Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.1 KB, 4 trang )

Nguyễn Thị Bình

Nguyễn Thị Bình
Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình kí hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm
1973
Phó Chủ tịch nước Việt Nam
Nhiệm kỳ
8 tháng 10, 1992 – 12 tháng 8, 2002
9 năm, 308 ngày
Tiền nhiệm Nguyễn Hữu Thọ (trước 1980)
Kế nhiệm Trương Mỹ Hoa
Khu vực Việt Nam
Bộ trưởng Bộ Giáo dục
Nhiệm kỳ
3 tháng 7, 1976 – tháng 2, 1987
10 năm, 227 ngày
Tiền nhiệm Nguyễn Văn Huyên
Kế nhiệm Phạm Minh Hạc
Khu vực Việt Nam
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam
Nhiệm kỳ
8 tháng 6, 1969 – 3 tháng 7, 1976
7 năm, 25 ngày
Sinh
26 tháng 5, 1927 (83 tuổi)
Sa Đéc, Đông Dương thuộc Pháp
Phu quân Đinh Khang
Nguyễn Thị Bình (1927-), là một nữ chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam. Bà
nổi tiếng trên thế giới khi giữ cương vị Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam, rồi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng


hòa Miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị 4 bên về hòa bình cho Việt Nam
tại Paris trong giai đoạn 1968-1973. Bà là 1 trong những người đại diện các
bên ký hiệp định Paris năm 1973 và là người phụ nữ duy nhất đặt bút kí vào
Hiệp định. Bà cũng từng giữ chức vụ Phó Chủ tịch nước Việt Nam từ 1992
đến 2002.
Thân thế và bước đầu sự nghiệp chính trị
Bà tên thật là Nguyễn Châu Sa hay Nguyễn Thị Châu Sa
[1]
, sinh ngày 26
tháng 5 năm 1927 tại tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Tuy nhiên,
nguyên quán của thân phụ bà là ông Nguyễn Đồng Hợi, lại ở Điện Bàn,
Quảng Nam. Thân mẫu bà là bà Phan Thị Châu Lan (tục gọi là cô Mè, 1904-
1944), là người con gái thứ hai của nhà chí sĩ Phan Chu Trinh.
Thân phụ của bà là từng làm tham tá công chánh (Agent technique) thời Pháp
thuộc, làm công tác họa đồ (nên ông còn được gọi là Họa đồ Hợi) nên thuở
nhỏ gia đình bà cư trú tại Phnom Penh, Campuchia, do đó bà được cho ăn học
ở một trường nổi tiếng ở Đông Dương thời bấy giờ tại Phnom Penh là trường
Lycée Sisowath. Bà được học tiếng Pháp ở đây cho hết tú tài I, và học rất khá.
Năm 1944, thân mẫu bà qua đời lúc bà mới 17 tuổi, bà theo gia đình trở về
nước và bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước trong phong trào sinh viên
học sinh như cứu tế và cướp chính quyền tại Sài Gòn. Sau khi Pháp tái chiếm
Nam Bộ cuối năm 1945, thân phụ bà ra chiến khu theo lời kêu gọi của Ủy ban
hành chánh kháng chiến Nam Bộ. Riêng bà ở lại để chăm sóc các em, vừa
hoạt động bí mật cho phong trào Việt Minh khối sinh viên học sinh và phụ
nữ. Lúc này, bà lấy bí danh là Yến Sa
[2]
. Năm 1948, bà được kết nạp Đảng
Cộng sản Đông Dương
[3]
. Năm 1951, bà bị thực dân Pháp bắt giam và bị tra

khảo tại bót Catinat, sau đó bị giam ở Khám Lớn rồi nhà lao Chí Hòa (1951-
1953).
Năm 1954, bà ra tù và tham gia luôn vào phong trào hoà bình đòi thi hành
Hiệp định Genève. Năm 1955, bà được điều ra Bắc tập kết và được đào tạo
thêm theo chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc biệt.
[sửa] Trở thành nhà ngoại giao
Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
Năm 1962, bà được điều trở lại miền Nam với cái tên mới là Nguyễn Thị
Bình, giữ chức vụ Ủy viên Trung ương Mặt trận Giải phóng, hoạt động ở
mảng đối ngoại, kiêm Phó tổng thư ký Hội Phụ nữ Giải phóng. Cuối năm
1968, bà được cử làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải phóng sang
Paris dự Hội nghị Paris về Việt Nam, đến đầu tháng 1 năm 1969, ông Trần
Bửu Kiếm giữ chức vụ trưởng đoàn, còn bà được rút về nước để chuẩn bị cho
việc thành lập Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngày 6
tháng 6 năm 1969, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được
thành lập, bà được cử làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Sau đó bà lại trở sang
Paris đảm nhận lại chức vụ Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ lâm thời.
Trong suốt thời gian 1968-1972, bà nổi tiếng trong các cuộc họp báo tại hội
nghị 4 bên tại Paris, với phong cách ngoại giao lịch lãm và duyên dáng, và
được giới truyền thông đặt cho biệt hiệu "Madame Bình". Khi Hiệp định
Paris được ký kết năm 1973, bà là người thay mặt một trong bốn bên ký vào
bản Hiệp định.
Các chức vụ thời bình:
Sau khi đất nước thống nhất, bà làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1976-1987), rồi
Phó trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng (1987-1992). Bà còn là Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá V (03/1982-
1986), Đại biểu Quốc hội từ khoá VI đến khoá X (1976-2002).
Năm 1992, tại kỳ họp Quốc hội khóa IX, bà được bầu làm Phó chủ tịch nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và giữ chức vụ này liên tục trong 10
năm (1992-2002). Bà là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức vụ phó

nguyên thủ
[4]
và là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên giữ chức vụ Phó chủ tịch
nước.
Sau khi nghỉ hưu vào năm 2002, bà tiếp tục làm Chủ tịch của Quỹ Bảo trợ trẻ
em Việt Nam. Năm 2003, bà thành lập Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam
và làm Chủ tịch của tổ chức này cho đến nay. Ngoài ra, bà cũng là Chủ tịch
danh dự của Hội nạn nhân chất độc màu da cam kể từ khi hội này được thành
lập vào tháng 1/2004.

×