Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Phát triển đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học tại trường đại học hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.55 KB, 104 trang )


iii

MỤC LỤC

Lời cảm ơn i
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt ii
Mục lục iii
Danh mục các bảng vi
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN 6
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
1.2. Các khái niệm cơ bản 8
1.2.1. Giảng viên 8
1.2.2. Đội ngũ giảng viên 10
1.2.3. Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của giảng viên đại học 11
1.2.3.1. Vai trò của giảng viên 11
1.2.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của giảng viên 16
1.2.4. Phát triển và phát triển nguồn nhân lực 17
1.2.5. Quản lý nguồn nhân lực 18
1.2.6. Phát triển đội ngũ giảng viên 19
1.3. Các yêu cầu của việc phát triển đội ngũ giảng viên 21
1.3.1. Đảm bảo về số lượng 22
1.3.2. Đảm bảo về chất lượng 22
1.3.3. Đảm bảo về cơ cấu 22
1.3.4. Những yêu cầu mới đối với đội ngũ giảng viên hiện nay 24
1.3.4.1. Về phương pháp giảng dạy 24
1.3.4.2. Về học hàm, học vị 26
1.3.5. Các nội dung phát triển đội ngũ giảng viên đại học 27
1.3.5.1. Quy hoạch và kế hoạch hóa ĐNGV 27
1.3.5.2. Tuyển dụng 28


1.3.5.3. Sử dụng 28
1.3.5.4. Đánh giá 29
1.3.5.5. Đào tạo, bồi dưỡng 31
1.3.5.6. Chế độ, chính sách đãi ngộ 32
1.3.6. Các phương pháp phát triển ĐNGV 33
1.3.6.1. Phương pháp thuyết phục 33
1.3.6.2. Phương pháp hành chính tổ chức 34
1.3.6.3. Phương pháp tâm lý, giáo dục 34

iv
1.3.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển đội ngũ giảng viên 34
1.3.7.1. Người lãnh đạo 34
1.3.7.2. Người học 35
1.3.7.3. Môi trường làm việc và văn hóa tổ chức 36
1.3.7.4. Chương trình 36
Tiểu kết chương 1 37
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÒA BÌNH 38
2.1. Khái quát về trường Đại học Hòa Bình 38
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 38
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ 39
2.1.3. Loại hình và quy mô đào tạo của trường Đại học Hòa Bình 41
2.1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy 43
2.2. Thực trạng đội ngũ giảng viên, cán bộ và nhân viên trường Đại học Hòa Bình 46
2.2.1. Số lượng 46
2.2.2. Chất lượng 46
2.2.3. Cơ cấu 47
2.3. Thực trạng công tác phát triền ĐNGV của trường Đại học Hòa Bình 49
2.3.1. Công tác lập kế hoạch phát triển đội ngũ giảng viên 49

2.3.2. Công tác tuyển chọn ĐNGV 51
2.3.3. Công tác sử dụng ĐNGV 52
2.3.4. Công tác đánh giá ĐNGV 53
2.3.5. Công tác đào tạo - bồi dưỡng ĐNGV 55
2.3.6. Công tác thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với ĐNGV 57
2.4. Đánh giá chung về công tác phát triển đội ngũ giảng viên của trường Đại
học Hòa Bình 59
Tiểu kết chương 2 63
CHƯƠNG 3. CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO VÀ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÒA BÌNH 64
3.1. Nguyên tắc lựa chọn biện pháp 64
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa 64
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn 64
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi 65
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả 65

v
3.2. Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường Đại học Hòa Bình 65
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác phát triển ĐNGV 65
3.2.1.1. Mục đích, ý nghĩa 65
3.2.1.2. Nội dung và cách thức thực hiện 66
3.2.2. Lập quy hoạch đội ngũ giảng viên 68
3.2.2.1. Mục đích, ý nghĩa 68
3.2.2.2. Nội dung và cách thức thực hiện 69
3.2.3. Đối mới công tác tuyển chọn và sử dụng đội ngũ giảng viên 72
3.2.3.1. Mục đích, ý nghĩa 72
3.2.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện 72
3.2.4. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực
cho ĐNGV 75

3.2.4.1. Mục đích, ý nghĩa 75
3.2.4.2. Nội dung và cách thức thực hiện 76
3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của ĐNGV 79
3.2.5.1. Mục đích, ý nghĩa 79
3.2.5.2. Nội dung và cách thức thực hiện 79
3.2.6. Cải tiến công tác đánh giá ĐNGV 81
3.2.6.1. Mục đích, ý nghĩa 81
3.2.6.2. Nội dung và cách thức thực hiện 81
3.2.7. Đảm bảo chế độ, chính sách đãi ngộ và thực hiện các biện pháp thu hút ĐNGV . 82
3.2.7.1. Mục đích, ý nghĩa 82
3.2.7.2. Nội dung và cách thức thực hiện 83
3.2.8. Xây dựng nhà trường thành tổ chức biết học hỏi, tạo dựng môi trường
làm việc “chuyên nghiệp, thân thiện ” 84
3.2.8.1. Mục đích, ý nghĩa 84
3.2.8.2. Nội dung và cách thức thực hiện 85
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp để phát triển đội ngũ giảng viên. 87
3.4. Khảo nghiệm mức độ cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp 88
Tiểu kết chương 3 90
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 91
1. Kết luận 91
2. Khuyến nghị 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC 97


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng Nội dung Trang


Bảng 1.1. Sơ đồ quản lý nguồn nhân lực 19
Bảng 2.1. Tổng số sinh viên trúng tuyển và nhập học trong 5 năm
gần đây (hệ chính quy)
42
Bảng 2.2. Thống kê số lượng người tốt nghiệp trong 5 năm gần đây 43
Bảng 2.3. Sơ đồ cơ cấu tổ chức hành chính trường Đại học Hòa Bình 45
Bảng 2.4. Kê, phân loại giảng viên cơ hữu theo trình độ, giới tính
và độ tuổi
48
Bảng 2.5. Số lượng giảng viên trực tiếp giảng dạy trong 5 năm
gần đây
48
Bảng 2.6. Kết quả đánh giá công tác xây dựng kế hoạch phát triển
ĐNGV trường Đại học Hòa Bình
49
Bảng 2.7. Kết quả đánh giá công tác tuyển chọn ĐNGV của
trường Đại học Hòa Bình
51
Bảng 2.8. Kết quả đánh giá công tác sử dụng ĐNGV của trường
Đại học Hòa Bình
52
Bảng 2.9. Kết quả đánh giá công tác đánh giá ĐNGV của trường
Đại học Hòa Bình
54
Bảng 2.10. Kết quả đánh giá công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV
của trường Đại học Hòa Bình
55
Bảng 2.11. Kết quả đánh giá công tác thực hiện chế độ, chính sách
đối với ĐNGVcủa trường Đại học Hòa Bình

58
Bảng 3.1. Kết quả đánh giá tính cấp thiết của các biện pháp phát
triển ĐNGV trường Đại học Hòa Bình
88
Bảng 3.2. Kết quả đánh giá tính khả thi của các biện pháp phát
triển ĐNGV trường Đại học Hòa Bình
89




1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỉ XXI là thế kỉ phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ; kỉ
nguyên của công nghệ thông tin và tự động hoátruyền thông. Nền kinh tế thế
giới phát triển mạnh mẽ theo xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, từng bước
chuyển dần sang nền kinh tế tri thức. Những biến đổi mạnh mẽ ấy đã tác động
không nhỏ vào hệ thống các giá trị xã hội, đặc biệt là công tác giáo dục - đào
tạo. Giải quyết thế nào cho hài hoà mối quan hệ giữa sự phát triển như vũ bão
của khoa học công nghệ với sự thích ứng chậm của Để giáo dục - đào tạo đáp
ứng được yêu cầu phát triển của xã hội để thực sự có được sự phát triển bền
vững đang là vấn đề bức thiết của cả loài ngườitất cả các nước.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 của Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong
đó, đổi mới cơ chế QLGD, phát triển đội ngũ giáo viên và CBQL là khâu then
chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo
đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp”.

Điều đó cho ta thấy, việc đầu tư cho giáo dục để nâng cao trình độ dân trí, đào
tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao của đất nước đã, đang được Đảng và
Nhà nước ưu tiên hàng đầu.
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định trực tiếp chất lượng và
hiệu quả giáo dục - đào tạo là chất lượng đội ngũ nhà giáo mà ở bậc đại học
chính là trình độ của ĐNGV được thể hiện qua năng lực giảng dạy và NCKH.
Trong những năm qua, những yêu cầu của đổi mới giáo dục đại học đã tác
động mạnh mẽ đến các trường đại học trong cả nước. Vì vậy, các trường đại
học ở nước ta đều có nhiều nỗ lực trong việc phát triển số lượng và nâng cao
trình độ của ĐNGV.
Trường Đại học Hòa Bình có sứ mạng đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, NCKH, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng yêu cầu của xã
Formatted: Not Highlight

2
hội theo chuẩn quốc tế. Từ đó, Trường Đại học Hòa Bình định ra mục tiêu cơ
bản là xây dựng Trường trở thành một trường đại học theo định hướng nghiên
cứu có uy tín trong khu vực, góp phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
Để hoàn thành được sứ mạng và mục tiêu của mình, trước hết nhà
trường phải xây dựng một đội ngũ nhân lực đủ mạnh đáp ứng nhu cầu đào tạo
nguồn nhân lực cho xã hội. Đó là đội ngũ CBGD, cán bộ nghiên cứu và
CBQL có năng lực, nhiệt tình, những người cùng nghĩ, cùng làm và cam kết
gắn bó lâu dài với nhà trường. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác
phát triển đội ngũ, đặc biệt là ĐNGV đối với sự phát triển của nhà trường,
trong những năm gần đây Trường Đại học Hòa Bình đặc biệt quan tâm đến
công tác này. Trường đã có những chiến lược và sách lược nhằm đạt mục tiêu
đào tạo nguồn nhân lực có đủ phẩm chất tài và đức phục vụ đất nước. Nhà
trường đặc biệt chú trọng đến việc phát triển ĐNGV cả về số lượng, chất
lượng và cơ cấu. Việc phát triển ĐNGV của nhà trường từ khi thành lập đến
nay đã đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên, công tác quản lý phát triển

ĐNGV của trường chưa hiệu quả.
Công tác xây dựng kế hoạch phát triển ĐNGV và công tác đánh giá
ĐNGV mới chỉ mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất dẫn đến hiệu quả
sử dụng đội ngũ chưa cao. Việc quy hoạch và phát triển ĐNGV chỉ mang tính
tình thế, tự phát, chưa có lộ trình cụ thể. Điều đó thể hiện rất rõ trong việc
thiếu hụt cán bộ giảng dạy ở một số giai đoạn trong quá trình xây dựng và
phát triển nhà trường. Hơn nữa, việc phát triển ĐNGV còn nhiều bất cập: số
lượng giảng viên về cơ bản được đảm bảo nhưng chất lượng đội ngũ chưa
đồng đều và chưa đáp ứng được mục tiêu đào tạo theo yêu cầu phát triển hiện
nay của kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhìn chung, ĐNGV của nhà trường có thế
giới quan khoa học, có trình độ học vấn, chuyên môn và năng lực giảng dạy
tốt. Nhiều giảng viên được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn ở nước ngoài tại
các trường đại học danh tiếng của thế giới. Nhưng hiện nay, ĐNGV của nhà
trường, đặc biệt ĐNGV trẻ, bản lĩnh chính trị, lý tưởng đào tạo thế hệ sinh

3
viên trẻ, lòng nhiệt huyết với nghề nghiệp và sự say mê trong công tác giảng
dạy, NCKH còn thiếu. Thêm vào đó, thái độ làm việc thiếu sự cầu tiến, họ
luôn tự cao, tự phụ. Trong khi đó, nghề nghiệp của người giảng viên đòi hỏi
phải có những chuẩn mực cao về xã hội và đạo đức, là tấm gương tốt cho sinh
viên nhưng thực tế khả năng giáo dục sinh viên ở ĐNGV trẻ còn rất non nớt,
thiếu kinh nghiệm. Vì vậy, phát triển ĐNGV luôn là vấn đề cần được đặc biệt
quan tâm.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Phát triển đội ngũ giảng
viên đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa
học tại trường Đại học Hòa Bình” làm nội dung nghiên cứu cho luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng ĐNGV và công tác
phát triển ĐNGV của trường Đại học Hòa Bình, đề xuất một sốcác biện pháp

phát triển ĐNGV để nhà trường nhanh chóng có được ĐNGV đảm bảo về
chất lượng, đồng bộ về cơ cấu nhằm từng bước phát triển nhà trường theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, ngang tầm với khu vực và thế giới đáp ứng
yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay của ngành giáo dục và của xã hội.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về Công tác phát triển ĐNGV
- Khảo sát, đánh giá thực trạng cCông tác phát triển ĐNGV trường Đại
học Hòa Bình.
- Đề xuất một sốcác biện pháp nhằm phát triển ĐNGV trường Đại học
Hòa Bình.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: ĐNGV của trường Đại học Hòa Bình.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Công tác phát triển ĐNGV của trường Đại học
Hòa Bình.

4
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Nội dung, quy trình, phương thức phát triển ĐNGV của Trường Đại
học Hòa Bình hiện nay?
- Biện pháp nào có thể được sử dụng để có thể đẩy mạnh công tác phát
triển ĐNGV và đem lại hiệu quả cao?
6. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụngsử dụng đồng bộ các biện pháp phát triển ĐNGV được đề
xuất trong luận văn thì có thểsẽ nâng cao hiệu quả công tác phát triển ĐNGV
đưa chất lượng ĐNGV lên một tầm cao mới, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo và NCKH, tạo động lực phát triển và ưu thế cạnh tranh tại
trường Đại học Hòa Bình
7. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu công tác phát triển ĐNGV trường Đại
học Hòa Bình.

- Khảo sát và sử dụng số liệu trong vòng 5 năm hoạt động, từ năm 2008
đến năm 2013.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu về
công tác phát triển ĐNGV để phân tích, tổng hợp các vấn đề lý luận và kế
thừa các nghiên cứu đã có.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, khảo sát bằng
phiếu hỏi, tổng kết kinh nghiệm, tham vấn chuyên gia.
- Phương pháp xử lý thông tin: Xử lý số liệu bằng thống kê toán học
SPSS để xử lý và phân tích các dữ liệu, các thông tin trong quá trình nghiên
cứu, điều tra, thu thập từ các phương pháp trên.
- Viết báo cáo tổng kết đánh giá, so sánh và đề xuất
9. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
9.1. Ý nghĩa lý luận

5
Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về công tác phát
triển ĐNGV của các trường đại học.
9.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đánh giá được thực trạng ĐNGV và công tác phát triển ĐNGV
của Trường để từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển ĐNGV của
Trường đáp ứng yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay của Trường, của ngành
giáo dục và của xã hội.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giảng viên.
Chương 2: Thực trạng đội ngũ giảng viên và công tác phát triển ĐNGV
của trường Đại học Hòa Bình.
Chương 3: Các biện pháp phát triển ĐNGV trường Đại học Hòa Bình

trong giai đoạn hiện nay.đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo và
nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Hòa Bình.

Formatted: Justified, Indent: Left: 0", First
line: 0.5", Right: 0"
Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Font: Not Bold
Formatted: Font: Not Bold

6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học công nghệ, của nền kinh tế tri thức
mà ở đó vai trò của giáo dục - đào tạo có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển toàn diện của mỗi quốc gia trong quá trình hôi nhập và toàn cầu hóa.
Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều đường lối, chính
sách phát triển giáo dục, tăng cường đầu tư cho giáo dục, xem đây là mũi
nhọn quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH: “Phát triển giáo dục đào
tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Trong hệ thống các
đường lối, chính sách phát triển giáo dục, đầu tư xây dựng và quản lý phát
triển đội ngũ nhà giáo có vai trò đặc biệt quan trọng. Với vị trí, vai trò chủ
đạo của mình, đội ngũ nhà giáo phải được thừa hưởng tất cả những chính
sách, ưu tiên của Nhà nước, phải được nghiên cứu đổi mới theo những thay

đổi của nền giáo dục.
Trong những năm gần đây, nhiều nghị quyết, đề án, giải pháp nhằm xây
dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo ở các cấp học, bậc học đã được nghiên
cứu và áp dụng rộng rãi như:
- Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL
giáo dục giai đoạn 2005-2010” ban hành theo Quyết định số 09/2005/QĐ-
TTg ngày 11 tháng 01 năm 2005 của Thủ tướng chính phủ.
- Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2005 của Thủ
tướng Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam
giai đoạn 2006- 2020.
Ở các trường đại học, cao đẳng cũng có nhiều công trình, đề tài nghiên
cứu về xây dựng, quản lý phát triển ĐNGV như tác giả Nguyễn Đức Toàn với
nghiên cứu “Những biện pháp phát triển ĐNGV tại Trường Cao đẳng Sư

7
phạm Ngô Gia Tự Bắc Giang trong giai hiện nay”, tác giả Nguyễn Văn Tuấn
với nghiên cứu “Một số biện pháp xây dựng và phát triển ĐNGV ở Trường
Đại học Công nghiệp Hà Nội”, Trịnh Thị Mai với luận văn “Phát triển ĐNGV
Trường Đại học Đại Nam giai đoạn 2011-2015”, Nguyễn Thị Quỳnh Lan với
đề tài “Các biện pháp phát triển ĐNGV của Viện Đại học Mở Hà Nội”.
Tại ĐHQGHN, các nhà QLGD, các nhà giáo cũng có những nghiên cứu
xoay quanh vấn đề quản lý nhân lực và quản lý ĐNGV, như luận văn “Thực
trạng và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý giảng viên trong
ĐHQGHN” của tác giả Phạm Văn Thuần, “Nâng cao chất lượng công tác quy
hoạch và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở Trường ĐHNN -
ĐHQGHN” của tác giả Nguyễn Xuân Uyên, “Hoàn thiện quy trình quản lý
ĐNGV của Trường ĐHNN - ĐHQGHN” của tác giả Trần Hoa Anh. Bài viết
“Về đội ngũ nữ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu ở ĐHQGHN” của tác giả
Nguyễn Thị Bảo Ngọc.
Như vậy, đội ngũ nhà giáo, đặc biệt là ĐNGV luôn giành được sự quan

tâm sâu sắc của các cấp, các ngành, các nhà quản lý và các nhà giáo dục. Điều
đó một lần nữa lại được khẳng định trong Báo cáo trước Quốc hội ngày
07/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân:
“Nhà giáo và CBQL giáo dục là những người trực tiếp thực hiện vì vậy giữ
vai trò quyết định trực tiếp đến chất lượng và sự phát triển của hệ thống giáo
dục quốc dân” và Tổ chức văn hoá giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO):
“Mọi cuộc cải cách giáo dục đều bắt đầu từ người giáo viên”.
Như vậy, vấn đề xây dựng, phát triển và quản lý ĐNGV có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với sự phát triển của các cơ sở giáo dục đại học nói riêng
và của ngành Giáo dục & Đào tạo nói chung, luôn giành được sự quan tâm
của các cấp, các ngành, các nhà khoa học, các nhà quản lý, các nhà giáo tâm
huyết với sự nghiệp trồng người. Các công trình nghiên cứu là tài sản kiến
thức quý báu góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhân lực nói
chung và quản lý phát triển ĐNGV nói riêng ở các trường đại học, cao đẳng.

8
Các nghiên cứu đã đề xuất nhiều giải pháp khác nhau trong việc xây dựng,
quản lý và phát triển ĐNGV cho các cơ sở giáo dục đại học ở những góc độ,
mục tiêu, hoàn cảnh và bình diện khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài:
“Phát triển đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào
tạo và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Hòa Bình” với mong muốn
đưa ra được một số biện pháp có hiệu quả phù hợp nhằm nâng cao chất lượng
ĐNGV của Trường đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Giảng viên
Trong bối cảnh của giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
hiện nay, lao động của nhà giáo trực tiếp đáp ứng nhu cầu về nhân lực, nhân
tài và dân trí cho xã hội. Lao động của nhà giáo không chỉ có ý nghĩa xã hội
sâu sắc mà còn chứa đựng ý nghĩa kinh tế lớn lao. Vì vậy, có thể khẳng định
những vấn đề kinh tế- xã hội và chính trị của quốc gia sẽ không giải quyết

được nếu không phát triển giáo dục, phát triển Nhà trường mà hạt nhân của nó
là nhà giáo.
Theo Mục 3 Điều 70 Luật Giáo dục: “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo
dục đại học gọi là giảng viên. [18, tr.22.].
Định nghĩa này được cụ thể hóa tại Điều 54 Luật Giáo dục đại học:
“Giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học là người có nhân thân rõ ràng; có
phẩm chất, đạo đức tốt; có sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt trình độ về
chuyên môn, nghiệp vụ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 77 của Luật giáo dục.
Chức danh của giảng viên bao gồm trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính, phó
giáo sư, giáo sư. Trình độ đạt chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình
độ đại học là thạc sĩ trở lên. Trường hợp đặc biệt ở một số ngành chuyên môn
đặc thù do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. [20, tr.23.].
Giảng viên: Đối với giảng viên, viên chức chuyên môn đảm nhiệm
việc giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một chuyên ngành
đào tạo của trường Đại học hoặc Cao đẳng, yêu cầu về trình độ bao gồm:

9
- Có bằng cử nhân trở lên
- Đã qua thời gian tập sự giảng viên theo quy định hiện hành
- Có ít nhất hai chứng chỉ bồi dưỡng sau đại học: chương trình chính
trị, triết học nâng cao cho nghiên cứu sinh và cao học, chứng chỉ những vấn
đề cơ bản về tâm lý học và lý luận dạy học ở bậc đại học.
- Sử dụng được một ngoại ngữ trong chuyên môn ở trình độ B
Giảng viên chính: Giảng viên chính là viên chức chuyên môn đảm
nhiệm vai trò chủ chốt trong giảng dạy và đào tạo bậc đại học và sau đại học
thuộc một chuyên ngành đào tạo của trường đại học. Tiêu chuẩn để công nhận
là một giảng viên chính bao gồm:
- Có bằng thạc sỹ trở lên
- Có thâm niên ở ngạch giảng viên ít nhất là 9 năm
- Sử dụng được một ngoại ngữ trong chuyên môn ở trình độ C

- Có đề án hoặc công trình sáng tạo được cấp khoa và trường công nhận
và được áp dụng có kết quả trong công việc.
Giảng viên cao cấp: Giảng viên cao cấp là viên chức có chuyên môn
cao nhất đảm nhiệm vai trò chủ trì, tổ chức chỉ đạo, thực hiện giảng dạy và
đào tạo bậc đại học và sau đại học, chuyên trách giảng dạy về một chuyên
ngành đào tạo ở trường đại học. Đây là đội ngũ nòng cốt trong quá trình giảng
dạy, giữ vai trò chủ đạo trong công tác chuyên môn và đảm nhiệm các công
việc đòi hỏi có chuyên môn và nghiệp vụ cao, chủ trì các hoạt động khoa học,
là tiêu biểu cho phương hướng phát triển mới của bộ môn. Yêu cầu với giảng
viên cao cấp bao gồm:
- Có bằng tiến sỹ về chuyên ngành đào tạo
- Là giảng viên chính có thâm niên giảng dạy ở ngạch tối thiểu là 6 năm
- Có trình độ lý luận chính trị cao cấp
- Sử dụng được hai ngoại ngữ để phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa
học và giao tiếp quốc tế (ngoại ngữ thứ nhất tương đương với trình độ C,
ngoại ngữ thứ hai tương đương với trình độ B).

10
- Có tối thiểu 03 công trình khoa học sáng tạo được hội đồng khoa học
trường đại học hoặc chuyên ngành công nhận và đưa vào áp dụng có hiệu quả.
1.2.2. Đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên là tập hợp những người làm nghề dạy học, giáo dục,
được tổ chức thành một lực lượng, cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các
mục tiêu giáo dục đã đè ra cho tập hợp đó. Họ làm việc có kế hoạch và gắn bó
với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ quy định
của pháp luật, thể chế xã hội.
Nói cách khác, đội ngũ giảng viên là những thầy cô giáo, những người
làm nhiệm vụ giảng dạy và quản lý giáo dục trong các trường đại học, cao
đẳng, bồi dưỡng cán bộ.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, đội ngũ là “tổ chức gồm nhiều người tập

hợp lại thành một lực lượng”, là “tập hợp số đông người cùng chức năng,
nghề nghiệp.” [25, tr.659].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, đội ngũ là một tập thể người gắn kết với
nhau, cùng chung lý tưởng, mục đích, ràng buộc nhau về vật chất, tinh thần và
hoạt động theo một nguyên tắc. [3, tr.47]
Với nhiều cách diễn đạt khác nhau, các định nghĩa đều khẳng định đội
ngũ là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực
hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nhau về
công việc nhưng cùng chung một mục đích nhất định và cùng hướng tới mục
đích đó. Có nhiều danh từ gắn với khái niệm “đội ngũ”: đội ngũ cán bộ, đội
ngũ tri thức, đội ngũ nhà giáo nhưng tựu trung lại, ta thấy đội ngũ của một tổ
chức chính là nguồn nhân lực trong tổ chức đó. Từ cách diễn đạt về khái niệm
“đội ngũ” trên, có thể suy rộng ra khái niệm “đội ngũ giảng viên” là tập hợp
các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy và NCKH ở các cơ sở giáo dục đại học
gắn kết với nhau bằng hệ thống mục tiêu giáo dục. Tập hợp giảng viên của
một trường đại học được gọi là ĐNGV của trường đó. Khi nói đến ĐNGV ta
phải hiểu và xem xét trên quan điểm hệ thống. Đó không phải là một tập hợp

11
rời rạc mà các thành tố trong đó có mối quan hệ lẫn nhau, bị ràng buộc bởi
những cơ chế nhất định. Vì vậy, mỗi tác động vào thành tố đơn lẻ của hệ
thống vừa có ý nghĩa cục bộ, vừa có ý nghĩa trên toàn thể.
1.2.3. Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của giảng viên đại học
1.2.3.1. Vai trò của giảng viên
Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục nói chung
và người thầy giáo nói riêng. Đây là nhân tố hết sức quan trọng và là nhân tố
quyết định cho sự nghiệp phát triển giáo dục ở nước ta.
Ngay từ những năm đầu hoà bình mới lập lại ở miền Bắc, tại lớp đào
tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I ngày 12 tháng 6 năm 1956, Bác Hồ đã
nói: Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo

thì không có giáo dục". Trong lần về thăm Trường Đại học Sư phạm Hà nội
ngày 21 tháng 10 năm 1964, Bác đã nói về tầm quan trọng của người thầy
giáo và phẩm chất người thầy giáo trong sự nghiệp giáo dục. Bác nói: "Thầy
cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên, phải thật thà yêu nghề mình, thật
thà yêu trường mình. Có gì vẻ vang hơn là đào tạo những thế hệ sau này tích
cực xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người thầy giáo tốt,
người thầy giáo xứng đáng là người thầy vẻ vang nhất, dù tên tuổi không
đăng trên báo, không được thưởng huân chương. Song những người thầy giáo
tốt là những người anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang, nếu không
có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội được. Vì vậy nghề thầy giáo rất quan trọng, rất vẻ vang. Ai có ý kiến
không đúng về nghề thầy giáo thì phải sữa chữa.
Hiện nay ở các trường đại học lớn ở các quốc gia phát triển, giảng viên
đại học được định nghĩa trong ba chức năng chính: Nhà giáo, Nhà khoa học,
và Nhà cung ứng dịch vụ cho cộng đồng. Giảng viên = Nhà giáo + Nhà khoa
học + Nhà cung ứng dịch vụ
Giảng viên là nhà giáo: Đây là vai trị truyền thống, nhưng quan trọng
và tiên quyết đối với một giảng viên. Một giảng viên giỏi trước hết phải là

12
một người Thầy giỏi. Thế nào là một người thầy giỏi? Đó là một người uyên
bác về kiến thức chuyên ngành mà mình giảng dạy? Đúng nhưng chưa đủ,
uyên bác về kiến thức chuyên môn mới chỉ là điều kiện cần, chứ chưa phải
điều kiện đủ cho một thầy giáo giỏi.
Theo các nhà giáo dục thế giới thì một giảng viên tòan diện là người có
(được trang bị) 4 nhóm kiến thức/ kỹ năng sau:
Kiến thức chuyên ngành: kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành và
chuyên môn học mà mình giảng dạy. Tuy nói rằng đây là điều kiện cần và
tiên quyết, nhưng hiện nay do lực lượng giảng viên mỏng, ở khá nhiều
trường, các giảng viên phải giảng dạy cùng một lúc nhiều môn học (dù có thể

cùng một chuyên ngành hẹp) dẫn đến việc ngay cả kiến thức chuyên môn sâu
cũng chưa đảm bảo.
Kiến thức về chương trình đào tạo: tuy mỗi giảng viên đều đi chuyên
về một chuyên ngành nhất định, nhưng để đảm bảo tính liên thông, gắn kết
giữa các môn học thì giảng viên phải được trang bị (hoặc tự trang bị) các kiến
thức về cả chương trình giảng dạy. Những kiến thức này quan trọng vì nó cho
biết vị trí của chúng ta trong bức tranh tổng thể, nó cung cấp thông tin về vai
trị và sự tương tác giữa một chuyên ngành với các chuyên ngành khác trong
cùng một lĩnh vực và kể cả giữa các chuyên ngành trong các lĩnh vực khác
nhau. Khối kiến thức này quan trọng vì nếu không biết được vị trí và các
tương tác trong bức tranh tổng thể, kiến thức chuyên ngành hẹp cung cấp cho
sinh viên trở nên khô cứng và có độ ứng dụng thấp.
Xu hướng đào tạo đại học hiện nay là đào tạo chuyên sâu kết hợp với
cung cấp tư duy liên ngành, đa ngành, đa lĩnh vực (và đa văn hóa) vì chính
những kiến thức này sẽ giúp người lao động thích nghi tốt trong các bối cảnh
làm việc nhóm, dự án mà ở đó họ sẽ phải cộng tác với cá nhân từ các chuyên
ngành rất khác biệt để cùng nhau giải các bài toán đa lĩnh vực.
Kiến thức và kỹ năng về dạy và học: bao gồm khối kiến thức về phương
pháp luận, kỹ thuật dạy và học nói chung và dạy/ học trong từng chuyên ngành

13
cụ thể. Bên cạnh phương pháp chung thì mỗi chuyên ngành (thậm chí từng
môn học hoặc cùng môn học nhưng khác đối tượng học) đều có những đặc thù
riêng biệt đòi hỏi phải có những phương pháp tiếp cận khác nhau.
Hiện nay chúng ta đang coi thường khối kiến thức này. Mặc dù để trở
thành giảng viên chính thức, các giảng viên đại học đều phải học và thi các
môn học về lý luận về phương pháp giảng dạy đại học. Tuy nhiên, quan sát
cho thấy nội dung và phương pháp giảng dạy của bản thân nhóm môn học này
cũng đều khá cổ điển, không được thường xuyên cập nhật và xa rời với thực
tiễn giảng dạy đại học nói chung và giảng dạy trong từng chuyên ngành nhỏ

nói riêng. Để thay đổi diện mạo và chất lượng dạy và học hiện nay ở các
trường đại học, cần đầu tư nhiều hơn để nâng cấp phương pháp và kỹ thuật
giảng dạy của giảng viên.
Kiến thức về môi trường giáo dục, hệ thống giáo dục, mục tiêu giáo
dục, giá trị giáo dục… Đây có thể coi là khối kiến thức cơ bản nhất làm nền
tảng cho các hoạt động dạy và học. Chỉ khi mỗi giảng viên hiểu rõ được các
sứ mệnh, giá trị cốt lõi, và các mục tiêu chính của hệ thống giáo dục và môi
trường giáo dục thì việc giảng dạy mới đi đúng định hướng và có ý nghĩa xã
hội. Sự quay lưng, hay không nắm chắc những giá trị gốc của một nền giáo
dục dẫn đến những lệch lạc trong văn hóa giáo dục. Từ chuyện quay cóp
trong thi cử, vi phạm bản quyền trong học tập và nghiên cứu, tính phi dân chủ
trong khoa học đến thái độ học tập và thái độ ứng xử công dân trong cuộc
sống đều không được truyền thông đầy đủ và khắc họa đúng mực. Thực tế,
giảng viên đại học không trực tiếp dạy đạo đức nhưng phải xác lập được cho
sinh viên nhận thức đúng đắn về các giá trị gốc của giáo dục và đạo đức, mà
cụ thể là đạo đức trong từng nghề nghiệp cụ thể.
Mặt khác kiến thức về hệ thống giáo dục, sứ mệnh và các mục tiêu gio
dục còn là kim chỉ nam cho giảng viên trong soạn bài giảng, giáo trình, lựa
chọn phương pháp giảng dạy cho những đối tượng người học khác nhau. Tình
trạng khá phổ biến của các giảng viên là không phân biệt đối tượng trong

14
giảng dạy, một bộ giáo trình một bài giảng cho cả cao đẳng, đại học, thậm chí
cả sau đại học. Điều này một phần do quán tính, phần khác do không nắm
được sự khác biệt trong mục tiêu đào tạo của từng loại hình.
Giảng viên là nhà khoa học: Ở vai trị thứ hai này, giảng viên thực
hiện vai trò nhà khoa học với chức năng giải thích và dự báo các vấn đề
của tự nhiên và xã hội mà loài người và khoa học chưa có lời giải. Nghiên
cứu khoa học, tìm cách ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học về thực
tiễn đời sống và công bố các kết quả nghiên cứu cho cộng đồng (cộng đồng

khoa học, xã hội nói chung, trong nước và quốc tế) là ba chức năng chính
của một nhà khoa học. Từ đây có hai xu hướng nghiên cứu chính: nghiên
cứu cơ bản (basic research) và nghiên cứu ứng dụng (applied research).
Khác với nghiên cứu cơ bản mang tính giải thích và dự báo các vấn đề
chưa khai phá của tự nhiên và xã hội, nghiên cứu ứng dụng là loại nghiên
cứu hướng đến việc ứng dụng các kết quả của nghiên cứu cơ bản vào giải
quyết các vấn đề cụ thể của xã hội. Thông thường nghiên cứu cơ bản được
coi là vai trị chính của các giảng viên đại học. Còn nghiên cứu ứng dụng
mang tính công nghệ thường là kết quả của mối liên kết giữa các nhà khoa
học và nhà ứng dụng (các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội). Do vậy
nghiên cứu ứng dụng thường có màu sắc của các dự án tư vấn được đặt
hàng bởi cộng đồng doanh nghiệp (và do doanh nghiệp tài trợ). Trong bối
cảnh hiện nay, khi chưa có nhiều điều kiện đầu tư cho nghiên cứu cơ bản,
chúng ta cần có chiến lược tận dụng kết quả nghiên cứu cơ bản của các
quốc gia tiên tiến. Do vậy, có thể trong giai đoạn hiện nay, chúng ta nên
khuyến khích các giảng viên đại học thực hiện các nghiên cứu mang tính
tổng kết lý thuyết ngành (literature review) và tìm ra những hướng ứng
dụng của các lý thuyết này. Thực tế tổng kết lý thuyết là công việc đầu tiên
và hết sức quan trọng của mỗi nhà nghiên cứu, nó mang lại những kiến
thức hết sức quan trọng về thành tựu khoa học trong từng chuyên ngành và
các định hướng nghiên cứu của từng ngành.

15
Nghiên cứu khoa học phải đi kèm với công bố kết quả nghiên cứu.
Điều này có hai ý nghĩa. Thứ nhất, công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp
chí chuyên ngành uy tín chính là thước đo chất lượng có ý nghĩa nhất đối với
một công trình nghiên cứu. Thứ hai, chỉ khi được công bố rộng rãi và đi vào
ứng dụng nghiên cứu khoa học mới hoàn thành sứ mệnh xã hội của mình. Và
như vậy trong vai trị nhà khoa học, giảng viên đại học không chỉ phải nắm
vững kiến thức chuyên môn, phương pháp nghiên cứu mà còn phải có kỹ

năng viết báo khoa học.
Giảng viên là nhà cung ứng dịch vụ cho xã hội: Đây là một vai trò mà
rất nhiều giảng viên đại học Việt Nam đang thực hiện, nó cũng là một vai trị
mà xã hội đánh giá cao và kỳ vọng ở các giảng viên. Ở vai trị này, giảng viên
cung ứng các dịch vụ của mình cho nhà trường, cho sinh viên, cho các tổ chức
xã hội – đoàn thể, cho cộng đồng và cho xã hội nói chung. Cụ thể đối với nhà
trường và sinh viên, một giảng viên cần thực hiện các dịch vụ như tham gia
công tác quản lý, công việc hành chính, tham gia các tổ chức xã hội, cố vấn
cho sinh vinh, liên hệ thực tập, tìm chỗ làm cho sinh viên… Với ngành của
mình, giảng viên làm phản biện cho các tạp chí khoa học, tham dự v tổ chức
các hội thảo khoa học.
Đối với cộng đồng, giảng viên trong vai trị của một chuyên gia cũng
thực hiện các dịch vụ như tư vấn, cung cấp thông tin, viết báo. Trong chức
năng này, giảng viên đóng vai trị là cầu nối giữa khoa học và xã hội, để đưa
nhanh các kiến thức khoa học vào đời sống cộng đồng. Viết báo thời sự (khác
với báo khoa học) là một chức năng khá quan trọng và có ý nghĩa lớn trong
việc truyền bá kiến thức khoa học và nâng cao dân trí.
Vai trò nhà giáo được Quốc hội nước ta khẳng định trong điều 15 luật
giáo dục năm 2005: "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất
lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nêu gương tốt
cho người học. Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, có chính sách
sử dụng, đãi ngộ, đảm bảo các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để

16
nhà giáo thực hiện vai trò và trách nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy
truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học"[37,tr.6].
Vậy giảng viên giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng
đào tạo, cụ thể là chất lượng của sản phẩm đầu ra đáp ứng những yêu cầu của
sự phát triển kinh tế- xã hội trong thời đại ngày nay.
Với vai trò quan trọng như vậy của đội ngũ giảng viên đã trở thành một

đòi hỏi tất yếu là các trường Đại học, Cao đẳng phải xây dựng một đội ngũ
giảng viên có trình độ chuyên môn cao, năng lực giảng dạy tốt, tận tâm với
nghề nghiệp, trung thành với tổ quốc, có khả năng thích ứng cao đủ sức gánh
vác trọng trách phát triển và đổi mới giáo dục Đại học, Cao đẳng trong giai
đoạn mới.
1.2.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của giảng viên
Tại Điều 72 và Điều 73 Luật Giáo dục 2005 của nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã quy định về nhiệm vụ của nhà giáo như sau:
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy
đủ và có chất lượng chương trình giáo dục;
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật
và điều lệ nhà trường;
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách
của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích
chính đáng của người học;
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình
độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu
gương tốt cho người học;
- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Cụ thể tại Điều 27 và Điều 28 Điều lệ trường cao đẳng quy định về
nghĩa vụ của giảng viên trường cao đẳng như sau:
- Giảng dạy theo đúng nội dung, chương trình đã được Bộ Giáo dục và
Đào tạo và nhà trường quy định; viết giáo trình, phát triển tài liệu phục vụ
giảng dạy học tập theo sự phân công của trường, khoa, bộ môn;

17
- Chịu sự giám sát của các cấp quản lý về chất lượng, nội dung, phương
pháp giảng dạy và nghiên cứu khoa học; Tham gia hoặc chủ trì các đề tài
nghiên cứu khoa học, ứng dụng chuyển giao công nghệ theo sự phân công của
trường, khoa, bộ môn;

- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách
của người học, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người học,
hướng dẫn người học trong học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện tư tưởng,
đạo đức tác phong, lối sống;
- Không ngừng tự bồi dưỡng nghiệp vụ, cải tiến phương pháp giảng
dạy để nâng cao chất lượng đào tạo;
- Hoàn thành tốt các công tác khác được trường, khoa, bộ môn giao.
1.2.4. Phát triển và phát triển nguồn nhân lực
Theo tác giả Nguyễn Như Ý, phát triển là vận động, tiến triển theo
chiều hướng tăng lên. [25, tr.1321].
Theo quan điểm triết học, phát triển là một quá trình vận động từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp theo đó cái cũ biến mất và cái mới ra đời.
[23, tr.142].
Nói một cách khái quát, phát triển là sự vận động đi lên của mọi sự vật
và hiện tượng tuân theo những quy luật nội tại khách quan của chúng. Mọi sự
vật, hiện tượng, con người, xã hội hoặc là biến đổi để tăng tiến về số lượng,
thay đổi về chất lượng hoặc dưới tác động bên ngoài làm cho biến đổi tăng
tiến đều được coi là sự phát triển.
Khái niệm “nguồn nhân lực” ( Humman resources) được sử dụng nhiều
hơn vào thập kỷ 60 của thế kỷ XX ở nhiều nước phương Tây và một số nước
châu Á, khi khoa học “ quản trị nguồn nhân lực”phát triển. Hiện nay khái
niệm này được sử dụng khá rộng rãi để chỉ vai trò và vị trí con người trong sự
phát triển kinh tế, xã hội. Ở nước ta, khái niệm “ nguồn nhân lực” được nhắc
đến nhiều kể từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa
có tài liệu chính thức nào đưa ra định nghĩa “nguồn nhân lực”, mặc dù có

18
nhiều nghiên cứu và bài viết về nguồn nhân lực con người, về tài nguyên con
người . Nguồn nhân lực (NNL) là yếu tố quan trọng hàng đầu trong lực lượng
sản xuất. Với vai trò quyết định sự phát triển và tiến bộ của toàn xã hội. Trong

các lý thuyết về “vốn” , về “tăng trưởng”, thì NNL đều được coi là yếu tố
hàng đầu, đảm bảo cho sự phát triển sản xuất và dịch vụ. Có nhiều cách tiếp
cận khái niệm NNL dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, được nghiên cứu dưới
nhiều khía cạnh khác nhau.
-Với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội thì nguồn nhân
lực bao gồm toàn bộ dân cư trong xã hội có khả năng lao động.
-Với tư cách là yếu tố của sự phát triển kinh tế-xã hội thì nguồn nhân
lực là khả năng lao động của xã hội.
-Với tư cách là tổng thể cá nhân những con người cụ thể tham gia vào
quá trình lao động thì nguồn nhân lực bao gồm cả yếu tố thể lực và trí lực của
những người từ 15 tuổi trở lên.
Định nghĩa trên mới phản ánh về mặt số lượng chưa nói lên mặt chất
lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện trên các khía
cạnh: sức khỏe, trình độ học vấn, kiến thức, trình độ kỹ thuật và kinh nghiệm
tích lũy được, ý thức tác phong của người lao động
1.2.5. Quản lý nguồn nhân lực
Gồm những hoạt động tiến hành triển khai dự báo theo nhu cầu nguồn
nhân lực: sắp xếp, quản lý, lựa chọn, bồi dưỡng, tuyển dụng, thuyên
chuyển, tiền lương, đãi ngộ, nâng cao hiệu quả hoạt động và sa thải trong quá
trình đào tạo nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược đề ra.
Hệ thống quản lý NNL trong một tổ chức giống như hệ thống mạch
máu của cơ thể con người. Không có hệ thống này thì các tổ chức không tồn
tại, vận hành và phát triển. Thiếu NNL hay quản lý NNL không hiệu quả dẫn
đến tình trạng hoạt động của đơn vị yếu kém, sự phối hợp trong hoạt động
quản lý không đồng bộ. Vì vậy quản lý NNL giúp cho người quản lý tuyển

19
mộ, lựa chọn, huấn luyện và phát triển đội ngũ các thành viên của tổ chức
theo kế hoạch, tiêu chí.

Trong hệ thống giáo dục - đào tạo, quản lý nguồn nhân lực chính là
quản lý đội ngũ nhà giáo. Nguồn nhân lực trong trường đại học có hai bộ
phận: Cán bộ viên chức và hợp đồng lao động. Căn cứ vào nhiệm vụ được
giao thì NNL được chia làm ba bộ phận: Nhà giáo, Cán bộ quản lý hành chính
và cán bộ phục vụ giảng dạy giữa các bộ phận này có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Đội ngũ nhà giáo được xây dựng và phát triển về chất lượng đào tạo
nhằm đáp ứng mọi yêu cầu xã hội.
Bảng 1.1 Sơ đồ quản lý nguồn nhân lực












1.2.6.4. Phát triển đội ngũ giảng viên
1.2.4.1. Phát triển đội ngũ giảng viên
Phát triển đội ngũ là phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng, đảm
bảo cơ cấu đội ngũ, là việc tạo ra các giá trị mới cho đội ngũ để đội ngũ được
thay đổi, hoàn thiện theo một chiều hướng tích cực. Phát triển có thể coi là
trọng tâm của công tác quản lý vì xét cho cùng chức năng chủ yếu của quản lý
là tạo ra sự ổn định và phát triển.
Nét đặc trưng của phát triển là hình thức xoáy trôn ốc và theo các chu
kỳ, việc hoàn thành một chu kỳ lại là cố hữu, là nền tảng cho một chu kỳ mới
- Mở rộng chủng

loại việc làm
- Mở rộng quy mô
việc làm
- Phát triển tổ
chức
Quản lý nguồn nhân lực
Phát triển
nguồn nhân lực
Sử dụng
nguồn nhân lực
Môi trường
nguồn nhân lực
- Giáo dục
- Đào tạo
- Bồi dưỡng
- Phát triển
-Tự học,
tựnghiên cứu-
- Tuyển dụng
- Sàng lọc
- Bố trí
- Sử dụng
- Đánh giá
- Đãi ngộ
- Mở rộng chủng
loại việc làm
- Mở rộng quy mô
việc làm
- Phát triển tổ
chức

Quản lý nguồn nhân lực
Phát triển
nguồn nhân lực
Sử dụng
nguồn nhân lực
Môi trường
nguồn nhân lực
- Giáo dục
- Đào tạo
- Bồi dưỡng
- Phát triển
-Tự học,
tựnghiên cứu-
- Tuyển dụng
- Sàng lọc
- Bố trí
- Sử dụng
- Đánh giá
- Đãi ngộ


20
trong đó có sự lặp lại của một số đặc điểm của chu kỳ trước đó.
Tóm lại, mọi sự vật hiện tượng, con người, xã hội có sự thăng tiến về
mặt số lượng, chất lượng dưới tác động của các yếu tố bên ngoài được gọi là
sự phát triển
ĐNGV là nguồn lực cơ bản của các cơ sở giáo dục đại học. Phát triển
ĐNGV chính là phát triển nguồn lực trong nhà trường, là tạo ra sự tăng
trưởng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Tùy theo cách tiệp cận khác
nhau về phát triển ĐNGV mà chúng ta có những quan niệm khác nhau về

phát triển ĐNGV.
Phát triển ĐNGV là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công
tác quản lý phát triển nhà trường. Mục tiêu của phát triển ĐNGV là nhằm
hoàn thiện người giảng viên trong hoạt động nghề nghiệp. Ở cách tiếp cận hẹp
trong môi trường giáo dục, cụ thể là trong quản lý nhà trường thì khái niệm
phát triển ĐNGV được hiểu là chăm lo cho ĐNGV đủ về số lượng, mạnh về
chất lượng và phù hợp về cơ cấu.
Phát triển đội ngũ giảng viên theo yêu cầu thực hiện nhiệm vụ giảng
dạy cần phải chú trọng trên cả hai phương diện:
Số lượng: việc phát triển đủ số lượng giảng viên cần thiết để đảm bảo
số giờ giảng dạy của giảng viên đảm bảo không vượt quá số giờ quy định theo
Thông thư số 36/2010/TT ngày 15/12/2010 của Bộ giáo dục và Đào tạo về
việc sửa đổi bổ sung một số điều quy định về chế độ làm việc đối với giảng
viên ban hành theo quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28/11/2008 của
Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo và thông tư liên tịch số 06/2011/TTLT-
BNV ngày 06/6/2011 của Bộ nội vụ và Bộ giáo dục và Đào tạo “ quy định
tiêu chuẩn, nhiệm vụ, chế độ làm việc, chính sách đối với giảng viên tại cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơ quan ngang Bộ,cơ quan thuộc Chính phủ,
trường Chính trị tỉnh trực thuộc thành phố trung ương ”
Khung định mức giờ chuẩn giảng dạy được quy đổi từ quỹ thời gian
giảng dạy cho từng chức danh quy định như sau:

21
- Giảng viên: 280 giờ chuẩn;
- Giảng viên chính:300 giờ chuẩn;
- Giảng viên cao cấp: 320 giờ chuẩn.
Chất lượng: Chất lượng của trường /khoa không chỉ dựa vào chương
trình đào tạo, mà còn phải dựa vào chất lượng của giảng viên. Chất lượng của
giảng viên bao gồm trình độ bằng cấp chuyên môn, thành thạo về môn học,
kinh nghiệm, kỹ năng giảng dạy và đạo đức nghề nghiệp. Cán bộ giảng dạy

bao gồm tất cả giáo sư, giảng viên, giảng viên thỉnh giảng cả bán thời gian và
toàn thời gian. Bộ hướng dẫn đảm bảo chất lượng AUN (AUN-QA
guidelines) đặt ra các tiêu chí để đảm bảo chất lượng cán bộ giảng dạy. Chúng
ta phải xem lại rằng trường đã đáp ứng được các tiêu chí này tới mức độ nào.
Vì thế, chúng ta phải nhìn lại lực lượng cán bộ (số lượng) và chất lượng bằng
cấp chuyên môn của họ.
1.3. Các yêu cầu của việc phát triển đội ngũ giảng viên
Phát triển đội ngũ là phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng, đảm
bảo cơ cấu đội ngũ, là việc tạo ra các giá trị mới cho đội ngũ để đội ngũ được
thay đổi, hoàn thiện theo một chiều hướng tích cực. Phát triển có thể coi là
trọng tâm của công tác quản lý vì xét cho cùng chức năng chủ yếu của quản lý
là tạo ra sự ổn định và phát triển.
ĐNGV là nguồn lực cơ bản của các cơ sở giáo dục đại học. Phát triển
ĐNGV chính là phát triển nguồn lực trong nhà trường, là tạo ra sự tăng
trưởng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Tùy theo cách tiệp cận khác
nhau về phát triển ĐNGV mà chúng ta có những quan niệm khác nhau về
phát triển ĐNGV.
Phát triển ĐNGV là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công
tác quản lý phát triển nhà trường. Mục tiêu của phát triển ĐNGV là nhằm
hoàn thiện người giảng viên trong hoạt động nghề nghiệp. Ở cách tiếp cận hẹp
trong môi trường giáo dục, cụ thể là trong quản lý nhà trường thì khái niệm
phát triển ĐNGV được hiểu là chăm lo cho ĐNGV đủ về số lượng, mạnh về

×