bồi dưỡng và rèn luyện bản lĩnh
cho con người của một vùng đất để nhờ có bản lĩnh Việt sâu sắc mà sông Hương và con
người của nó mới không bị thu hút trước sự gặp gỡ với nền văn hóa hải đảo từ Nam Thái
Bình Dương, để trong đánh giá của nhà văn, chính vùng đất hạ lưu sông Hương là cái nôi
11
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
của truyền thống văn hóa Phú Xuân.
c. Dòng sông kiên cường mạnh mẽ.
c.1. Kiên trì và kiên cường
- Sông Hương trong sự khám phá của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ được đặt
trong mối quan hệ với không gian địa lý, với các giá trị văn hóa mà còn được soi ngắm từ
góc độ lịch sử. Có rất nhiều khoảng thời gian được nhắc tới ở đây: thời các vua Hùng, sông
Hương là một dòng sông biên thùy xa xôi, thế kỉ 15 là dòng sông viễn châu đã chiến đấu
oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc, thế kỉ 18 soi bóng kinh thành Phú Xuân
của người anh hùng Nguyễn Huệ, thế kỉ 19 sống hết lịch sử bi tráng của những cuộc khởi
nghĩa, thời đại cách mạng tháng Tám lại đem đến cho con sông những chiến công rung
chuyển, thời chống Mĩ, sông Hương tuy bị tàn phá nặng nề song vẫn kiên trinh với lời thề
sắt đá…Cách nhìn và cách dùng từ ngữ của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở đây đã làm bật sự

vận động của hình tượng sông Hương từ một con sông địa lí thành một con sông lịch sử, từ
một người con gái đẹp và tài hoa trở thành người con gái kiên cường của đất nước. Sông
Hương không chỉ in dấu lịch sử,song hành cùng lịch sử mà còn chứa đựng lịch sử của riêng
nó- một lịch sử hào hùng và dữ dội,bất khuất và đớn đau.
Chỗ tinh tường của nhà văn là đã tìm thấy chất thơ trong sử để chưng cất thành sử thi
như một vẻ đẹp riêng của sông Hương: sông Hương trong lịch sử và trong cảm nhận của
nhà văn đã trở thành “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh
biếc”.Trong dòng chảy thời gian, sông Hương đã đI trọn vẹn cuộc sống và lịch sử của dân
tộc, của đất nước. Chính diện mạo và chiều sâu của lịch sử dân tộc khi in bóng xuống dòng
sông dã mang lại cho sông Hương một tầm vóc kì vĩ, lớn lao, một ý nghĩa thiêng liêng và
một tinh thần bất diệt.
c.2. Anh dũng và bất khuất:
Trong quá trình khảo cứu về lịch sử của sông Hương, cũng là lịch sử của dân tộc,
của đất nước, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất chú ý làm bật cốt cách anh hùng của dòng
sông xứ Huế và của con người ở miền đất Hóa Châu.Mảnh đất Hóa Châu trong cách nhìn
của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành “cái vũ đài quyết liệt” dựng lên để chứng tỏ “bản
lĩnh đánh cận chiến của những dũng sĩ đứng trấn miền cửa khẩu chuyên đánh địch trong
những khoang thuyền”. Với thế đứng sinh tử, với tầm vóc uy nghi, với mũi giáo của những
người dũng sĩ, Hóa Châu đã trở thành một cửa ải Chi Lăng ở phía Nam Tổ quốc, trở thành
nỗi khiếp sợ của bọn xâm lược qua các thời đại: từ tên tướng Hán Mã Viện kéo rê lưỡi
gươm bình định tắm máu khắp Giao Chỉ cho đến tên tướng Minh Trương Phụ, Mộc Thạch
đều phải cúi đầu lui bước, khiếp sợ khi đến đất Hóa Châu. Cho đến lúc bờ biển châu á rầm
rộ tàu đồng phương Tây vào giữa thế kỉ 17, chính ngôi thành gan góc này đã dạy cho chúng
bài học đầu tiên về sức mạnh Việt Nam bằng việc tiêu diệt cả một hạm đội của thực dân
Hòa Lan.Đến thời chóng Mĩ, phẩm chất anh hùng và tinh thần bất khuất của người dân Hóa
Châu lại một lần nữa được bộc lộ ra trong một tuyên ngôn ngỡ như giản dị mà sâu sắc vô
cùng: “Tụi bây có sức thì cứ đào cho hết đất làng, xúc xuống hạm đội chở về đổ bên Mĩ.
Làm cho được rồi hãy nói tới chuyện bình định cái đất Hóa Châu này”.Xưa và nay, cổ và
kim hòa quyện, quấn quýt thành những kỉ niệm, ai người xưa,ai bây giờ thì lịch sử vẫn tươi
rói những khuôn mặt của người cùng thời. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ nói về lịch

sử của đất và người bên dòng Hương giang mà còn nghiền ngẫm sâu xa và xúc động thấm
thía với những giá trị lịch sử đọng lại như lớp trầm tích của sông để con sông xứ Huế không
chỉ xinh đẹp thơ mộng trong dáng vẻ mà còn rất thiêng liêng vĩ đại trong tầm vóc. Nghĩa là,
đặt con sông trong dòng chảy của lịch sử cũng là thêm một thứ thước đo để Hoàng Phủ
12
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
Ngọc Tường làm nổi bật vẻ đẹp riêng,sức sống riêng, linh hồn riêng của con sông quê
hương.
d. Đánh giá:
Trong bài tùy bút này sông Hương đã được đặt trong một cái nhìn tổng thể và
toàn diện: Lịch sử và văn hóa, sinh hoạt và phong tục, văn chương và đời sống, con
người và thiên nhiên … Trong các mối liên hệ ấy, sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ
mộng và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị văn hóa,
vừa phong phú đến bất ngờ trong khả năng gợi hứng thú sáng tạo cho những người
nghệ sĩ, vừa kiên cường bất khuất trong thế đứng và tinh thần khi đối diện với giặc
ngoại xâm…Song dường như sau tất cả những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn
những điều bí ẩn chưa được khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong
tâm hồn con người.
13
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT
Bố cục tác phẩm:
Cảnh 1. Nam Tào, Bắc Đẩu tắc trách gạch sổ bừa tên người tới số chết ở trần gian là
Trương Ba, rồi nói với Đế Thích xuống trần gian mà tìm người đánh cờ cho đỡ buồn.
Cảnh 2. Trương Ba, một người làm vườn hiền lành, nhân hậu đang đánh cờ với bạn.
Tiên Đế Thích đến giải nước cờ hiểm, rồi kết bạn với Trương Ba, cho Trương Ba một bó
hương, dặn nếu đốt hương, gọi tên thì ông sẽ xuống trần. Sau đó, Trương Ba chết một cách
đột ngột.

Cảnh 3. Biết tin, Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu bàn nhau sửa sai bằng cách cho hồn
Trương Ba nhập vào xác hàng thịt cùng xóm vừa chết. Đế Thích dặn vợ Trương Ba đến dẫn
chồng về.
Cảnh 4. Hàng thịt đã chết bỗng sống dậy nhưng không nhận vợ con, vợ Trương Ba
đến, Trương Ba đòi theo về. Hai người vợ dành nhau.
Cảnh 5. Trương Ba giờ đây thay đổi tính nết ăn nhiều, uống rượi, cộc cằn, thô lỗ
làm vợ, con, cháu rất buồn. Lý trưởng đến sách nhiễu, buộc Trương Ba phải ở nhà vợ hàng
thịt đến khuya mới được về.
Cảnh 6. Ban ngày, Trương Ba ở nhà vợ hàng thịt, mổ lợn được ăn uống no say, vợ
hàng thịt ve vãn, Trương Ba cũng xiêu lòng, rồi giật mình, đau khổ
Cảnh 7. Trương Ba bị người thân xa lánh. Bạn không đánh cờ nữa, vì nước cờ
không còn trong sáng Vợ buồn đau, muốn bỏ đi, trả Trương Ba lại cho vợ hàng thịt. Cháu
nội nhất khoát không nhận ông nội Trương Ba đau đớn tranh luận với cái xác hàng thịt
Trương Ba gọi Đế Thích xuống nói nổi khổ của mình, tranh luận về lẽ sống chết Đế Thích
đề nghị cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị vừa chết hoặc nhập vào xác Đế Thích.
Trương Ba quyết không nhập vào xác ai, xin được chết, trả xác cho hàng thịt. Đế Thích
chấp nhận và cho cu Tị sống lại. Ông quyết định ở lại trần gian vì chán thiên đình Màn kết:
Hồn Trương Ba nhập vào cây cỏ trong vườn vẫn nhìn thấy vợ, con. Cây cỏ tiếp tục mọc lên.
********************************
1. Bi kịch trong Hồn Trương Ba da hàng thịt :
a. Bi kịch giữa tâm hồn và thể xác:
Có thể nói Trương Ba đã chết một cách vô lí, ai cũng biết cái chết của Trương Ba là
do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo
lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một
nghịch cảnh vô lí hơn là linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Nếu linh hồn
yếu đuối, không giữ vững được ý chí, thì những đòi hỏi, những yêu cầu của thể xác có thể
tác động đến linh hồn khiến bản chất của linh hồn thay đổi. Có thể nói cuộc đấu tranh giữa
hồn và xác là nhằm đạt tới sự thống nhất, hòa hợp để con người hoàn thiện nhân cách làm
chủ bản thân mình. Cuộc đối thoại giữa xác anh hàng thịt và hồn Trương ba cũng chính
cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác của một con người. Do phải sống nhờ thể xác anh

hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh
hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống
14
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
mượn, vá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô
phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn
Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. Hồn Trương Ba
đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng
với ước nguyện khắc khoải). Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà
hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về,
thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt
vọng.Ý thức được điều đó linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại
bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt
biết rõ những cố gắng đó là vô ích, đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm
u, đui mù ghê gớm của mình, ranh mãnh dồn hồn Trương Ba vào thế đuối lí và hơn nữa, ve
vãn hồn Trương Ba thoà hiệp vì, theo lí lẽ của xác thịt là "chẳng còn cách nào khác đâu", vì
cả hai "đã hoà vào nhau làm một rồi". Trước những "lí lẽ ti tiện" của xác thịt, Trương Ba đã
nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng mỏ xác thịt hèn hạ nhưng đồng thới cũng ngậm ngùi thấm
thía nghịch cành mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng. Hai
hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại điện
cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa con
người và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn
đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con
người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý
thức, tự chiến thắng bản thân Màn đối thoại này cho thấy
Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống
chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá.
Không chỉ đừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục
thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch,

đẹp đẽ, cao quý trong con người.
b. Bi kịch bị “ruồng bỏ” :
Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với
những người thân. Khi người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất
quyết đòi bỏ đi. Với bà "đi đâu cũng được còn hơn là thế này". Bà đã nói ra cái điều mà
chính ông cũng đã cảm nhận được: "ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm
vườn ngày xưa". Không phải ngẫu nhiên, tác giả không đưa anh con trai thực dụng của
Trương Ba vào cuộc đối thoại của Trương Ba với những người thân. Các cuộc đối thoại với
vợ con dâu và cháu gái càng làm cho Trương Ba đau khổ hơn. ông hiểu những gì mình đã,
đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại mặc dù ông không hề muốn điều đó. Thái độ
của vợ trương Ba, con đâu và cháu gái trước sự biến đổi và tha hoá của Trương Ba.
Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ nhưng với bản tính vị tha nên định nhường Trương
Ba cho cô vợ anh hàng thịt.
Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương
bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, "khổ hơn xưa nhiều lắm". Nhưng
nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm
bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không
đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy
mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến
nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa ".
15
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
Trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ
vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông
trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó
một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu
quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có "bàn tay giết
lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm
quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị

mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó,
"Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua
đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Tuy nhiên, họ chỉ là
những người dân thường, họ không giúp gì được cho tình trạng hiện tại của Trương Ba.
Tình huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và sau màn độc thoại nội tâm (hồn
Trương Ba thách thức xác anh hàng thịt: "có thật là không còn cách nào khác?" và phản
kháng quyết liệt: "Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!"). !". Đây là
lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách
dứt khoát.
2. Nghệ thuật trong Hồn Trương Ba da hàng thịt :
Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện
tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở
nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh nhưng ông được xem là
một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại.
Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng
thịt". Tác phẩm để lại cho nền văn học nhiều nét nghệ thuật đặc sắc. 3.1. Nghệ thuật xây
dựng nội tâm độc đáo: Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở
kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong
thân xác anh hàng thịt.
Đoạn trích là phần lớn cảnh VII. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột
trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng "bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo", nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè,
người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ
trêu.
a. Ngôn ngữ đặc trưng cho ngôn ngữ kịch:
Sinh động, gắn với tình huống cụ thể. Đó là sự khác biệt của ngôn ngữ Trương Ba
trong đối thoại với Xác, vợ, cái Gái, Đế Thích…. Trước khi Đế Thích xuất hiện : Diễn ra
cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba ngồi ôm đầu một
hồi lâu rồi vụt đứng dậy với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: " Không. Không! Tôi không
muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân

thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!Nếu cái hồn của
ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát".
- Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm
thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải)
- Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm.
- Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ,
phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.
16
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác
nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận (cái đêm khi ông
đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" và
"suýt nữa thì ". Đó là cảm giác "xao xuyến" trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là
"phàm". Đó là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi", ).
Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ,
cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy
biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, ".
Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với
chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ
buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với
những người thân. Khi người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất
quyết đòi bỏ đi. Với bà "đi đâu cũng được còn hơn là thế này". Bà đã nói ra cái điều mà
chính ông cũng đã cảm nhận được: "ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm
vườn ngày xưa". Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ
tình thân (tôi không phải là cháu ông Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông nó bao
nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to
bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm"
trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy

nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời
nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết
liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!".
Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương
bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, "khổ hơn xưa nhiều lắm". Nhưng
nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm
bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không
đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy
mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến
nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa "
Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ
trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ
khổ nhưng "cũng không khổ bằng bây giờ".
b.Giọng điệu nhân vật biến hóa đa dạng
Có sự kết hợp giữa giọng hướng ngoại và hướng nội - độc thoại nội tâm. Sau tất cả
những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến
Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn
dần lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn
lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời
độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác
không phải của ta ạ Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất
mình? "Chẳng còn cách nào khác"! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách
nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại!
Không cần!". Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương
gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
17
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
- Từ khi Đế Thích xuất hiện
Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm

những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh
này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo
được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn
Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái
thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng
sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!.
Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua
hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa.
Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị
chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không
thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra
con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi
không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba
với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của
mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời
càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết
hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của
một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị
vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để
sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối" vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng
tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua
quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng
tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ "mở nút". Dựng tả
quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật Hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm
bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm.
c. Xung đột bi kịch
Một kịch bản trở thành một tác phẩm bi kịch, trước hết nó phải được kết cấu trên cơ
sở xung đột hay mâu thuẫn bi kịch. Xung đột là vấn đề then chốt, là tinh thần của nghệ

thuật bi kịch Lunasatxki khẳng định “ vở kich có thể duy tâm hay duy vật nhưng nhất thiết
phải có tính biện chứng với sự phát triển của các sự kiện, không có xung đột của các mâu
thuẫn, chỉ có thể là những vở kịch tồi”. Hay trong “ nghệ thuật thi ca” Arixtot đã nhận xét
như sau: “ kịch sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có xung đột và tình huống éo le”. Như vậy có
thể khẳng định xung đột kịch chính là cơ sở để một kịch bản trở thành bi kịch. “ Hồn
Trương Ba da hàng thịt” Cách diễn tả hành động, ngôn từ nhân vật, chính là yếu tố trọng
yếu để phát triển xung đột, xây dựng tình huống, thể hiện tính cách trong nghệ thuật viết
kịch.
Phù hợp với hoàn cảnh, theo đúng logic phát triển của tình huống kịch.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong (những độc
thoại nội tâm thể hiện trạng thái tinh thần căng thẳng, đầy day dứt). 3.1.4. Chất thơ, chất trữ
tình bay bổng
d.Sự kết hợp tính hiện đại với các giá trị truyền thống
18
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org

2. Triết lý sống trong "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" :
HỒN TRƯƠNG BA, “ da hàng thịt” từ truyện cổ dân gian đến kịch bản của Lưu
Quang Vũ sự phát triển của một triết lý sống Từ sự so sánh về quan điểm triết lý giữa
truyện cổ dân gian “Hồn Trương Ba, da Hàng thịt” và vở kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ,
bài viết đã nêu lên những nét mới, rất có ý nghĩa trong tác phẩm của nhà soạn kịch nổi tiếng
này. Nếu cốt truyện dân gian chỉ đơn giản đề cao, tuyệt đối hoá vai trò của linh hồn đối với
thể xác, thì đến vở kịch của Lưu Quang Vũ, vấn đề đã được ông đào sâu, mở rộng và phát
triển hơn rất nhiều. Ông có quan niệm khác về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác - đó là
mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, ông còn mở rộng tầm triết lý sang cả
những vấn đề nhân sinh khác, như vấn đề xung đột giữa nhu cầu tự nhiên và nhân cách, vấn
đề đấu tranh trong bản thân mỗi con người để hoàn thiện nhân cách làm người, v.v Vở
kịch của Lưu Quang Vũ, vì thế, không chỉ là thành quả to lớn của nền kịch nói hiện đại Việt
Nam, mà còn là một đóng góp đặc sắc của ông vào quan niệm triết lý nhân sinh nói chung.

Ở đây, chúng tôi không so sánh một cách toàn diện giữa một truyện cổ dân gian và
một vở kịch dài hiện đại, cũng không so sánh về toàn bộ nội dung tư tưởng, mà chỉ so sánh
về tư tưởng triết học - phần cốt lõi của cả hai tác phẩm.
Truyện cổ dân gian: Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, người còn trẻ tuổi nhưng
đánh cờ tướng rất giỏi. Nước cờ của anh dễ thường thiên hạ không có người nào địch nổi.
Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước,
sang đến tận Giang Nam. Buổi ấy, ở Trung Quốc, có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ.
Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền khăn gói sang Nam tìm đến nhà địch thủ. Hai
người đọ tài nhau trong mấy ván vẫn không phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương
Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo:
Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng không thể gỡ nổi.
Bấy giờ Đế Thích là thần cờ ở thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương
Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kỵ
Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi bên cạnh bàn cờ. Ông cụ thủng thỉnh
mách cho Kỵ Như mấy nước. Tự nhiên, bên Kỵ Như cờ bại thành thắng. Trương Ba cau có,
trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông
cụ râu tóc trắng xóa, mặt mũi không có vẻ là người trần tục, chợt hiểu, liền sụp xuống lạy
mà rằng: “Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ
lỗi”. Đế Thích cười bảo: “Ta nghe như nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho
biết”. Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua rượu, giết gà, khoản đãi rất chu tất. Đế Thích
tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba. Thấy anh khẩn khoản muốn học nước cờ của
mình, Đế Thích bảo anh: “Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành, vậy ta cho một bó hương
này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống”. Nói đoạn, cưỡi mây bay lên
trời.
Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cờ mời thầy Đế Thích xuống chơi. Hai bên
rất tương đắc. Nhưng một hôm, Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi
chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa, thấy có nén hương giắt ở mái nhà, chị ta vô tình
lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, thần Đế Thích nhận được tin bằng
mùi hương liền xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc nhiên: “Trương Ba
đâu?”. Vợ Trương Ba sụt sịt: “Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi!” - “Chết rồi! Sao lúc

mới tắt thở không gọi ta xuống ngay, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa?”. Suy nghĩ
19
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
một chút, Đế Thích lại hỏi thêm: “Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?”. Vợ Trương
Ba đáp: “Có một người Hàng thịt mới chết tối hôm qua”. Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn
mình đến nhà người Hàng thịt mà bảo: “Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngươi sống
lại”. Nói xong, thần hóa phép rồi trở về trời.
Nói chuyện trong nhà người Hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng
khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy. Hắn ta vứt tất cả mọi đồ khâm
liệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy
người Hàng thịt, biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào.
Giữa lúc đó, thì vợ con người Hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng nhưng không những
bị vợ Trương Ba giằng lại, mà ngay chính chồng mình cũng nhất định không chịu về. Đôi
bên cãi cọ nhau, cuối cùng biến thành cuộc đấu khẩu rất kịch liệt. Xóm làng không biết
phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.
Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh
Hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận ra là chồng mình”. Quan hỏi
rằng: “ Chồng chị ngày thường hay làm gì?”. Đáp: “chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi”.
Quan lại hỏi vợ người Hàng thịt: “chồng chị ngày thường hay làm nghề gì?”. Đáp: “chồng
tôi chỉ thạo nghề mổ lợn”.
Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh Hàng thịt mổ, nhưng
anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với
người Hàng thịt thì không ngờ, con người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi.
Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba.
Vì thế mới có câu “ Hồn Trương Ba, da Hàng thịt”
Như vậy, truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt cũng quan niệm linh hồn
phải có thể xác mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn mới sống được, mới không
rữa nát. Nhưng truyện cổ dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, coi nhẹ thể xác, nên
khi Trương Ba mượn được thể xác của người Hàng thịt thì Trương Ba coi mình là Trương

Ba 100% trong ý thức, trong tình cảm, trong tính cách, tuyệt nhiên không băn khoăn gì về
hình dạng của mình. Vợ Trương Ba cũng vậy, khi thấy chồng là thân xác anh Hàng thịt
nhưng tâm trí là Trương Ba - chồng mình - thì cũng không băn khoăn gì, nhận ngay và vui
vẻ chung sống. Vợ anh Hàng thịt chỉ thấy đơn giản là hình dạng chồng mình sống lại nên
đấu tranh khiếu kiện giành giật về cho mình, mặc dù anh ta đã nói anh ta là Trương Ba và
chạy về nhà Trương Ba. Quan phủ sau khi kiểm tra kỹ năng mổ thịt lợn và nhất là kỹ năng
chơi cờ thì quyết định xử ngay cho anh - Hàng - thịt - mang - hồn Trương Ba về với vợ
Trương Ba. Phép thử mổ thịt có thể không chính xác, vì anh Hàng thịt nếu thích vợ Trương
Ba có thể giả vờ mổ vụng; nhưng phép thử chơi cờ thì không thể sai được, vì nó thuộc về trí
tuệ, về năng khiếu tính toán trong loại hình thể thao trí tuệ đặc biệt, cũng chính là một biểu
hiện, một phương diện đặc sắc của linh hồn. Nó xác định, khẳng định linh hồn đó chỉ có thể
là Trương Ba - người sinh thời chơi cờ rất giỏi.
Với cốt truyện ngắn gọn, mang một tư tưởng triết học có phần hơi đơn giản - đề cao,
tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn, tách rời linh
hồn và thể xác, coi thể xác chỉ như cái túi đựng linh hồn - truyện cổ dân gian Hồn Trương
Ba, da Hàng thịt phù hợp với quan niệm xưa, qua bao thế kỷ vẫn được kể, được yêu thích
và không hề gây tranh cãi.
Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, của con người và khoa học (sinh
lý học và tâm lý học), tư tưởng triết học về con người cũng trở nên phong phú hơn, sâu sắc
hơn và toàn diện hơn. Từ đó, tư tưởng triết học trong truyện cổ dân gian đã được Lưu
20
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
Quang Vũ, nhà viết kịch tài năng của thời hiện đại, nhìn nhận lại và phát triển theo trình độ
nhận thức của thời đại, theo yêu cầu nhân sinh và thẩm mỹ của thời hiện đại.
Tóm tắt vở kịch của Lưu Quang Vũ. “Nam Tào, Bắc Đẩu đang ngồi chấm người phải chết
trong ngày. Đế Thích đến tỏ ý muốn xuống hạ giới để tìm người cao cờ đánh cho vui. Vì
vội đi dự tiệc ở bên dinh Thái thượng nên Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba.
Trương Ba đang chăm vườn và trò chuyện cùng vợ, cháu gái nội, con trai, con dâu
thì Trưởng Hoạt đến chơi cờ. Đế Thích xuất hiện, giúp Trưởng Hoạt gỡ thế cờ. Đế Thích

cho Trương Ba mấy nén hương và bảo nếu cần thì thắp một nén là Đế Thích xuống, thắp ba
nén thì có thể lên thiên đình gặp Đế Thích. Sau đó, Trương Ba thấy trong người khó chịu và
chết.
Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích đang trò chuyện thì vợ Trương Ba lên (bà ta vô tình
thắp ba nén hương cho chồng). Bà đòi trả mạng sống cho chồng. Nhân có anh Hàng thịt
mới chết, thân xác chưa tan rữa, Nam Tào, Bắc Đẩu cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh
Hàng thịt để sống lại.
Gia đình người Hàng thịt đang ngồi bên quan tài thì người Hàng thịt đội nắp quan tài
lên, đòi về nhà Trương Ba, không chịu ở lại nhà Hàng thịt. Vợ Trương Ba đến xem phép
mầu nghiệm ứng để đón chồng. Lúc đầu, mọi người đều ngỡ ngàng nhưng hồn Trương Ba
đã nói được những điều chỉ có Trương Ba xưa mới biết, nên vợ Trương Ba nhận chồng,
Trưởng Hoạt nhận bạn. Hồn Trương Ba (trong xác anh Hàng thịt) về nhà Trương Ba.
Nhưng bà vợ băn khoăn vì thân xác chồng khác xưa nhiều quá. Bà cũng thắc mắc về việc
chồng phải sang giúp chị Hàng thịt mổ lợn mặc dù vụng về.
Anh con trai thì hy vọng với sức vóc mới, bố có thể cùng đi buôn lậu với mình. Hồn
Trương Ba đã tát con với sức mạnh của cánh tay anh Hàng thịt.
Lý trưởng vào bắt hồn Trương Ba phải về nhà Hàng thịt. Anh con trai hối lộ, Lý
trưởng xử: ban ngày ở nhà Trương Ba, đêm về nhà Hàng thịt. Anh con trai lại có lời, Lý
trưởng cho phép Trương Ba chỉ phải ở nhà Hàng thịt đến nửa đêm thì được về.
Trời đã khuya, hồn Trương Ba giúp chị Hàng thịt mổ lợn, pha thịt xong, chuẩn bị về
thì chị ta giữ lại mời rượu rồi mời ở lại. Hồn Trương Ba lúc đầu định xuôi theo nhưng đã
đấu tranh tư tưởng, gỡ tay chị ta, về nhà.
Trưởng Hoạt sang phê phán Trương Ba bắt đầu đổi tính: uống rượu, đòi ăn ngon,
nước cờ đi cũng khác.Lý trưởng lại đến sách nhiễu. Cháu gái không nhận ông, người con
dâu cũng than phiền bố chồng thay đổi.Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác
người Hàng thịt diễn ra; qua đó, xác người Hàng thịt khẳng định thế lấn tới của y đối với
hồn Trương Ba.
Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Lúc đó,
cu Tỵ nhà hàng xóm bị ốm nặng, sắp chết. Đế Thích bảo hồn Trương Ba nhập vào xác cu
Tỵ. Trương Ba từ chối, xin cho cu Tỵ sống, còn mình xin trả lại xác cho người Hàng thịt và

chấp nhận cái chết.
Hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây vườn trò chuyện với vợ”.
Trước hết, Lưu Quang Vũ có kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian. Ông cũng
nhấn mạnh vai trò cao hơn của linh hồn so với thể xác. Trương Ba khi sống lại trong thân
xác anh Hàng thịt thì nhận biết mình là Trương Ba (dựa vào ký ức, tình cảm và ý thức của
hồn Trương Ba) và về ngay nhà mình (nhà Trương Ba). Vợ Trương Ba, sau khi kiểm tra ký
ức của Trương Ba (mới), cũng nhận là chồng mình và giữ lại. Trưởng Hoạt, bạn của
Trương Ba, khi kiểm tra ký ức của Trương Ba (mới) về tình bạn giữa hai người, cũng xúc
động ôm hôn ngay bạn mình, mặc dù anh ta lúc này đã mang thân xác xa lạ. Cô con dâu thì
21
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
lại càng thương cha chồng, mặc dù cha lúc này mang vóc hình ông Hàng thịt, vì điều chị ta
tìm thấy ở ông là đức tính nhân hậu hệt như cha chồng xưa. Chị ta nói khá đúng, khá đủ,
khá cơ bản về linh hồn: “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi nó không là vuông hay
tròn, mà là vui buồn, mừng giận, yêu ghét. Thầy vẫn dạy chúng con: Cái bề ngoài có quan
trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể”.
Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ không dừng lại ở đó.
Đầu tiên, hồn Trương Ba tỏ ra lạ lẫm, khó chịu với sự khác lạ của thân xác mình.
Rồi anh ta cảm thấy thân xác đó bắt đầu chi phối anh: cũng thích ăn tiết canh, uống rượu,
nói to và có sức khỏe (không đau lưng, không hen nữa, tát con chảy máu mồm).
Khi ông Lý xử anh phải sang nhà chị Hàng thịt một số giờ trong ngày thì anh cũng tấm tắc
khen ngon mấy món ăn của chị ta. Chị Hàng thịt thì biết linh hồn trong thể xác chồng mình
không phải là của chồng mình mà là của Trương Ba, nhưng chị ta càng quý hơn vì nó tốt
đẹp và dịu dàng, điều mà chị ta không thấy ở người chồng thô bạo đã khuất. Sự cô đơn về
thân xác và linh hồn khiến chị càng khao khát hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba cũng bị rung
động trước sự gần gũi với vợ người Hàng thịt và phải tự đấu tranh để thoát ra khỏi vòng tay
âu yếm của thị. Vợ Trương Ba cũng dần cảm thấy chồng khác trước và nảy sinh mặc cảm,
tự ti về sức khỏe và nhan sắc trước hình vóc trẻ khỏe của hồn Trương Ba. Đến đây, ta đã
thấy sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn, sự chi phối của thân xác đối với linh

hồn cùng những phiền toái do sự không hòa hợp, không thống nhất giữa linh hồn và thân
xác.
Đỉnh cao của tư tưởng triết lý trong vở kịch là sự đối thoại giữa linh hồn và thân xác.
Cuộc đối thoại này cho thấy con người ta có hai phần là linh hồn và thể xác. Hai phần đó có
quan hệ hữu cơ với nhau. Linh hồn có cơ sở vật chất là thể xác, cũng như nhận thức lý tính
phải bắt đầu từ cảm tính; tình cảm hình thành từ những quan hệ cụ thể trong đời thường;
cảm xúc thẩm mỹ phải dựa trên các cảm quan thị giác, thính giác Thể xác cũng có tính
độc lập tương đối, có tiếng nói riêng, có nhu cầu tự nhiên hợp lý, không thể bỏ qua. Nhưng,
linh hồn phải kiểm soát những nhu cầu đó, phải điều chỉnh, thăng hoa, “Người” hóa, văn
hóa hóa những nhu cầu ấy. Con người nói chung phải biết kìm hãm, tiết chế những nhu cầu
bản năng và nếu cần, biết đè nén, biết hy sinh nó. Linh hồn và thể xác là một thể thống
nhất; trong đó, linh hồn giữ vị trí chủ đạo, nên linh hồn phải chịu trách nhiệm cuối cùng về
hành động của thể xác, không thể thỏa mãn mọi nhu cầu ở mọi mức độ, mọi nơi, mọi lúc rồi
đổ trách nhiệm cho thể xác. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác thực sự là cuộc đấu
tranh trong bản thân con người để làm chủ những nhu cầu và ham muốn, nhất là khi bị hoàn
cảnh tác động. Đó là cuộc đấu tranh để làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách. Ở đây,
cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả năng lấn át của thể xác - tức của những nhu cầu tầm
thường - đối với linh hồn - tức là đối với khát vọng sống cao khiết.
Hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác cho anh hàng thịt của Trương Ba là một
hành động đúng đắn, một hành động dũng cảm và đạo đức. Từ sự lý giải lại một cách biện
chứng về quan hệ giữa thể xác và linh hồn trên triết lý nhân sinh của thời đại, Lưu Quang
Vũ đã đi đến một quan niệm sống đẹp: sống chân thật, mình phải chính là mình, cả linh hồn
và thể xác, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết,
nhưng hồn Trương Ba vẫn sống - sống trong tình cảm của mọi người, sống mà không cần
mượn đến thân xác của ai hết.
Trước khi kết thúc, tác giả còn đưa nhân vật vào cuộc thử thách cuối cùng, đặt nhân
vật trước một sự lựa chọn: chấp nhận cái chết hoặc nhập vào xác cu Tỵ - một em bé hàng
xóm vừa chết. Trương Ba không thể tái diễn bi kịch sống trong thân xác mượn của người
22
Thành Viên Tuổi Học Trò

123doc.org
khác: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn
vẹn”. Vì thế, ông đã xin cho cu Tỵ được sống lại, còn mình thì xin được chết.
Thực chất, đó là lời tái khẳng định của tác giả đối với quan niệm sống đẹp mà ta
nhắc đến ở trên. Bi kịch xung đột giữa linh hồn và thể xác không thể được giải quyết theo
đúng cái cách đã tạo ra bi kịch. Đến đây, cái “chết hẳn” của Trương Ba lại thể hiện một
chiến thắng thuyết phục của “tồn tại – người”, của nhân cách, của khát vọng hoàn thiện
nhân cách của con người.
Không phải chờ đến khi các nhà ngoại cảm và lý thuyết trường sinh học xuất hiện, Lưu
Quang Vũ đã khẳng định, theo cách của ông, thân xác của từng cá thể người tồn tại hữu
hạn, nhưng sự sống và linh hồn của con người là bất tử. Tư tưởng triết lý của Lưu Quang
Vũ về con người vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này, cùng với tài năng
sáng tạo nghệ thuật tác giả, đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân
loại.
Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong Hồn Trương Ba, da Hàng thịt còn có
thể làm ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật. Đương
nhiên, mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, giữa nội dung và hình thức là hai cặp phạm trù
không đồng nhất, không thể suy cái này ra cái kia một cách tịnh tiến. Tuy vậy, từ sự không
đồng nhất, thậm chí đối lập giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch, ta có thể liên tưởng tới
sự thống nhất cần có giữa nội dung và hình thức là hai mặt của thực tại tự nhiên và xã hội.
Khi nội dung và hình thức phù hợp với nhau thì sự vật tồn tại và phát triển. Khi nội dung và
hình thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm và thậm chí, sự tồn tại của
sự vật bị đe dọa.
Liên tưởng trên không hề có khi đọc truyện cổ dân gian, mà nếu có, thì đó chỉ là sự
tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức và tách rời nội dung khỏi hình thức, một tư
duy siêu hình mang tính tiên nghiệm.
Từ triết lý đơn giản trong truyện cổ dân gian về vai trò quan trọng thứ nhất của linh
hồn, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người
đọc một thông điệp sâu sắc về triết lý sống: thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau;
con người không thể chỉ sống bằng thể xác, mà phải luôn luôn đấu tranh với bản thân để có

sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác, hướng tới một lối sống cao thượng, vươn tới
một nhân cách hoàn thiện.
3. Kết luận:
Không chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, rong vở kịch nói
chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu
cực trong lối sống lúc bấy giờ:
Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật
chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển.
Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo
thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn.
=> Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.
Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là
tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình.
Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.Với tất cả những ý nghĩa
đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.
******************************
23
Thành Viên Tuổi Học Trò
123doc.org
HỒN TRƯƠNG BA,DA HÀNG THỊT – NƠI KẾT THÚC CỦA CỔ TÍCH VÀ SỰ KHỞI ĐẦU
1/ Nội dung câu chuyện dân gian:
“Ngày xưa, có một ông Trương Ba chơi cờ tướng rất giỏi - “cao tay” đến mức “có một không
hai”. Một hôm, đang bên bàn cờ, đối thủ của ông Trương Ba bị dồn vào thế bí bèn thốt lên “Nước
cờ này chỉ có tiên cờ là Đế Thích mới có thể gỡ được chứ người trần chỉ có nước hàng thôi”. Vừa
dứt lời thì quả nhiên có một ông lão ăn mày xuất hiện xin đi thử một nước cờ gỡ bí Ông Trương
Ba vừa tức, vừa sững sờ kinh ngạc vì chỉ trong thoáng chốc, đối thủ của ông không chỉ thoát bí mà
còn dồn ông đến chỗ thua bèn cúi xuống sụp lạy ông lão, vừa lạy vừa nói: “Tôi dám chắc cụ là tiên
cờ Đế Thích chứ chẳng phải người phàm”. Ông lão ăn mày từ chối, chỉ nói rằng mình là kẻ nghèo
hèn nhưng ông Trương Ba không chịu nghe cứ sụp lạy mãi khiến ông già đành phải thú thật: “Đúng
tôi là Đế Thích, nghe nhắc đến tên, tôi phải xuống xem anh đánh cờ ra sao và đã thấy anh đúng là

tay cờ giỏi”. Nhân đó, ông Đế Thích với danh nghĩa “cùng làng cờ” báo cho ông Trương Ba biết là
số ông đã đến ngày tận thế, nhưng lúc nằm xuống, nhớ thắp hương lên mà vái đúng tên Đế Thích
thì tiên cờ sẽ giúp để Trương Ba sống lại. Và ông Trương Ba đã nói lại tất cả những điều đó với vợ.
Một tháng sau ngày chồng mất, vợ ông Trương Ba trong khi dọn bàn cờ tướng sực nhớ tới lời dặn
của chồng bèn thắp hương khấn tên Đế Thích và cầu xin để chồng mình được sống lại. Đế Thích
dường như bất lực vì ông Trương Ba về với đất đã lâu Cũng “may” lúc đó, cùng lối xóm có anh
hàng thịt vừa mới mất, Đế Thích bèn nhập hồn ông Trương Ba vào xác anh hàng thịt. Và thế là ông
Trương Ba đã sống lại trong hình hài của anh hàng thịt. Hai bà vợ lời qua tiếng lại, giành giật thậm
chí là đánh nhau bởi vì ai cũng có lý khi nhận người vừa sống lại đúng là chồng mình. Cuối cùng
họ dắt nhau đến cửa quan và vợ ông Trương Ba đã thắng kiện bởi vì anh hàng thịt đã nhận bà
Trương Ba là vợ, anh hàng thịt không biết cách cầm dao mổ lợn mà lại nói về cờ tướng rất thạo và
đặc biệt là còn quen biết cả với tiên cờ Đế Thích. Vợ người hàng thịt đành chịu mất chồng”. Rõ
ràng là từ “bản gốc” có phần đơn giản này, Lưu Quang Vũ đã không bị lệ thuộc vào nội dung câu
chuyện, đã tìm tòi, vừa mở rộng kích thước tự sự, vừa khơi sâu vào giá trị tư tưởng để tạo nên một
vở kịch nổi tiếng mà “hạt cơ bản” là giá trị nhân văn sâu sắc về lẽ tử - sinh.
2/ So sánh vở kịch và chuyện dân gian :
- Chuyện dân gian : là một câu chuyện không mấy tiêu biểu cho thi pháp cổ tích nếu đặt bên
cạnh “Tấm Cám”, “Cây tre trăm đốt” , “Thạch Sanh”,… Tuy nhiên,từ góc nhìn tự sự,người ta cũng
dễ nhận diện những yếu tố cơ bản tạo nên sắc thái cổ tích cho tác phẩm : Đó là nhân vật,tình
huống,diễn biến cốt truyện,phép màu mang đến may mắn cho con người… Và mặc dù câu chuyện
dân gian này còn phảng phất dấu ấn sáng tác bởi các cụ đồ Nho,nhân vật vua cờ Đế Thích vẫn có
thể coi là một kiểu “Bụt”, “Tiên” giáng thế để cứu vớt,bù đắp cho những mất mát,đau thương cho
hạ giới.Câu chuyện mở đầu bằng một cuộc cờ và kết thúc bằng một “phép tiên” cải tử hoàn sinh –
một mơ ước ngàn lần không tưởng của con người.
- Tác phẩm kịch : Khác với văn bản tự sự cổ tích xoay quanh câu chuyện chỉ vẻn vẹn vài
nhân vật: ông Trương Ba, vợ ông Trương Ba, Tiên Đế Thích, người bạn cờ, anh hàng thịt, vợ anh
hàng thịt và quan toà; “thế giới” nhân vật trong tác phẩm kịch của Lưu Quang Vũ có sự hiện diện
của rất nhiều nhân vật khác “châu tuần” chung quanh nhân vật chính: Nam Tào, Bắc Đẩu; anh con
24
Thành Viên Tuổi Học Trò

123doc.org
trai, chị con dâu, cháu nội ông Trương Ba; Lý trưởng, Trương Tuần, Lái lợn 1, lái lợn 2 Chính họ
là những phía đối lập của xung đột, can dự, chi phối đẩy cốt truyện kịch lên cao trào và tạo nên bi
kịch lạ lùng cho số phận Trương Ba. Tương tự như vậy, các yếu tố không - thời gian trong tác
phẩm của Lưu Quang Vũ cũng trở nên đa chiều hơn.
Đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật, (chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại) - một hình thức đặc thù của
văn bản kịch - đã được vận dụng một cách hiệu quả và sáng tạo trong một tác phẩm được coi là “để
đời” của một nhà viết kịch tài năng và thuộc một thể loại kể chuyện bằng ngôn ngữ đối thoại và “tất
cả mọi vấn đề xung quanh hình tượng” đều nằm trong lời ăn tiếng nói của nhân vật.
Thay vì điểm nhìn của tự sự cổ tích với lời mở đầu quen thuộc “Ngày xửa ngày xưa có một
người tên là ”, vở kịch của Lưu Quang Vũ mở màn bằng “không gian tiên giới” - khung cảnh trên
thiên đình - với sự xuất hiện của các quan nhà trời Bắc Đẩu, Nam Tào và dĩ nhiên là có cả Đế
Thích. Do cung cách làm việc tắc trách, luộm thuộm của những đấng nắm “quyền sinh quyền sát”
trong tay, và cũng muốn xong việc để kịp dự lễ khai tiệc bên đình Thái Thượng, sau cái “tặc lưỡi”
và dưới ngòi bút oan nghiệt của Nam Tào, ông Trương Ba hiền hậu, tử tế, tốt bụng còn đang rất
khoẻ mạnh, mặc dầu chưa “tận số” (khác với cổ tích) đã phải chết thay cho một tên bạc ác bất nhân,
lừa thầy phản bạn, dối trá tham tàn “Xen” kịch ngắn giàu tính thời sự này của Lưu Quang Vũ gợi
nhớ về một thời chưa xa “sinh mệnh” của con người chất ngất nhiều nỗi oan khất bởi trên đầu họ là
những thế lực, thậm chí là siêu thế lực “cho ai sống mới được sống, bắt ai chết là phải chết ” (trích
Hồn Trương Ba, da hàng thịt).
Sau cảnh hạ giới với sự ra đi đột ngột của ông Trương Ba và nỗi bàng hoàng thương tiếc của
những người ruột thịt, xóm giềng lần thứ 2, không gian thiên đình lại hiện hữu để người xem có
dịp chứng kiến một sự “sửa sai” ngoài mọi tưởng tượng: ông Trương Ba được sống lại bằng thân
xác của anh hàng thịt nhờ cái tâm và phép màu của Đế Thích. Mô hình không gian này không xuất
hiện trong câu chuyện cổ tích (chỉ có những khung cảnh quen thuộc ở hạ giới) nhưng đối với Lưu
Quang Vũ, sự trở lại không gian này đã tạo một bước ngoặt quan trọng để tạo lực đẩy kịch tính cho
cốt truyện. Dòng tự sự dân gian rõ ràng đã lấy việc ông Trương Ba được sống lại trong “lốt” thân
thể anh hàng thịt làm sự kiện chính và là “điểm nhấn” trung tâm mang lại tính chất hoang đường
cho câu chuyện cổ tích. Chính vì vậy, những diễn biến tiếp theo của câu chuyện như cuộc đấu
khẩu, xô xát giành chồng giữa hai người đàn bà và việc quan xử cho bà vợ ông Trương Ba thắng

kiện chỉ là những “tình tiết phụ” nhằm bổ sung và hoàn thiện câu chuyện theo hướng kết thúc có
hậu (ít ra là từ phía nhân vật chính). Song, qua so sánh, đối chiếu 2 văn bản (kể cả việc vận dụng lý
thuyết liên văn bản), chúng ta có thể khẳng định rằng: xung đột kịch của Lưu Quang Vũ chỉ thực sự
bắt đầu và thăng hoa khi câu chuyện cổ tích đã kết thúc. Có nghĩa là, bi kịch của nhân vật Trương
Ba không đơn giản ở việc bị chết oan mà đau đớn, vật vã hơn bội phần lại là cái sự được sống lại,
được hưởng phúc ân chưa từng có ở chốn thế gian này.
3/ Đời sống dị thường của ông Trương Ba sau phép màu:
a/ Mâu thuẫn ngoại sinh :
Người láng giềng thân thiết, một bạn cờ rất phục tài ông Trương Ba giờ không thể hiểu nổi vì
sao “lối đánh cờ của bác khác hẳn ngày xưa. Thoạt trông thì thấy cách vào cờ của bác vẫn như xưa,
nhưng sau thì chẳng còn cái khoáng hoạt, dũng mãnh, thâm sâu ngày trước. Cách tiến, cách thủ
của bác bây giờ vụn vặt, tủn mủn, thô phũ. Mà cái nước ăn vừa rồi, nói xin lỗi bác, nó bần tiện làm
25

×