Tải bản đầy đủ (.pdf) (360 trang)

Về loại từ tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.92 MB, 360 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM


LÊ NI LA


VỀ LOẠI TỪ TIẾNG VIỆT


Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS. HOÀNG DŨNG


Thành phố Hồ Chí Minh - 2008


1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ lâu việc nghiên cứu từ loại đã được xem là một lónh vực cốt yếu của
nghiên cứu ngữ pháp, có giá trò không chỉ về mặt lí luận mà còn có giá trò thực
tiễn cao, góp phần vào việc biên soạn từ điển, sách giáo khoa, giáo trình, giảng
dạy… Các công trình về từ loại càng đặc biệt quan trọng và hứa hẹn nhiều khám
phá thú vò đối với những ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt, nhằm giải toả những


sai lầm mắc phải do lối nghiên cứu “dó Âu vi trung” thònh hành trước đây, cũng
như giúp sáng tỏ nhiều vấn đề khác về ngữ nghóa, ngữ dụng.
1.1. Một trong những nguyên lí cơ bản của ngôn ngữ được ngôn ngữ học
đại cương chỉ ra là trong vốn từ của các ngôn ngữ khác nhau không mấy khi có sự
tương ứng một đối một. Chẳng hạn, khi so sánh cách gọi tên các sự vật hiện
tượng của tiếng Việt với một số ngôn ngữ biến hình như tiếng Anh, tiếng Pháp,
ta nhận thấy người Việt thường sử dụng nhiều ngữ khác nhau cho cùng một danh
từ trong tiếng Anh và tiếng Pháp:
Tiếng Việt Tiếng Anh Tiếng Pháp
1. Tuần sau tôi phải đi
chụp hình
(để làm thẻ).

2. Tôi thích tấm hình
này.
3. Tôi thích bức hình
này.
1. I’ll get my photos

taken next week.

2. I like this photo
.
3. I like this photo
.
1. La semaine prochaine,
je vais prendre des photos

(de portrait).
2. Oh, J'aime cette photo

.
3. Oh, J'aime cette photo
.
Không chỉ có tấm, bức, trong tiếng Việt, tồn tại cả một lớp từ như cái, con,
đứa, miếng, v.v. có khả năng tạo ra nhiều tổ hợp danh từ khác nhau để gọi tên
cùng một sự vật, một hiện tượng. Tuy chiếm một số lượng không nhiều nhưng
chúng có tần số xuất hiện cao và thường có mặt trong cấu trúc ngữ danh từ. Bộ
phận từ vựng này hết sức quen thuộc với người bản ngữ dưới tên gọi loại từ


2
(classifier/ classificateur).
Việc lựa chọn giữa các cách nói “zêrô -, cái -, chiếc -, con -, bức -, tấm -… +
danh từ” không chỉ thuần tuý chòu sự ràng buộc về mặt ngữ pháp, mà còn dẫn
đến sự khác nhau về mặt ngữ nghóa và sắc thái biểu cảm. Nói cách khác, sự xuất
hiện của loại từ mang tính hệ thống trước các danh từ, tạo nên một trục đối vò,
trong đó các yếu tố không chỉ thuần tuý diễn đạt mặt hình thức ngữ pháp mà còn
là một tham tố tạo nghóa trong cấu trúc danh ngữ. Vì vậy, cũng như các nhóm từ
vựng khác, loại từ cần được xem xét đầy đủ từ góc độ ngữ pháp lẫn ngữ nghóa.
Hơn nữa, thông qua tìm hiểu loại từ, chúng ta sẽ biết rõ hơn về danh từ và danh
ngữ tiếng Việt.
1.2. Từng được coi là một lớp từ khá đặc biệt trong tiếng Việt, loại từ được
nhiều công trình bàn đến, như một đối tượng độc lập hoặc như là một hệ thống
từ vựng có quan hệ chặt chẽ với danh từ. Trong suốt một quá trình nghiên cứu
dài như vậy, đã từng có rất nhiều tranh cãi và ngộ nhận tồn tại xung quanh nó, từ
vấn đề tên gọi cho đến đặc điểm ngữ nghóa, ngữ pháp và chức năng. Cho đến
nay, một danh sách “đóng” các loại từ tiếng Việt vẫn còn chưa được thống nhất
trong giới Việt ngữ học. Những điều đó phần nào đã nói lên được tính chất phức
tạp của bản thân bộ phận từ vựng này.
1.3. Loại từ tiếng Việt là một trong những vấn đề khó tiếp cận đối với đa

số học viên nước ngoài. Việc lí giải cho cặn kẽ sự khác biệt giữa các loại từ cũng
không phải là dễ dàng, ngay cả với người bản ngữ, những người vốn sử dụng
loại từ rất thường xuyên và linh hoạt, bởi trên bề mặt, việc sử dụng kết cấu loại
từ + danh từ như tiếng Việt có vẻ mang đậm tính “thói quen ngôn ngữ”. Tuy
vậy, việc nghiên cứu khả năng kết hợp của loại từ với các danh từ khối và ngữ
nghóa của nó, sẽ phần nào lí giải được cách sử dụng loại từ của người bản ngữ.


3
Với những lí do trên, luận văn chọn đối tượng khảo sát là loại từ
1
trong
tiếng Việt, để khám phá đặc điểm ngữ nghóa, ngữ pháp và chức năng của loại từ,
từ đó đề cập đến vấn đề nhận diện loại từ, xét nó trong hệ thống danh từ đơn vò,
và rộng hơn, là danh từ tiếng Việt. Thông qua việc xem xét khả năng kết hợp
của các loại từ với danh từ khối, chúng tôi hướng đến việc phân nhóm và miêu
tả từng loại từ một, góp phần chỉ ra đặc điểm về tư duy của người Việt trong
cách phân đoạn thực tại.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Loại từ là một trong số ít tập hợp từ của tiếng Việt nhận được sự chú ý
lâu dài, cũng như đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong giới Việt ngữ học lẫn các
chuyên gia ngôn ngữ học trên thế giới, mà Trương Vónh Ký có thể được coi là
người đầu tiên quan tâm đến nhóm từ này dưới tên gọi danh từ số (noms
numérique) [41]. Sau ông, nhiều tác giả khác đã tiếp tục nghiên cứu về loại từ
dưới những tên gọi khác nhau do quan niệm khác nhau, như tiền danh tự (Phan
Khơi [17]), danh từ không biệt loại (Hồ Lê [20], [21]), phó danh từ (Nguyễn Kim
Thản [32]), danh từ đơn vò (Cao Xuân Hạo [11], [12], [13], [14], [15], Nguyễn
Thò Ly Kha [16]), danh từ đếm được (Diệp Quang Ban [2])…. Trong số đó, thuật
ngữ phổ biến nhất là loại từ (classifier/ classificateur) của Trần Trọng Kim [18],
Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê [7], Lê Văn Lý [23], Emeneau [9], Nguyễn

Tài Cẩn ([3], [4]), Phan Ngọc [24], Đinh Văn Đức [8], Lưu Vân Lăng [19], Lý
Toàn Thắng [25], Nguyễn Phú Phong [19] và nhiều học giả nước ngoài như
Alexandra Y. Aikhenvald [38], Karen Ann Daley [39], Thompson L.C. [40]…. Có

1
Trong lòch sử nghiên cứu tiếng Việt, lớp từ này được gọi bởi nhiều thuật ngữ khác nhau, và nhiều nghiên cứu
của Cao Xuân Hạo và những người theo ông (sẽ được làm rõ ở phần sau của luận văn) đã chứng minh một
cách thuyết phục rằng “loại từ” là một thuật ngữ không chính xác, và là dấu tích của rất nhiều ngộ nhận trong
việc nghiên cứu tiếng Việt (và những ngôn ngữ đơn lập khác). Tuy nhiên, do thuật ngữ “loại từ” quá quen
thuộc và trở nên phổ biến, chúng tôi tạm sử dụng cách gọi này để người đọc có thể hình dung ngay được đối
tượng được khảo sát trong luận văn.



4
thể nhận thấy, trong giai đoạn đầu, loại từ thường được các tác giả tiếp cận như
là một phương tiện nghiên cứu tiếng Việt, mà cụ thể là nghiên cứu danh từ và
danh ngữ, chỉ đến khoảng hơn một thập kỷ trở lại đây, nó mới trở thành mục
đích của việc nghiên cứu với một loạt các công trình có quy mô và góc độ xem
xét khác nhau.
2.2. Từ trước tới nay, tập hợp này vẫn chứa đựng nhiều vấn đề chưa thống
nhất, chủ yếu xoay quanh vấn đề thuật ngữ, khái niệm và từ loại của nó. Các
công trình nghiên cứu về loại từ có thể được quy về hai khuynh hướng chủ yếu
được trình bày tiếp sau đây. Không ít nhà ngôn ngữ học trong quá trình nghiên
cứu đã chuyển từ quan điểm này sang quan điểm kia, điều đó phần nào cũng
làm bức tranh nghiên cứu về loại từ phức tạp hơn. Ở mỗi khuynh hướng, do
khuôn khổ của luận văn, người viết xin chỉ dừng lại ở những công trình tiêu
biểu.
2.2.1. Khuynh hướng thứ nhất xem loại từ là một từ loại tồn tại độc
lập bên cạnh những từ loại khác; về bản chất, loại từ là hư từ chuyên đảm

đương chức năng phụ trợ cho danh từ. Theo đó, loại từ không có nghóa từ vựng,
không có khả năng đứng độc lập, và chức năng của chúng là phân loại và cá thể
hóa danh từ. Đây là quan niệm chiếm đại đa số trong giới Việt ngữ học trước
đây như Emeneau [9], Phan Khôi [17], Trần Trọng Kim [18], Bùi Đức Tònh
[36]…
Bùi Đức Tònh cho những tiếng thứ nhất trong các tổ hợp như con (gà), cuốn
(sách), hoa (sen), nỗi (buồn), niềm (hi vọng), lá/ bức (thư), sự (phát triển)… là
tiền tố cho danh từ [36, tr.127-128]. Theo ông các ngữ tố phụ này của tiếng Việt
gần như là các tiếp đầu ngữ, tiếp vó ngữ trong các ngôn ngữ châu Âu. Nó không
thuộc đòa hạt văn phạm. Rõ ràng, tuy tác giả không thừa nhận cả tư cách “từ”
của loại từ, có lẽ do phân tích tiếng Việt dựa trên ngữ pháp tiếng Ấn – Âu nhưng


5
cách gọi tên và phân tích của ông ủng hộ quan điểm cho rằng loại từ rỗng nghóa
và có chức năng phụ trợ cho danh từ.
Tác giả tiêu biểu cho khuyng hướng thứ nhất này là Lê Văn Lý [23]. Ông
chia từ vựng tiếng Việt thành 4 tập hợp chính: A. thể từ (gồm danh từ và đại từ),
B. vò từ (động từ), C. tính từ, và D. các từ còn lại. Bên cạnh đó, có một hệ thống
từ chuyên dụng làm “những chứng tựï của từ loại A”, gồm nhóm từ biệt loại, tức
loại tự “classificatuer” như cái, con, người… và nhóm chỉ chủng loại (mot
générique) như kẻ, sự, việc, đồ, nghề… Bỏ qua bước xác đònh tiêu chí để nhận
diện loại từ, ông liệt kê một danh sách loại từ gồm 171 từ, và miêu tả cụ thể
cách dùng của chúng. Những từ ngữ này là một loại riêng biệt và được phân chia
thành 3 tiểu loại: loại từ cho danh từ chỉ người (gồm ba nhóm: chung; tôn trọng/
khinh bỉ; thân mật); loại từ cho danh từ chỉ loài vật; loại từ cho danh từ chỉ sự
vật. Đáng chú ý, tác giả còn phân biệt loại từ theo từ loại đi sau nó: nhóm có
danh từ theo sau như cây, quả (trái), lá, củ, tấm, bức, chiếc, hòn, đống, bó, cá,
chim…; nhóm có động từ theo sau như sự, việc, cách, phép, tính, đức…; và nhóm
có danh từ, động từ theo sau như đồ, nghề, toà, tờ, ống, bánh, bản, buổi, quân,

tụi, toán, nhà…. Có thể thấy, phần lớn các từ trong danh sách này có đặc tính của
những danh từ chính danh rõ rệt, chẳng hạn củ (khoai), nhà (đá), xe (điện)…, hơn
nữa, tuy chủ trương tách biệt giữa loại từ với yếu tố chỉ chủng loại, ông lại
không vạch ra được ranh giới giữa chúng, nên có một số từ, chẳng hạn như kẻ
lúc thì ở nhóm này, lúc ở nhóm kia. Những nhầm lẫn của Lê Văn Lý có thể nhận
thấy ở hầu hết các tác giả thuộc khuynh hướng này.
Nguyễn Kim Thản [31, tr.99] gọi nhóm từ bài, bản, bông, bức, cái, chiếc,
con, đứa, khẩu, gói, người, pho, quyển, tấm, thanh, thằng, thửa, tờ, vở… là phó
danh từ và khẳng đònh đây là những từ luôn đứng phụ cho danh từ, có tác dụng
chỉ sự vật riêng lẻ, chỉ đơn vò tự nhiên. Đây là những đơn vò ngôn ngữ nằm ở


6
ranh giới giữa hư từ và thực từ. Về sau, ông đã gọi lớp từ này là danh từ phụ
thuộc, một loại nhỏ trong sáu loại danh từ. Chúng có thể được chia thành ba
nhóm: danh từ phụ thuộc con làm bổ ngữ cho danh từ chỉ động vật, nhóm danh từ
phụ thuộc làm bổ ngữ cho danh từ chỉ người (có ý nghóa trung tính: người, viên…/
quan trọng: đồng chí, vò, ông, bà…/ khinh bỉ: gã, tên, mụ, con…) và nhóm danh từ
phụ thuộc làm bổ ngữ cho danh từ chỉ vật thể, hiện tượng thiên nhiên [23b].
2.2.2. Khuynh hướng thứ hai lại không coi những từ kể trên là một từ
loại độc lập, mà là một tiểu loại của danh t và/ hay loại từ thực chất chỉ là sự
thể hiện một chức năng nghóa học
2
. Các tác giả Trương Vónh Ký [41], Trương
Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê [7], Nguyễn Tài Cẩn ([3], [4]), Cao Xuân Hạo
([11], [12], [13], [14], [15]), Phan Ngọc [24], Diệp Quang Ban ([1], [2]), Hồ Lê
([20], [21]), Lý Toàn Thắng ([34], [35])… đều thừa nhận tư cách danh từ của loại
từ. Tuy vậy, giữa họ vẫn có những bất đồng về vai trò trung tâm của nó trong
cấu trúc danh ngữ.
Trương Vónh Ký đưa ra một danh sách 221 danh từ số (noms numériques)

và 14 danh từ khái quát và loại biệt dùng với động từ để tạo DT trừu tượng [41,
tr.30-62]. Danh sách của ông bao gồm hầu hết các từ mà những tác giả khác đều
công nhận là loại từ. Có thể nói ông là người đầu tiên cho những từ như cái, con,
chiếc, bức, tấm, viên… là danh từ chỉ đơn vò, khi đặt chúng bên cạnh những từ chỉ
đơn vò khác trong danh sách này. Ông có lẽ cũng đã cảm nhận được chức năng
của một tác tử danh hoá (nominalizer) ở loại từ, nên đã thao tác tách riêng
những danh từ “dùng để cấu tạo những khái niệm trừu tượng”.

2
Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê xem loại từ là một “từ vụ”, nghóa là một chức năng ngữ pháp
hay ngữ nghóa, chứ không phải là một từ loại [7, tr.281-306]. Chúng ta sẽ có dòp tìm hiểu sâu về vấn đề
này ở phần nội dung của luận văn.


7
Trong công trình Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại năm 1960 (xuất
bản bằng tiếng Việt năm 1975), Nguyễn Tài Cẩn phân chia từ loại danh từ tiếng
Việt thành sáu tiểu từ loại [3, tr.79]. Trong tiểu loại danh từ đơn vò, tác giả quan
niệm loại từ là nhóm dùng để nêu đơn vò tự nhiên bên cạnh nhóm chuyên dùng
để nêu đơn vò quy ước: loại từ “không có ý nghóa tư vựng rõ ràng và chuyên
dùng để phục vụ việc đếm từng cá thể, từng đơn vò tự nhiên của sự vật cũng như
việc phân chia sự vật vào các loại” [3, tr.123]. Về khả năng kết hợp với danh từ,
loại từ chủ yếu đi với 3 tiểu loại: danh từ chỉ người, danh từ chỉ động, thực vật và
danh từ chỉ đồ đạc. Về vai trò của nó trong danh ngữ, tác giả viết: loại từ “xuất
hiện trước một danh từ trung tâm (như vậy loại từ không phải là trung tâm danh
ngữ – NV) với tư cách là một công cụ
(tức hư từ – NV) để diễn đạt phạm trù cá
thể và dùng để chỉ loại (chúng tôi gạch dưới) cho danh từ”. Như vậy, tác giả có
phần mâu thuẫn với chính mình khi coi loại từ vừa là một loại danh từ đơn vò
(thực từ) vừa là một từ công cụ. Mặt khác, có phần giống với các tác giả ở

khuynh hướng thứ nhất, ông bàn về chức năng phân chia sự vật vào các loại của
loại từ và coi tổ hợp “loại từ + danh từ” là kết cấu “hư + thực”. Tuy nhiên, trong
phần Phụ lục của công trình này, tác giả đã đặt lại vấn đề cấu trúc danh ngữ,
qua đó khẳng đònh loại từ là những “danh từ trống nghóa” và công nhận vai trò
trung tâm của loại từ trong tổ hợp “loại từ+ danh từ” – một tổ hợp không khác gì
với tổ hợp “từ chỉ đơn vò + danh từ” mà trong đó vai trò trung tâm của từ đơn vò
đã được tác giả công nhận [3, tr.292-293].
Phan Ngọc cũng khẳng đònh loại từ là một loại danh từ. Sự khác biệt duy
nhất giữa hai tiểu loại này là loại từ có thể trực tiếp đi sau từ chỉ số lượng, còn
“các danh từ khác có quan hệ gián tiếp với từ chỉ số lượng thông qua môi giới
của loại từ” [24, tr.56]. Việc một danh từ như xe thực hiện được bốn chức năng
của những từ chỉ sự vật là chủ ngữ, tân ngữ, vò ngữ, đònh ngữ, trong khi loại từ,


8
chẳng hạn như chiếc, không làm được, không phải là vì vò trí mà là do khác biệt
ngữ nghóa: loại từ là từ “rỗng ruột” (nom vide) [24, tr.58].
Phát triển ý tưởng của Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo qua nhiều bài viết
của mình đã chứng minh một số điểm đáng chú ý như sau:
(1) Dùng thuật ngữ “loại từ” (classifier/ classificateur) để chỉ nhóm từ mà
chúng ta đang quan tâm là hoàn toàn không chính xác và loại từ cũng không hề
có chức năng phân loại;
(2) Dùng tiêu chí không độc lập để cho loại từ là hư từ là không hợp lí vì
danh từ (thực từ) cũng có trường hợp không có tính độc lập;
(3) Qua vấn đề nghóa của danh từ, tác giả khẳng đònh loại từ thuộc loại
danh từ có nghóa hình thức và không có ý nghóa chất liệu (tức là danh từ đơn vò)
và mọi ngôn ngữ đều có “loại từ”, chỉ có biểu hiện là khác nhau.
(4) Với tư cách danh từ đơn vò, loại từ đóng vai trò trung tâm trong danh
ngữ (Cao Xuân Hạo [11], [12], [13], [14], [15]).
Nhìn chung, ngày càng có nhiều người thừa nhận tư cách danh từ của loại

từ. Luận văn của chúng tôi cũng đi theo hướng này. Tuy đồng ý với quan điểm
của Cao Xuân Hạo và những tác giả theo ông về những ngộ nhận mà thuật ngữ
“loại từ” có thể gây ra, nhưng do sự phổ biến của tên gọi này, trong luận văn,
chúng tôi vẫn tạm sử dụng nó để chỉ những từ chỉ hình thức tự nhiên (nằm trong
nhóm danh từ đơn vò hình thức thuần tuý), nhằm giúp người đọc hình dung được
ngay đối tượng mà luận văn đang khảo sát.
2.3. Tính phức tạp của việc nghiên cứu loại từ còn được thể hiện qua việc
chính trong bản thân một số tác giả, khi trong những nghiên cứu khác nhau, hay
thậm chí cùng một công trình, họ bộc lộ nhiều mâu thuẫn trong việc đánh giá
bản chất và xếp loại loại từ. Mặt khác, tồn tại những kiến giải về loại từ không
thuộc về khuynh hướng nào nói trên, chẳng hạn như quan điểm của Nguyễn Phú


9
Phong. Cho rằng các tác giả đi trước đã xem xét loại từ trong sự trói buộc của
thế đối lập thực/ hư, ông cho rằng loại từ là “một tác tử dùng để đònh đơn vò”, do
đó “những từ nào biểu đạt một khái niệm phân lập (notion discrète) có thể đếm
được (comptable) đều có thể sử dụng làm loại từ” và đònh nghóa này dẫn đến hai
hệ quả như sau:
(1) Cùng một loại từ có khi là thực từ, có khi là hư từ, tuỳ theo danh từ
theo sau, chẳng hạn: loại từ cây trong cây cam là thực từ chỉ đơn vò một loại thực
vật, còn trong cây cam đã bò hư hoá chỉ đơn vò một công cụ.
(2) Không phải chỉ có danh từ, mà bất kì động từ hay tính từ thoả mãn
điều kiện nói trên đều có thể là loại từ. Với ví dụ nước giọt/ giọt nước, gió
thoảng/ (một) thoảng gió, bóng chiếc/ chiếc bóng, ông cho rằng, giọt, thoảng và
chiếc có thể thuộc hai loại từ khác nhau: động từ/ tính từ và loại từ [26, tr.13-14].
Trên cơ sở đó, ông cũng đã giới thiệu danh sách 195 loại từ, chia thành 4
nhóm: đơn vò thể hiện/ cá thể, đơn vò đo lường, đơn vò không gian/ thời gian và
LT danh/động [26, tr.95-100]. Tuy vậy, các nhận đònh của Nguyễn Phú Phong về
loại từ phần nào bắt nguồn từ những sai lầm mang tính chất cơ bản về kiến thức

ngôn ngữ học đại cương cũng như về tiếng Việt liên quan đến khái niệm hư từ
và thực từ, vấn đề từ loại, hiện tượng đồng âm và sự chuyển từ loại trong tiếng
Việt, nên danh sách này cũng không chính xác.
Quan điểm của Diệp Quang Ban cũng nằm ở trung gian giữa hai khuynh
hướng. Ông phân loại DT dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau: DT riêng/ DT
chung; DT tổng hợp/ DT không tổng hợp; DT vật thể, DT chất thể, DT trừu
tượng, DT tập thể, DT chỉ hiện tượng thời tiết; DT đơn vò; DT đếm được/ DT
không đếm được và bàn đến LT như là một lớp từ hữu quan [2, tr.475]. Ông cũng
nhận thấy tính chất đơn vò rời của LT nhưng lại cho rằng cùng với DT tập thể
như đàn, đám, bó…, LT không phải là DT đơn vò đích thực, bởi “LT có chức năng


10
chủ yếu là quy loại khái quát cho DT chỉ vật đứng sau nó và kiêm chức năng
đơn vò rời khi cần thiết, như cái, cây, con, người, kể rộng ra còn có cục, hòn,
viên, tấm, bức, sợi, quyển, pho, cơn, trận, v.v.” [2, tr.481]. Ông cũng coi LT là
thành tố phụ cho DT theo sau [2, tr.412-421]. Do tác giả có phần nhập nhằng
trong việc xác đònh từ loại cho LT nên nảy sinh nhiều mâu thuẫn trong phân tích.
2.4. Trong những năm trở lại đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
loại từ vượt ra ngoài phạm vi của lónh vực nghiên cứu ngữ pháp. Đó là hướng
khảo sát loại từ về mặt phong cách của loại từ như Hoàng Tất Thắng [33], để
ứng dụng làm từ điển kết hợp như Đinh Kiều Châu [6], hay xem xét loại từ từ
góc độ của ngôn ngữ học tri nhận như Lý Toàn Thắng [34]… Hầu như những
công trình này tránh bàn đến những vấn đề phức tạp của loại từ về mặt ngữ
pháp, mà chỉ đi vào những khía cạnh ngữ nghóa, ngữ dụng phục vụ cho mục đích
nghiên cứu của các tác giả.
3. NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI CỦA LUẬN VĂN
Luận văn đi sâu tìm hiểu loại từ, cụ thể là tập trung trả lời các câu hỏi sau:
(1) Bản chất từ loại của loại từ là gì? (2) Làm thế nào để nhận diện loại từ trong
tiếng Việt, mà cụ thể là trong tiểu loại danh từ đơn vò? (3) Loại từ có những

nhóm nào và đặc trưng ngữ nghóa của từng (nhóm) loại từ? Như vậy, khi nhắc
đến danh từ và danh ngữ trong luận văn, chúng tôi chỉ bàn tới những điểm giúp
làm sáng tỏ vấn đề loại từ, chứ không phải ngược lại, dù chắc chắn rằng những
phát hiện về loại từ sẽ góp phần đem tới sự hiểu biết đầy đủ về danh từ và danh
ngữ.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU
4.1. Với quan điểm cho rằng ngữ pháp phản ánh và bắt nguồn từ ngữ nghóa,
người viết nghiên cứu đối tượng theo hướng đi từ nội dung đến hình thức, từ ý
nghóa đến cấu trúc ngữ pháp. Từ đònh hướng có tính chất phương pháp luận đó,


11
luận văn sử dụng đồng thời nhiều phương pháp sau đây:
4.1.1. Phương pháp phân tích phân bố
Đây là một phương pháp có tầm quan trọng đặc biệt đối với một thứ tiếng
không có đặc trưng hình thái học như tiếng Việt, vì ở tiếng Việt (và những ngôn
ngữ đơn lập khác) cách phân bố gần như là biểu hiện duy nhất cho tính chất của
từ. Qua việc tìm hiểu khả năng kết hợp của loại từ, mà chủ yếu là trong danh
ngữ, chúng tôi phân tích các đặc điểm ngữ nghóa – ngữ pháp của loại từ, để thấy
được chức năng của nó.
4.1.2. Phương pháp so sánh đối chiếu
Ở một số ví dụ, luận văn có so sánh giữa tiếng Việt với một số ngôn ngữ
khác để thấy những dò đồng và khác biệt giữa các thứ tiếng, cũng như nhằm làm
rõ hơn đặc điểm ngữ nghóa, ngữ pháp của loại từ. Mặt khác, để miêu tả đặc
điểm của từng loại từ, chúng tôi so sánh và thay thế chúng, tức là nhìn loại từ
trong trục đối vò của nó.
4.1.3. Phương pháp thống kê ngôn ngữ
Để phục vụ cho việc phân nhóm và miêu tả chính xác các loại từ tiếng
Việt, chúng tôi thống kê những tổ hợp “loại từ + danh từ” trong thực tế. Phương
pháp này tạo ra hiệu quả cao, đặc biệt đối với những loại từ mà trước nay mọi

người vẫn cho là có thể thay thế nhau hoàn toàn như quyển và cuốn. Kết quả
thống kê thực tế cũng đã giúp người nghiên cứu kiểm nghiệm, điều chỉnh và bổ
sung những giả thuyết đã nêu.
4.2. Trong quá trình thống kê các kết hợp “loại từ + danh từ”, để tránh
những áp đặt khiên cưỡng có thể có do tính chủ quan, người viết tiến hành kết
hợp điều tra thực tế theo cảm nhận của người bản ngữ về những khả năng dùng
được và không dùng được của những kết hợp này.
4.3. Khi thống kê (có phân loại) danh từ khối để kết hợp với loại từ, người


12
viết dựa chủ yếu vào cuốn Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê [25] trên cơ sở
tham khảo Từ điển tiếng Việt của Văn Tân [30] và danh sách danh từ khối của
tác giả Nguyễn Thò Ly Kha [16].
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
5.1. Về phương diện lí luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ những tranh
luận xung quanh loại từ, xem xét nó với tư cách là một bộ phận của danh từ đơn
vò, đồng thời thử xác lập đường ranh giới ngữ pháp – ngữ nghóa và chức năng
giữa loại từ với các nhóm còn lại và đưa ra một danh sách (mang tính chất gợi ý)
các loại từ tiếng Việt.
5.2. Đồng thời, luận văn cũng sẽ có một ý nghóa thực tiễn thiết thực khi
miêu tả được ý nghóa của từng loại từ, nhờ đó người bản ngữ hiểu hơn về tiếng
mẹ đẻ và người giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài cũng giải thích chính
xác và dễ dàng hơn vấn đề loại từ trong tiếng Việt. Xa hơn, chúng tôi mong sẽ
có những thay đổi trong các sách giáo khoa, giáo trình để tránh những hiểu lầm
không đáng có về loại từ.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Vấn đề loại từ không thể được giải quyết một cách thoả đáng nếu không
chỉ ra những ngộ nhận về nó và/ hoặc tìm hiểu nó một cách cô lập, tách rời các
bộ phận từ vựng khác của tiếng Việt. Vì vậy, ngoài phần Mở đầu và Kết luận,

luận văn sẽ gồm ba chương: chương một, dành xem xét vấn đề từ loại của loại
từ tiếng Việt, trên cơ sở giải quyết những ngộ nhận vốn có về loại từ, và chứng
minh tư cách danh từ đơn vò của loại từ; chương hai, phân loại danh từ đơn vò và
xác đònh các đặc điểm của loại từ về mặt chức năng, ngữ nghóa và ngữ pháp
nhằm phân biệt nó với các danh từ đơn vò khác; và chương ba, dựa vào những
luận điểm được trình bày ở phần Mở đầu và ở hai chương nội dung, đưa ra một


13
danh sách loại từ trong tiếng Việt và tiến hành khảo sát khả năng kết hợp của
loại từ với các nhóm danh từ, từ đó phân loại và mô tả các loại từ tiếng Việt.
Ngoài 180 trang chính, luận văn dành 168 trang cho năm phụ lục: 1) Danh sách
các danh từ hình thức thuần tuý; 2) Danh sách loại từ tiếng Việt; 3) Danh sách
các danh từ khối được khảo sát trong luận văn; 4) Các kết hợp “loại từ + danh
từ” trong tiếng Việt và 5) Một số danh sách liên quan đến loại từ của những tác
giả khác. Cuối cùng là danh mục 41 tài liệu tham khảo.



LỜI CẢM ƠN

Xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Hoàng Dũng đã tận tình
hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn thạc só này.
Xin cảm ơn các thầy cô, gia đình, đồng nghiệp và bằng hữu
đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề
tài nghiên cứu, đặc biệt là ở phần kiểm tra tính tự nhiên của ngữ
liệu.

Lê Ni La





LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của thầy Hoàng Dũng. Các số liệu thống kê
cũng như các ý kiến nhận xét, nếu không có chú thích trích dẫn,
đều được rút ra từ quá trình tìm hiểu đối tượng của bản thân người
viết, và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận văn

14
Chương 1: VẤN ĐỀ TỪ LOẠI CỦA LOẠI TỪ TIẾNG VIỆT
1.1. NHỮNG NGỘ NHẬN XUNG QUANH LOẠI TỪ
M.B. EMENEAU [9, tr.120] đưa ra một sơ đồ “phức thực thể từ”ø (cấu trúc
danh ngữ tiếng Việt), trong đó tác giả đã gọi các đơn vò kết hợp với những danh
từ biệt loại là loại từ (classifier).
Loại từ
(Classifier)
Danh từ
biệt loại
(Classified)

Số từ
(Numerator)

Danh từ không biệt loại
(Nonclassified)
Các thuộc ngữ

(Attributes)
Số từ chỉ đònh
(Demonstrative
numerator)
Trong danh sách 121 loại từ mà ông đưa ra có nhiều trường hợp một số nhà
nghiên cứu tiếng Việt khác thường không coi là loại từ: (hai) cân mỡ, (hai) bó
(cỏ), (hai) tách (trà), (hai) vũng (bùn), (hai) đám (đất). Khái niệm loại từ của
Emeneau như thế là rất rộng. Trong quan điểm của ông, đó là một từ loại tách
hẳn ra khỏi hai loại danh từ biệt loại và không biệt loại.
Sau Emeneau, Đinh Văn Đức [8], Trần Trọng Kim [18], Lê Văn Lý [23] và
nhiều tác giả khác cho rằng các yếu tố thường đứng trước danh từ khối (DK)
trong các danh ngữ (DN) như con, cái, mảnh, khúc, v.v. của tiếng Việt là một lớp
từ loại đặc biệt, chỉ có trong một số thứ tiếng nhất đònh. Nhận thấy con cho biết
danh từ (DT) phía sau chỉ động vật, cái đi trước DT chỉ đồ vật, họ cho chúng là
những từ chỉ loại. Tên gọi “loại từ” (LT) ra đời, tương ứng với thuật ngữ
classifier trong tiếng Anh và classificateur của tiếng Pháp.
Sâu xa hơn, như Cao Xuân Hạo đã chỉ ra, thuật ngữ “loại từ” (classifier) là
sản phẩm của những người châu Âu khi lần đầu tiếp xúc với những thứ tiếng như
tiếng Trung Quốc, tiếng Thái, tiếng Việt hay tiếng Hán cách đây vài ba thế kỷ:

15
Chẳng hạn người bắt đầu học tiếng Việtï không thấy có gì phải băn
khoăn khi ghi trong sổ tay từ vựng water = nước; wood = gỗ; dog = chó;
book = sách. Họ càng tin là mình đã ghi đúng khi biết thêm rằng drink water
người Việt nói là uống nước, buy books thì nói là mua sách (…) Nhưng đến
khi họ được biết rằng I bought this book hay Each book costs a shilling
không thể nói *Tôi mua sách này hay *Mỗi sách giá một đồng mà phải nói
Tôi mua cuốn
sách này và Mỗi cuốn sách giá một đồng, thì họ thấy hoang
mang đến cực độ [12, tr.9].

Họ đặt tên cho những từ “không có nghóa” và không thể dòch sang tiếng của
họ như trên là “classifiers” và những ngôn ngữ có các từ này là các “ngôn ngữ
có loại từ” (classifier languages/ langues à classificateurs).
Năm 1977, trong bài Classifiers trên tạp chí chuyên ngành Langauge, và
sau đó là Nouns and Countability (1980), K. Allan đã chứng minh không có chút
gì khác nhau giữa các “loại từ” và các danh từ chỉ đơn vò đo lường, cho nên thuật
ngữ “loại từ” không có lý do tồn tại. Từ đó, ngôn ngữ học thế giới đã chấm dứt
sự ngộ nhận trên về thuật ngữ “loại từ” cũng như việc tồn tại của LT như là một
đặc thù riêng của một vài ngôn ngữ (dẫn theo Cao Xuân Hạo [15, tr.31]). Tuy
vậy, thuật ngữ này và những ngộ nhận về nó lại vẫn tiếp tục tồn tại trong giới
Việt ngữ học cho đến hiện nay.
Trước tình hình đó, từ những gợi ý ban đầu của Trương Vónh Ký [41] và
Nguyễn Tài Cẩn [3], Cao Xuân Hạo đã có nhiều bài viết về LT, qua đó làm
sáng tỏ nhiều vấn đề về ngữ nghóa, ngữ pháp của nó. Ông chính là người tiên
phong quyết liệt trong việc đánh tan những quan điểm sai lầm về LT trong tiếng
Việt. Các luận điểm của ông xoay quanh bốn tranh cãi thường gặp xung quanh
LT được trình bày sau đây.

16
1.1.1. Ngôn ngữ có loại từ
Theo Cao Xuân Hạo, mỗi thực thể đều được cấu trúc hoá trên hai thông số:
1. sự (hay tính) tức là tính chất nội tại (hay nội dung); 2. vật
3
, tức là hình thức,
hay cách tồn tại phân lập trong không gian. Tuy trong tự nhiên và trong cách tri
giác tự nhiên của con người, tính và vật bao giờ cũng đi liền với nhau: tính chỉ có
thể hiện diện trong vật, nhưng trong cách gọi tên các thực thể (từ vựng hoá
thành DT
5
), các cộng đồng ngôn ngữ có thể lựa chọn các phương thức sau đây:

(1) Chỉ biểu hiện hình thức tồn tại phân lập (vật tính), tức [+vật tính, -sự/tính];
(2) Chỉ biểu hiện nội dung (thuộc tính chất liệu hay chủng loại), tức [-vật tính, +
sự/tính];
(3) Biểu hiện cả hình thức phân lập lẫn nội dung, tức [+vật tính, + sự/ tính].
Kết quả của ba phương thức gọi tên trên lần lượt là DT [+hình thức (HT), -
chất liệu (CL)], DT [-HT,+CL] và DT [+HT,+CL] [14, tr.266-268]. Tuy mỗi thứ
tiếng có thể thiên về một cách nào đó, nhưng hầu như không một ngôn ngữ nào
chỉ chọn một trong ba cách trên, mà trái lại, thường chọn cả ba, và việc ngôn
ngữ này chọn phương thức này, trong khi thứ tiếng kia dùng cách khác để từ
vựng hoá cùng một thực thể là rất phổ biến. Sở dó những người nói các thứ tiếng
châu Âu đã không thể tìm thấy từ tương ứng với cuốn, cái, bức, tấm, con… trong
ngôn ngữ mẹ đẻ của mình là vì những từ này là kết quả từ vựng hoá chỉ riêng

3
Cần phân biệt những thuật ngữ ngôn ngữ học [±vật tính], [±chất liệu] với khái niệm “vật”, “chất liệu”
theo cách hiểu thông thường là đồ vật (tương ứng với “thing” của tiếng Anh) và chất liệu tạo nên vật
(làm bằng gì?). Trong luận văn, chúng tôi có thể sử dụng [±hình thức], [± vật tính] thay cho [±vật] và
[±thuộc tính] hay [±sự/tính] thay cho [±chất liệu], khi cần tránh những hiểu lầm trên.
5
Thông số “sự” và “tính” thường được từ vựng hoá trong các vò từ (verbs), hay là vò từ và tính từ trong
một số ngôn ngữ. Chúng còn có thể được từ vựng hoá trong những DT. Mặt khác, trong những ngôn ngữ
đa âm tiết, việc từ vựng hoá các thông số này thành những đơn vò ngôn ngữ khác với từ, như hình vò là
hoàn toàn có thể xảy ra. Ở đây, chúng tôi chỉ quan tâm đến khả năng chúng được từ vựng hoá thành DT.

17
phần “vật tính”, tức theo phương thức (1), đối với những thực thể mà tiếng châu
Âu lại từ vựng hoá cả phần “vật” và phần “sự/tính”, tức theo phương thức (3).
Như vậy, LT tiếng Việt thuộc về một bộ phận đơn vò ngôn ngữ mang tính phổ
quát trong mọi ngôn ngữ: DT hình thức thuần tuý (DHT) và có những DTø đòi hỏi
LT

6
một cách bắt buộc như vậy là vì các DT đó không có “vật tính” [12, tr.12-
15].
Người Pháp khi học tiếng Anh cũng không thể tìm thấy một từ nào trong
tiếng của họ tương ứng với flash (a flash of lightning ‘một tia chớp), vì tiếng
Pháp từ vựng hoá hiện tượng chớp thành một DT [+HT, +CL] éclair (un éclair
‘một tia chớp’, des éclair ‘những tia chớp’). Tương tự, người Nga hoàn toàn có
thể gọi loaf (a loaf of bread ‘một ổ bánh mì’) là LT, vì trong tiếng Nga, ‘bánh
mì’ được biểu thò bởi một DT đếm được (ХЛЕБ ‘bánh mì, một cái bánh mì’,
ДВА ХЛЕБА ‘hai cái bánh mì’).
Cao Xuân Hạo cũng lí giải về xu hướng từ vựng hoá của tiếng Việt so với
các ngôn ngữ châu Âu. Trước hết, tiếng Việt là một ngôn ngữ phân tích nên mỗi
tiếng – đơn vò ngữ pháp và từ vựng cơ bản của nó – thường mang một trong hai ý
nghóa “vật” hoặc “sự/tính”. Trong khi đó, tiếng Anh, tiếng Pháp có khuynh
hướng sử dụng phương thức đònh danh tổng hợp tính, nên đại đa số DT của chúng
là DT [+vật tính, +thuộc tính]. Do đó, tiếng Việt có một lượng DT [-HT] (tức [-
ĐĐ]) lớn hơn rất nhiều so với DT [+HT] (tức [+ĐĐ]). Và với một số lượng DT
nội dung thuần tuý cực lớn (vì ý nghóa “thuộc tính” rất đa dạng và phong phú),
số DHT (giúp đếm DT [-HT] của tiếng Việt nhiều hơn so với các ngôn ngữ mà

6
Khi bàn đến các ý kiến về LT của Cao Xuân Hạo, để dễ hiểu và thuận tiện cho việc bàn luận, chúng
tôi vẫn dùng thuật ngữ LT (mà không giải thích thêm nó là DHT/ DĐV) và cũng không để trong dấu
ngoặc kép như tác giả, dù chúng tôi đồng ý với ông về sự không chính xác của thuật ngữ này, cũng như ở
nhiều luận điểm khác.

18
DT [+HT][+CL] chiếm đa số như ngôn ngữ châu Âu là một điều hoàn toàn dễ
hiểu ([12, tr.14-15], [14, tr.268 và tr.293-294]).
Chúng tôi đã không tìm thấy một DT[+HT, +CL] nào của tiếng Việt lại

tương ứng với tổ hợp “DT [+HT, -CL] + DT [+HT, +CL]” trong tiếng Anh, tiếng
Pháp. Trong khi đó, một DT [+HT(a), +CL(b)] trong tiếng Anh, tiếng Pháp bao
giờ cũng có thể dòch sang tiếng Việt dưới hai dạng: (1) “DHT + DT [+HT (a),
+CL (b)]” khi muốn đếm vật thể đó; và (2) DT [+HT (a), +CL (b)] khi chỉ muốn
nói đến phần “nội dung” của vật thể đó. So sánh:
(1) a. I have two pencils. * Tôi có hai bút chì. Tôi có hai cây
bút chì.
b. She writes a letter in pencil. * Cô ấy viết thư bằng cây
bút chì.
Cô ấy viết thư bằng bút chì.
Do đó, cũng như K. Allan, Cao Xuân Hạo khẳng đònh ngôn ngữ nào cũng có
“classifiers” (thực ra là DHT), bởi không thứ tiếng nào lại không có những DT
[-vật tính], chỉ có điều mỗi ngôn ngữ có thể sử dụng những “classifiers” khác
nhau. Cái cụm từ classifier languages (những ngôn ngữ có loại từ) và thuật ngữ
classifier như một từ loại riêng, như thế, không có lí do gì để tồn tại.
1.1.2. Thuật ngữ “loại từ” (classifier/ classificateur) và chức năng phân
loại của loại từ
Theo ngôn ngữ học đại cương, “loại từ” (classifiers) không phải là một từ
loại, mà là “ý nghóa phân loại”. Đây là một chức năng ngữ nghóa học của danh
từ
8
. Trong khi đó, Emeneau [9], Đinh Văn Đức [8], Phan Khôi [17], Trần Trọng
Kim [18], Lê Văn Lý [23], Hoàng Tất Thắng [33] và nhiều tác giả khác hiển

8
Trong một số ngôn ngữ, như các ngôn ngữ Bantu, yếu tố có chức năng này không phải là từ, mà là phụ
tố. Những phụ tố đó vẫn được gọi là “classifiers”. Điều đó cho thấy, thuật ngữ này không bao hàm ý
nghóa “từ loại” [12, tr.8].

19

ngôn hoặc hàm ẩn cho rằng LT là một từ loại có chức năng phân loại sự vật
được DT biểu thò, qua đó xếp DT thành những tiểu loại nhất đònh, mỗi loại tương
ứng với một chủng loại sự vật nào đó, chẳng hạn LT con chỉ ra sự vật biểu thò
bởi DT theo sau thuộc nhóm động vật với: mèo, cáo, chuồn chuồn, v.v., còn LT
cái xếp DT vào nhóm bất động vật: ghế, nồi, bong bóng, v.v. Nói cách khác,
chúng thường được hiểu là một thứ từ có công dụng phân chia các DT ra thành
từng loại hay từng phạm trù (noun categorization) [38, tr.1].
Quả thật, xét trên bề mặt, trong danh ngữ có LT, qua LT, ta có thể nhận
biết được phần nào DT đi sau nó thuộc chủng loại nào. Tuy nhiên, có nhiều
điểm bất ổn nếu từ hiện tượng đó mà quy cho LT bản chất phân loại. Một là
việc một ngôn ngữ nào đó bắt buộc người bản ngữ phải sử dụng những từ “chỉ
loại” trước các DT chỉ những sự vật mà ai cũng biết thuộc chủng loại nào là một
điều có phần kì quặc và vô ích. Hai là có rất nhiều LT có thể đi được với những
DT chỉ các chủng loại sự vật khác nhau. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, khúc có
thể đứng trước cá (thuộc loại động vât), mía (thuộc loại thực vật), hay vải (thuộc
loại vô sinh vật). Tương tự, trong tiếng Nhật, theo sau tsu có thể là một DT chỉ
đồ vật như isu ‘ghế’ hay DT chỉ thực vật như lingo ‘táo’. Theo Plam, đây là một
trong hai lí do, cùng với việc các DT kết hợp được với các LT khác nhau không
khác biệt về bất cứ đặc tính ngữ pháp nào khác, để không thể tách riêng ra một
lớp từ vựng - ngữ pháp có tác dụng phân loại DT trong tiếng Hán, tiếng Thái,
tiếng Miến Điện, cũng như tiếng Việt (dẫn theo Nguyễn Thò Ly Kha [16, tr.23]).
Hơn nữa, do có nghóa chỉ thuộc tính chủng loại và/ hoặc quan hệ nên DK có
chức năng cú pháp cơ bản là làm đònh ngữ chỉ loại. Chẳng hạn như, so sánh các

20
tổ hợp gồm 2 DK như tôm càng, thuốc nước với tôm thẻ, thuốc viên thì ý nghóa
chỉ loại là do DK thứ hai đảm nhiệm. Tương tự:
(2) a. Bò giống/ thòt/ sữa
b. Cây cam/ trồng/ giống
c. Bức tranh/ thư/ tường

Trong các danh ngữ dẫn trên, có thể thấy từ giúp chỉ loại, do đó thích hợp
hơn với thuật ngữ “loại từ”, là yếu tố thứ hai: các DK ([13, tr.12], [15, tr.33], [16,
tr.23]).
Đến đây, ta nên xem xét cách hiểu thuật ngữ classifier của trường phái
M.A.K. Halliday. Halliday và các tác giả đi theo hướng của ông không dùng
classifier ‘loại từ’ như một từ loại, mà để chỉ cái chức năng làm đònh ngữ chỉ loại

cho danh từ trung tâm, để phân biệt với các loại đònh ngữ khác (determiners,
epithets và qualifiers) [15, tr.33]. Chức năng này có thể do danh từ, tính từ hay vò
từ đảm nhiệm, ví dụ:
(3) a. apple juice ‘nước ép táo’, coffee table ‘bàn thấp và dài (trong bộ sofa)’
b. red wine ‘rượu vang’, medical doctor ‘dược só’
c. moving company ‘công ty giúp vận chuyển’, written language ‘ngôn ngữ
nói’
Trong các ví dụ (3), DT apple, body (ví dụ a) cũng như các vò từ red, wine,
moving, golden (ví dụ b, c) đều có vai trò của ‘classifiers’.
Như vậy, dù hiểu theo quan điểm nào, chức năng phân loại cũng không
phải là của riêng LT (nếu nó có chức năng này), mà là ý nghóa có thể có được
của DK và bất kỳ từ loại nào khác có khả năng làm đònh ngữ chỉ loại cho DT
trung tâm.



21
1.1.3. Từ loại của loại từ
Ở phần mở đầu ta đã bắt gặp rất nhiều ý kiến cho rằng LT là hư từ, là
những từ công cụ, xuất phát từ nhận xét về sự rỗng nghóa và “không độc lập”
(không thể tự mình làm thành một ngữ đoạn có chức năng cú pháp riêng) của LT.
1.1.3.1. Tính không độc lập
Xét thấy LT không thể đứng một

mình làm thành một ngữ đoạn, nhiều tác
giả phủ nhận tư cách thực từ của LT. Quả thật, trong hầu hết các trường hợp, LT
không thể tự mình làm thành tố chính trong DN hay thực hiện các vai trò cú
pháp trong câu (chủ ngữ, trạng ngữ…) mà cần phải có DK theo sau. Về những
trường hợp LT không có DK theo sau như:
(4) a. Bán cho tôi hai con
.
b. Bức
này đẹp thật.
thì một số tác giả cho rằng LT có tư cách gần như một đại tư
ø, dùng để thay thế
danh từ bò lược bỏ và sự tỉnh lược này phải có sự cho phép của ngữ cảnh ([2,
tr.416-417], [3, tr.124], [18, tr.45], [33, tr.17], [36, tr.61]).
Trước hết, có một hiện tượng khách quan mà ngay cả những tác giả luôn
khẳng đònh LT không có tính độc lập, cũng phải thừa nhận. Đó là, một khi không
có DK theo sau như trên, LT vẫn thể hiện đầy đủ tất cả mọi tính chất của một
DT: về mặt cú pháp nó có thể làm chủ ngữ, bổ ngữ, đònh ngữ…, về mặt kết hợp
LT có khả năng tạo ra những DN y như các kiểu DT khác. Trong ví dụ (4a), LT
con là thành tố trung tâm của DN, kết hợp với số từ hai làm bổ ngữ chỉ đối tượng
cho vò từ bán, còn ở (4b), LT bức là thành tố trung tâm của DN, kết hợp với đònh
ngữ xác đònh này làm chủ ngữ cho câu.
Hai là, sự “hạn chế” trong kết hợp của LT (việc LT cần có một DK theo
sau để làm rõ nghóa cho nó, cũng như hiện tượng nếu không có DK đi kèm, LT
thường không lưu lại còn một mình trung tâm, mà phải có một thành tố phụ đi

22
kèm) có thể được tìm thấy ở một nhóm từ (với một số lượng cũng không phải là
ít) mà mọi người đều thừa nhận là DT: giọt, miếng, lần, trang, phía, bên…. Các
“danh từ chính danh” này cũng cần phải kết hợp với một đònh ngữ hay một lượng
từ để làm chủ ngữ hay bổ ngữ trong câu như LT [12, tr.2-4]. So sánh:

Làm chủ ngữ Làm bổ ngữ
(5)
Không thể nói chỉ có thể nói Không thể nói chỉ có thể nói
*Chiếc rất đẹp.
Chiếc
đó rất đẹp.
*Nó mua chiếc.
- Nó mua hai chiếc.
- Nó mua chiếc
đó.
LT
*Tấm rất mềm.
Tấm
này rất mềm.
*Nó bán được tấm.
- Nó bán được ba tấm.
- Nó bán được tấm
này.
*Bên khá rộng.

Bên
kia khá rộng.
*Tôi đứng về bên.
- Tôi đứng về một bên.
- Tôi đứng về bên
kia.
DT
*Đôi mòn rồi.
Đôi
ấy mòn rồi.

* Họ mang theo đôi.
- Họ mang theo bốn đôi.
- Họ mang theo đôi
ấy.
Các ví dụ (5) không chỉ cho thấy những DT chính danh này không độc lập
hơn các LT mà hơn nữa, thái độ ngữ pháp của hai nhóm từ rất giống nhau. Như
vậy, đã thừa nhận tư cách DT của nhóm này thì không thể phủ nhận tư cách DT
của nhóm kia, cũng như việc dùng tiêu chí “độc lập” hay “hạn chế” làm tiêu chí
duy nhất để khẳng đònh LT không phải là DT (thực từ) là không thoả đáng, khi
tính không độc lập của LT chỉ mang tính tương đối, và giống với sự kết hợp “hạn
chế” thường thấy ở một nhóm DT chính danh khác, chứ không giống với những
biểu hiện đặc trưng của tính không độc lập ở hư từ.
1.1.3.2. Sự rỗng nghóa
Không chỉ các tác giả có quan điểm cho LT là hư từ, mà ngay cả những nhà
nghiên cứu thừa nhận tính chất danh từ của LT như Nguyễn Tài Cẩn ([3], [4]),
Phan Ngọc [24, tr.56-58] cũng cho rằng LT rỗng nghóa hay trống nghóa. Nhưng

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×