Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Luận văn thạc sĩ Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân (full)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.29 KB, 118 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


PHẠM THỊ NGỌC LIÊN


TƯ TƯỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Ngọc Ánh

Đà Nẵng - Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Người cam đoan




Phạm Thị Ngọc Liên



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3
5. Bố cục của đề tài 3
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG
PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH 6
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH 6
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của sự xuất hiện tư tưởng pháp quyền
Hồ Chí Minh 6
1.1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự xuất hiện tư tưởng pháp quyền
Hồ Chí Minh 9
1.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH 32
1.2.1. Quá trình hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh 32
1.2.2. Nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh 39
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 55
2.1. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM THỜI
KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI 55
2.1.1. Nhà nước dân chủ nhân dân (1945-1954) 55
2.1.2. Nhà nước chuyên chính vô sản (1954-1986) 57



2.2. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN 60
2.2.1. Quá trình hình thành tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà
nước pháp quyền 60
2.2.2. Quan niệm về bản chất và đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam 67
2.3. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN 71
2.3.1. Những thành tựu trong xây dựng nhà nước pháp quyền 71
2.3.2. Những hạn chế trong xây dựng nhà nước pháp quyền 74
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN 77
3.1. XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THEO TƯ
TƯỞNG PHÁP QUYỀN NHÂN NGHĨA HỒ CHÍ MINH 77
3.2. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN THỂ HIỆN QUYỀN LÀM
CHỦ CỦA NHÂN DÂN 83
3.3. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY 88
3.3.1. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân 88
3.3.2. Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng
một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh 92


3.3.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; gắn liền

xây dựng, chỉnh đốn Đảng với việc nâng cao hiệu lực quản lí của nhà
nước 95
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY 102
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (bản sao)
1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước xã hội chủ nghĩa gồm nhiều nội
dung, trong đó chứa đựng những tư tưởng sâu sắc về xây dựng nhà nước kiểu
mới - nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; Chủ tịch Hồ Chí Minh
kính yêu đã trải qua một quá trình tìm tòi, nghiên cứu, phân tích tổng kết một
cách toàn diện, sâu sắc những kinh nghiệm và bài học về xây dựng nhà nước,
không phải chỉ trong lịch sử dân tộc mà còn của nhiều quốc gia khác trên thế
giới. Hơn nữa, tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở các quyền
con người được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm một tấm
lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm
đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân
tộc Việt Nam, là pháp quyền gắn liền với đạo lý làm người. Vì thế, pháp quyền
Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp quyền nhân nghĩa - một thứ nhân
nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc. Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại của loài người,
trước nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở
nước ta trong suốt mấy chục năm qua đã đưa lại nhiều kết quả tích cực. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ III khoá VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và

các Văn kiện Đại hội Đảng khoá IX, X, XI đã khẳng định công cuộc xây
dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những tiến bộ
quan trọng, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có những hạn chế còn tiếp tục tồn tại
như là: Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực
quản lý, điều hành chưa cao; Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân
2

công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Kỷ cương xã hội còn bị buông lỏng, làm giảm
sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta…
Đảng Cộng sản Việt Nam đang chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích xây dựng một chế độ dân chủ triệt để, thực sự
cho nhân dân. Phấn đấu vì tự do và hạnh phúc của con người, tạo mọi điều kiện
cho con người phát triển tự do và hoàn thiện. Nhưng vấn đề này vẫn còn nhiều
bất cập, hạn chế, yếu kém, đặc biệt là một số tồn tại trong hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp cần được hoàn thiện, giải quyết thỏa đáng như: chất lượng
của hệ thống pháp luật, hiệu lực thực tế của các văn bản pháp luật, việc đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong các hoạt động tư pháp, vấn đề bồi
thường thiệt hại trong hoạt động tư pháp và hoạt động quản lý hành chính nhà
nước; vấn đề cải cách thủ tục hành chính và trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước, cán bộ công chức; thực hiện pháp luật và tăng cường pháp chế.
Từ sự phân tích trên, việc nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về những
vấn đề cấp bách và giải pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân có ý nghĩa thời sự cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cho nên, đây là lý do
thôi thúc tôi mạnh dạn chọn đề tài “Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh với việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì
dân” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu

Trên cơ sở làm rõ tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất
những kiến nghị về sự vận dụng tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh trong xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì
dân hiện nay.
3

2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất: Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh
Thứ hai: Nội dung cơ bản tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh
Thứ ba: Vận dụng tư tưởng pháp quyền của Hồ Chí Minh vào trong xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Nội dung cơ bản của tư tưởng pháp quyền
của Hồ Chí Minh; Sự vận dụng tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh vào trong
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu vào tìm hiểu, làm rõ tư tưởng
pháp quyền Hồ Chí Minh để vận dụng vào trong xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,vì dân trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở CNDV biện
chứng, CNDV lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam…
4.2. Phương pháp: Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật,
Đề tài sử dụng phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, phương
pháp so sánh, quy nạp và diễn dịch, hệ thống hóa…
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của đề tài gồm có 3 chương 9 tiết.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Nhiều năm qua ở nước ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về về

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã có
bề dày lịch sử hình thành và phát triển ở trong và ngoài nước, cho đến nay,
4

nhiều học giả hiện đại tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu về các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với những đặc trưng riêng của một quốc gia độc lập lại chủ
yếu là đề tài nghiên cứu của các học giả trong nước. Có thể kể đến các công
trình nghiên cứu tiêu biểu, đề cập như cuốn: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ
Tư Pháp, 1993. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới – Quá trình
hình thành và phát triển của Hoàng Văn Hảo, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1995. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Nguyễn Đình Lộc (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998. Tìm
hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật của Nguyễn Xuân Tế,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh
của Vũ Đình Hòe, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001. T.S Phạm Ngọc
Anh và PGS. TS Bùi Đình Phong: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2003;
Đào Tri Úc, Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, H, 2005; Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh
đạo của Đảng của Nguyễn Văn Thảo, Nxb Tư pháp, 2006; Xây dựng Nhà
nước pháp quyền trong bối cảnh văn hoá Việt Nam, Nxb Tư pháp năm 2006
của Bùi Ngọc Sơn, Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, 2006 của Đoàn Trọng
Truyến. Hoàng Thị Kim Quế (chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007…và một số
bài viết trên các báo, tạp chí như bài: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” của Song Thành, tạp chí Người

đại biểu nhân dân, số 39, 1991; “Nghĩ về Hồ Chí Minh và những điều kiện
nâng cao hiệu lực của pháp luật” của Phạm Ngọc Anh, Báo pháp luật ngày
5

3/6/1997. “Chủ tịch Hồ Chí Minh người đặt nền móng cho sự ra đời một Nhà
nước pháp quyền Việt Nam” của Nguyễn Thị Kim Dung trong cuốn “Việt
Nam trong thế kỉ XX”, Nxb Thế giới, Hà Nội,2000. “Một số đặc điểm cơ bản
của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
4/2002 của Hoàng Thị Kim Quế; “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng - những thành
tựu chủ yếu của 60 năm xây dựng và phát triển”, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 9/2005 của Đào Trí Úc; “Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền
thông, số 9/2007 của Hoàng Đình Cúc, “Tư tưởng trị nước của Pháp gia và
vai trò của nó trong lịch sử”, tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Đà
Nẵng, tập 26, số 3/2008 của Nguyễn Thị Kim Bình…Tuy nhiên, việc nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền từ đó vận dụng xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay còn là vấn đề mới.
Các công trình khoa học mới công bố chỉ dừng lại ở việc khảo sát các nội
dung riêng lẻ, chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống quan điểm của Hồ
Chí Minh về Nhà nước pháp quyền. Đề tài này tổng kết những quan điểm cơ
bản về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của
Đảng Cộng sản Việt Nam, góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về nhà nước
pháp quyền và có ý nghĩa tham khảo trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân, trong nghiên cứu, giảng dạy lý luận và lịch sử
về Nhà nước và pháp luật.
6

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG

PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của sự xuất hiện tư tưởng pháp quyền
Hồ Chí Minh
a. Điều kiện lịch sử – xã hội Việt Nam
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chính quyền nhà Nguyễn đã thi
hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, không mở ra cho Việt Nam cơ hội
tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Không phát huy được
những thế mạnh của truyền thống dân tộc và đất nước, không tạo ra tiềm lực
vật chất và tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ quốc, chống lại âm mưu xâm lược của
chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và hiệp định Patơnốt
(1884) được ký kết, xã hội Việt Nam bước sang giai đoạn mới và trở thành xã
hội thuộc địa nửa phong kiến. Trong lòng xã hội thuộc địa có sự phân hóa giai
cấp - xã hội sâu sắc, mâu thuẫn mới bao trùm lên mâu thuẫn cũ, làm cho xã
hội Việt Nam càng thêm đen tối. Có thể kể ra các mâu thuẫn chính như: Mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp; Mâu thuẫn giữa người dân lao
động và triều đình phong kiến; Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam
và giai cấp tư sản.
Trong suốt quá trình thực dân Pháp cai trị, từ giữa thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống thực dân Pháp. Các
cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần vương” do các văn thân, sĩ phu
lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Rồi các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng cách mạng dân chủ tư sản cũng đều bị dìm trong bể máu. Cách mạng
Việt Nam lâm vào cuộc khủng khoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, điều đó
7

cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản trước
nhiệm vụ lịch sử của dân tộc.
Nguyễn Tất Thành sinh ra trong bối cảnh nước mất nhà tan và lớn lên

trong phong trào cứu nước của dân tộc, Người đã sớm tìm ra nguyên nhân
thất bại của các phong trào giải phóng dân tộc và quyết định ra đi tìm đường
cứu nước - tìm một con đường đáp ứng nhu cầu lịch sử của cách mạng Việt
Nam. Đó chính là con đường cách mạng vô sản.
b. Bối cảnh thời đại
Hồ Chí Minh bước vào vũ đài chính trị vào đầu thế kỷ XX khi chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh đã bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và bành
trướng thế lực ở thuộc địa. Theo Lênin, thế giới phân chia đa số (70%) các
dân tộc bị áp bức, số ít (30%) các dân tộc đi áp bức. Khi chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh chuyển sang độc quyền hình thành hệ thống thuộc địa làm nảy
sinh mâu thuẫn mới của thời đại là mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với các
dân tộc thuộc địa, bao trùm lên mâu thuẫn vốn có của thời đại: mâu thuẫn
giữa tư bản và vô sản ở các nước phát triển, mâu thuẫn giữa nông dân và địa
chủ ở các nước lạc hậu.
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, giành chính quyền về
tay nhân dân, mở ra thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa Mác-Lênin phát triển mạnh mẽ, sâu rộng,
thâm nhập vào phong trào cách mạng thế giới, trở thành hệ tư tưởng tiên tiến
của thời đại Quốc tế III được thành lập (1919). Năm 1922 Liên bang Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết ra đời, đánh dấu sự liên minh vô sản trong
nhiều quốc gia. Sự xuất hiện của Quốc tế Cộng sản làm nảy sinh mâu thuẫn
thời đại giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Vai trò định hướng của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã đem lại những thành quả lớn lao cho sự nghiệp vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Quốc tế Cộng sản là
8

trung tâm tập hợp lực lượng cách mạng và chỉ đạo cách mạng thế giới.
Bên cạnh đó, trên thế giới kể từ khi nhà nước tư sản ra đời, với sự xuất hiện
của nền dân chủ tư sản, nhà nước pháp quyền ban đầu từ nhà nước ý tưởng dần
trở nên một nhà nước hiện thực. Do vậy, trên thực tế tồn tại khái niệm nhà nước

pháp quyền tư sản và về thực chất nhà nước pháp quyền đang được tuyên bố xây
dựng ở hầu hết các quốc gia tư bản phát triển và đang phát triển.
Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học
thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp, đây là nguyên tắc chính của chủ nghĩa lập
hiến tư sản, tự do, dân chủ.
Những tư tưởng và mô hình về Nhà nước pháp quyền kiểu phương Tây
chứa đựng trong mình những thành tựu của các quan điểm dân chủ, tự do tiến
bộ của cách mạng tư sản trên thế giới, pháp quyền thực chất là xây dựng tinh
thần thượng tôn pháp luật. Vì những lẽ đó, Nhà nước pháp quyền được xem
như một yếu tố của nền văn minh nhân loại.
Sống trong bối cảnh lịch sử thời đại này, từ thực tiễn hoạt động cách
mạng sôi nổi, phong phú, Hồ Chí Minh đã tìm ra những quy luật, đúc kết
thành lí luận. Trong những năm bôn ba ở các nước tư bản phát triển, Hồ Chí
Minh đã nghiên cứu cách tổ chức Nhà nước ở đó, phê phán những mặt tiêu
cực, tiếp thu những hợp nhân hợp lí trong nhà nước pháp quyền ở các nước tư
sản trên thế giới. Hồ Chí Minh cũng không ngừng học hỏi, tiếp thu những
thành tựu về xây dựng một chế độ ưu việt ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa để phát triển trong quan điểm của mình về một hình thức Nhà nước phù
hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cụ thể là sự chuyển biến trong tư
tưởng của Người từ một Nhà nước công - nông - binh sang Nhà nước cộng
hòa dân chủ nhân dân.
9

1.1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự xuất hiện tư tưởng pháp
quyền Hồ Chí Minh
a. Cơ sở lý luận
- Tư tưởng pháp trị phương Đông
Hàn Phi (281 TCN - 233 TCN) là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối

thời Chiến Quốc, là học trò xuất sắc của Tuân Tử. Tư tưởng chính trị cơ bản
của Hàn Phi là tư tưởng pháp trị, ông không phải là người sáng lập Pháp gia
nhưng Hàn Phi thành vĩ đại là vì ông đã nâng các tư tưởng pháp trị lên thành
một hệ tư tưởng. Ông nhìn thấy thực trạng chính trị đương thời, Hàn Phi đau
xót: các vua chúa, mà trước hết là ở nước Hàn, chẳng lo soi sáng pháp chế,
nắm lấy cái thế để chế ngự bầy tôi, lo nước giàu dân mạnh, dùng những người
tài giỏi; trái lại, họ nghe theo bọn sâu mọt làm hại nước. Hàn Phi có sẵn học
vấn vô cùng uyên bác tiếp thu của Tuân Tử, ông kiểm soát lại tình hình chính
trị của các thời đại, lý giải tại sao nước này mạnh, nước kia yếu, thời kỳ này
cường thịnh, thời kỳ kia suy đồi. Ông thấy lý do rất đơn giản, những người
nhà vua cần dựa vào để bảo vệ nước là người tài giỏi, binh sĩ, người cày thì bị
vứt bỏ; trái lại nhà vua lo nuôi bọn lừa dối, làm hại đến nước. Không ai chịu
xây dựng một kỷ cương, pháp luật để làm cho dân giàu nước mạnh mà chỉ
vâng theo ham thích nhất thời, càng hiểu được sự thực ông càng thất vọng.
Ông đã dốc hết tâm trí, gửi tất cả tâm hồn và tinh lực vào việc viết tác phẩm
Hàn Phi tử để mong để lại đời sau cái học thuyết mà ông tin là sẽ làm cho dân
yên, nước mạnh.
Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi tử là sự tổng hợp ba trường phái: trọng
pháp; trọng thế và trọng thuật của Pháp gia. Ông khẳng định tầm quan trọng
của pháp luật và cho rằng, pháp luật phải công khai - pháp là cái chép để ở
trong sách vỡ, đặt nơi cửa công, ban bố cho trăm họ. Đã lập pháp luật thì cả
nước, trên dưới đều biết, không ai được tự ý thay đổi.
10

Hàn Phi cho rằng, chỉ cần duy trì hiệu lực của pháp luật thì sẽ có thể giữ
vững được trật tự chính trị bình thường và thu được những hiệu quả lớn. Cho
nên việc làm cho pháp luật không bị hỏng nát là tiền đề và mục đích tối cao
của chính trị. Theo ông, chính trị tất cả đều xoay quanh tinh thần có phù hợp
với pháp luật hay không. Tất cả cứ đúng mực thước, đúng pháp luật mà làm
thì xã hội sẽ ổn định.

Tư tưởng của Hàn Phi Tử đối nghịch lại với tư tưởng của Nho giáo (đức
trị), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật, ông rất đề
cao pháp luật trong đường lối trị nước và khẳng định sự tất yếu phải trị nước
bằng pháp luật. Ông đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng pháp luật” (dĩ pháp trị
quốc). Ông khẳng định vai trò của pháp luật trong sự phù với điều kiện xã
hội, tính nghiêm minh và công khai của pháp luật, nguyên tắc bình đẳng trước
pháp luật, Với ông, thưởng và phạt là hai cái cán, giúp cho kẻ thống trị kiểm
soát, thậm chí nô dịch nhân dân…Người cai trị phải có tinh thần thượng tôn
pháp luật. Vua phải dùng phép nước chứ không được theo ý mình.Vua dùng
phép nghiêm minh thì bề tôi không thể lấn át được. Muốn cai trị giỏi thì vua
phải áp dụng lý thuyết pháp trị. Theo Hàn Phi, bậc minh quân khiến pháp luật
chọn người chứ không tự mình tiến cử, khiến pháp luật đo lường công lao chứ
không tự mình tính toán. Người cai trị phải biết dẹp bỏ riêng tư tôn trọng sự
công bằng; biết suy xét, biết tôn trọng bề tôi, biết thuyết phục và lắng nghe.
Bậc vua chúa cần nói năng cẩn thận, làm việc thận trọng, lấy tỉnh để khống
chế động, lựa người để giao cho chức vụ thích hợp; tùy theo công việc mà
thưởng phạt cho nghiêm minh. Chính sách cai trị phải dựa vào ý dân, dân
muốn gì thì phải cấp cho cái đó, không muốn cái gì thì trừ cho cái đó. Hàn phi
tử đưa ra quan điểm; bản chất con người là ác, muốn quản lý xã hội phải khởi
xướng ra lễ nghĩa và chế định ra pháp luật để uốn nắn tính xấu của con người.
Pháp phải hợp thời, pháp luật phải soạn sao cho dân dễ biết dễ thi hành; pháp
11

luật phải công bằng bênh vực kẻ thiểu số; thường phải có trọng hậu, phạt phải
nặng. Đó là tư tưởng về chính trị xã hội: Ông hết sức coi trọng tác dụng của
pháp luật, xây dựng một lý tưởng pháp trịhoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm
hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật”, “thế”. Nội dung chủ yếu của
“pháp” có thể quy về hai khái niệm chủ yếu là “thưởng”và “phạt”: thưởng hậu
và phạt nặng.
Nói chung, học thuyết pháp trị của Hàn Phi lấy pháp luật làm công cụ trị

nước là phù hợp với xu hướng thống nhất trên cơ sở thiết lập chế độ phong
kiến chuyên chế trung ương tập quyền của giai cấp địa chủ phong kiến mới.
Nhưng nhìn chung, học thuyết chính trị Hàn Phi có những hạn chế nhất định
đó là: Lý luận về quyền lực nhà nước chỉ là cái đặt ra để bảo vệ người giàu
có, để che đậy bản chất bóc lột của giai cấp địa chủ mới. Ông quá tuyệt đối
hóa pháp luật ở những khía cạnh biểu hiện cụ thể của nó mà không thấy được
còn có những công cụ khác kết hợp để trị nước. Hơn nữa, lý thuyết pháp trị
chắc chắn không thể thực hiện được với đúng nghĩa của nó khi mà xã hội còn
tổ chức theo kiểu quân chủ chuyên chế, vì theo Hàn Phi hình phạt không áp
dụng đối với vua…
- Tư tưởng chính trị truyền thống Việt Nam
Tư tưởng chính trị Việt Nam gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam,
được kết tinh từ lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Lịch sử đó đã hình thành nên những giá trị văn hóa chính trị truyền
thống tiêu biểu Việt Nam mà trước hết có thể nói đến đó là một nền chính trị
yêu nước, thương dân, dân là gốc; là tư tưởng đấu tranh cho độc lập dân tộc,
tự do, tự lực tự cường; là tinh thần tự hào dân tộc, tự tôn nền văn hiến quốc
gia; là nền chính trị đạo lý, tôn trọng chính nghĩa, bảo vệ công lý, tư tưởng và
hành vi chính trị khoan dung, độ lượng, vị tha; vừa đề cao đức trị vừa đề cao
pháp trị, hình thành tư tưởng về một nền chính trị pháp quyền…Tất cả những
12

giá trị, phẩm chất, năng lực đó hợp thành một nền chính trị nhân đạo, nhân
văn, tất cả vì con người của văn hóa chính trị Việt Nam.
Dân là gốc (của nước) - tư tưởng chính trị xuyên suốt trong lịch sử dân
tộc Việt Nam đã được lịch sử dân tộc kiểm chứng: Chỉ khi nào chính quyền
an dân, vì dân, trọng dân thì nước thịnh, khi nào chính quyền xa dân, xem
thường dân thì nước suy. Ở Đại Việt thời Lý, tư tưởng dân bản, thân dân được
thể hiện khá đậm nét trong đời sống xã hội. Các vua Lý đều nói tới người dân
qua những cách diễn đạt khác nhau, như “thuận lòng dân” của Lý Thái Tổ hay

“yêu dân như con” của Lý Thánh Tông. Quan hệ vua quan – thần dân khá gần
gũi. Với vương triều Lý, nền chính trị nhân đạo thân dân được biểu hiện trên
nhiều khía cạnh, song nổi bật nhất biểu hiện ở quan điểm đức trị của các vua
triều Lý. Trong 20 năm trị vì đất nước, Lý Công Uẩn đã coi “vua lấy dân làm
trời” là quan điểm nền tảng để xây dựng vương triều. Năm 1012, ông đã cho
xây dựng cung Long Đức ở ngoài thành cho hoàng thái tử Phật Mã ở với ý
muốn thái tử hiểu biết mọi việc của dân. Noi gương Lý Thái Tổ, các đời vua
sau của triều Lý tiếp tục thực hiện chính sách đức trị. Năm 1052 vua Lý Thái
Tông cho đúc chuông lớn đặt ở Long Trì để “dân ai có oan ức gì không bày tỏ
được thì đánh chuông ấy tau lên” [30; 103]. Lý Thánh Tông đã từng tha bổng
cho một phạm nhân chỉ vì không hiểu luật. Nhân sự kiện này, vua xuống
chiếu quy định rằng: “Từ nay các tội bất kỳ nặng, nhẹ đều phải răn dạy kỹ
lưỡng và nhất nhất đều phải khoan giảm” [9; 87]. Lý Thường Kiệt, một trong
những anh hùng kiệt xuất của vương triều Lý cho rằng: “Trời sinh ra dân
chúng, vua hiền ắt hòa mục, đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân” [60; 171].
Do ảnh hưởng của tư tưởng không phân chia đẳng cấp của Phật giáo, tư
tưởng “Dân vi bản”, “Dân vi quý” của Nho giáo buổi đầu, nên trong chính sự
các vua Lý – Trần đã thể hiện được tinh thần coi trọng dân, đề cao dân, lấy
dân làm gốc. Mỗi khi quyết định những việc lớn, có tầm quốc gia, vua thường
13

tham khảo ý kiến của dân, như vua Lý Thái Tổ với việc dời đô năm 1010, Trần
Thánh Tông với Hội nghị Diên Hồng năm 1285 để hỏi ý kiến các bô lão, tức hỏi
ý kiến dân chứ không phải hỏi ý kiến những người đứng đầu các điền trang, thái
ấp vốn là người của hoàng tộc. Các vua Lý hết sức coi trọng quyền tố cáo, khiếu
nại của dân. Ngay khi vừa lên ngôi, Lý Thái Tổ đã xuống chiếu: “Từ nay ai có
việc oan ức, cho đến triều tâu, vua thân xét quyết” [30; 239]. Trong các năm
1029, 1033, 1052 các vua lần lượt cho đúc chuông lớn đặt ở điện Long Trì để ai
có chuyện oan ức đánh chuông lên, vua sẽ đích thân minh xét. Năm 1076, Lý
Nhân Tông ban chiếu cầu “những lời nói thẳng”, muốn nghe lời tấu bày trung

thành để hiểu thấu nguyện vọng, mong ước của muôn dân.
Trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử hang nghìn năm dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta, hầu hết các nhà cầm quyềN đều rất chú trọng tới việc
xây dựng pháp luật, duy trì xã hội bằng sự nghiêm minh của pháp luật. Kết hợp
đức trị với pháp trị trong đường lối trị nước của các triều đại. Nhiều bộ luật
lớn đã ra đời và đóng vai trò quan trọng trong việc trị nước, an dân. Những bộ
luật đó không chỉ có ýnghĩa trong lịch sử mà còn có giá trị to lớn trong thời đại
ngày nay như: Hình thư (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời Trần), bộ luật
Hồng Đức (đời Lê),…mà giá trị của nó có thể sánh ngang với các bộ luật nổi
tiếng ở phương Đông.
Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực của
các Nhà nước thân dân những thời kỳ phong kiến hưng thịnh trong lịch sử dân
tộc như kế thừa, phát triển truyền thống đoàn kết, tư tưởng lấy dân làm gốc
thời Lý-Trần; Ở thời Trần, giai cấp thống trị mặc dù giương cao ngọn cờ và
kiên trì nguyên tắc “đức trị”, coi “đức trị” là đường lối chủ đạo trong cách trị
dân trị nước, nhưng đó không phải là đường lối đức trị thuần túy. So với thời
Lý thì thời Trần có bước phát triển hơn cả về việc biên soạn luật lẫn việc kiện
toàn bộ máy pháp luật. Ở trung ương, nhà Trần có cơ quan chuyên xét việc
14

kiện tụng gọi là viện Thẩm hình, ngoài ra còn có viện Đăng văn Kiểm pháp
làm nhiệm vụ xét hỏi của các cơ quan xét xử. Cùng với việc làm đó là sự
tuyển chọn và bổ nhiệm những quan lại thanh liêm vào các cơ quan pháp luật.
Những người được lựa chọn vào làm việc ở các cơ quan luật pháp phải thông
qua thi cử, trong đó có thi về hình luật (thi thủ phân, hỏi về phép đối án); Hay
chú trọng luật pháp và đạo đức trong xây dựng bộ máy nhà nước thời Lê
trung hưng, cùng với tinh thần đề cao pháp luật, Lê Thánh Tông đã từng nhấn
mạnh đến chức năng cơ bản của nhà nước là “lễ nghĩa để sửa tốt lòng dân”.
Bộ Quốc triều hình luật nổi tiếng được hoàn thành dưới triều đại của ông và
được sử dụng, kế thừa trong nhiều triều đại sau này với nội dung chủ yếu là

bảo vệ vương quyền, chế độ quan liêu, trật tự đẳng cấp và gia đình phụ hệ gia
trưởng thông qua cơ chế pháp luật. Bộ Quốc triều hình luật ra đời có tính
nghiêm khắc lẫn tính thực tiễn của nó. Tuy nhiên, bộ luật vẫn chứa đựng
những yếu tố đạo đức được vận dụng khi xử lý một số đối tượng, như phụ nữ,
người già, trẻ em, người tàn tật.
Ở hương thôn, làng Việt Nam là một cộng đồng tự quản, các chức sắc
trong làng, như Hội đồng tộc biểu đều do dân cử ra. Để xử lý các quan hệ
cộng đồng, ngoài pháp luật, chế độ phong kiến Việt Nam còn cho phép các
làng được lập ra khoán lệ, hương ước như là các chế định, luật tục, mỗi người
dân phải coi đó là những chuẩn mực buộc phải tuân theo trong quan hệ làng
xã. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc trọng trí thức, hiền tài, cha ông ta từ xưa
đã quan niệm: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước
mạnh và thịnh, nguyên khí yếu thì thế nước kém và suy” (Lời Thân Nhân
Trung, Văn bia số 1 ở Văn Miếu, dựng năm 1442). Vậy nên, việc bồi dưỡng
nhân tài, tin dùng kẻ sĩ, vun đắp nguyên khí là việc cần làm trước tiên. Văn
Miếu – Quốc Tử Giám của nước ta được dựng khá sớm, chế độ khoa cử ngày
càng được hoàn thiện, nhà nước đặt ra chức Đốc học để đôn đốc việc học, cứ
15

ba năm lại mở một kỳ đại khoa. Thi cử nghiêm túc đã mở đường cho các nho
sĩ có tài đức được tiến thân. Để khuyến khích việc học, Lê Thánh Tông có
sáng kiến cho khắc tên các tiến sĩ lên bia đá để “lưu danh muôn thuở”. Chính
nhờ đường lối trọng hiền, cầu hiền, chiêu hiền đãi sĩ coi đó là yếu tố quết định
sự hưng thịnh của đất nước nên khi bước vào kỉ nguyên độc lập, các triều đại
Lý – Trần – Lê…đã đào tạo rất nhiều nhân vật tên tuổi có đóng góp to lớn vào
xây dựng nền văn hóa dân tộc, làm rạng danh đất nước.
Tóm lại, Tư tưởng về đường lối trị nước là sự phản ánh ý chí, chủ trương
của các triều đại phong kiến trong lịch sử. Trong lịch sử Việt Nam, tư tưởng
về đường lối trị nước được hình thành và phát triển cùng với sự hoàn thiện
của bộ máy nhà nước phong kiến. Có thể khẳng định rằng, sự kết hợp giữa tư

tưởng “đức trị” với “pháp trị” trong đường lối trị nước luôn gắn với các triều
đại phong kiến Việt Nam.
- Tư tưởng pháp quyền phương Tây cận đại
Ở mỗi quốc gia, chế độ pháp quyền đều có sự điều chỉnh, thích ứng nhất
định cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước mình. Tuy nhiên, các tư
tưởng, học thuyết pháp quyền đều có chung một điểm hội tụ, đó chính là tinh
thần thượng tôn pháp luật của toàn xã hội và mục tiêu tối thượng vẫn là tạo
dựng và đảm bảo dân chủ.
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển
dân chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các
nhà tư tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322
Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư
tưởng chính trị và pháp lý tư bản sau này như John Locke (1632 - 1704),
Montesquieu (1698 - 1755), J.J. Rousseau (1712 - 1778), Denis Diderot(1713
- 1784), I. Kant (1724 - 1804), G. W. F Hegel; (1770 - 1831)… phát triển như
một thế giới quan pháp lý mới. Tư tưởng pháp quyền phương Tây cận đại là
16

thời kỳ triết học khai sáng, những tư tưởng chính trị phát triển rực rỡ, phong
phú và đa dạng với những tư tưởng tiêu biểu như sau:
John Locke (1632 - 1704): Ông cho rằng bản chất của con người là tự
do, xã hội loài người là tự do, cho nên tự do là cao quý nhất của xã hội của
con người, là tối cao và bất khả xâm phạm. Nhà nước phải đảm bảo sự tự do
của con người, bảo đảm sự tồn tại hợp lý của nhà nước.
Locke chia quyền lực nhà nước thành ba cơ quan với ba quyền khác nhau:
Quyền lập pháp: Là sự biểu hiện ý chí chung của quốc gia và thuộc về
toàn dân, nếu những quốc gia lớn thì cử ra đại biểu nhân dân do nhân dân bầu
ra và phải là là những người hiểu rõ về luật.
Quyền hành pháp: Là quyền thực hiện pháp luật đã được bầu ra bởi cơ
quan lập pháp phải có cơ quan riêng và tách khỏi quốc hội.

Quyền tư pháp: Là quyền xét xử tội phạm và giải quyết tranh chấp giữa
các cá nhân được thực hiện bới thẩm phán do nhân dân bầu ra.
Montesqiueu (1698 – 1755): Phê phán chế độ chuyên chế phong kiến và
cho rằng chuyên chế về bản chất là đối lập với tự do. Ông là người đã xây
dựng học thuyết phân quyền (tam quyền phân lập) với mục đích tạo dựng các
thể chế chính trị đảm bảo tự do chính trị cho các công dân. Tự do chính trị
cho mỗi công dân là quyền làm mọi cái mà pháp luật không cấm. Do vậy tự
do chính trị chỉ có được ở các quốc gia mà tất cả các mối quan hệ đều được
điều chỉnh bằng luật pháp, pháp luật trở thành thước đo của tự do, mặt khác
ông lại cho rằng kinh nghiệm lịch sử bao đời cho thấy người nắm quyền lực
thường có khuynh hướng lạm quyền. Do vậy cách tốt nhất để chống lạm
quyền là phải chống độc quyền, là phải phân chia sao cho quyền lực kiềm chế
quyền lực, từ đó ông đưa ra học thuyết phân lập một cách có hệ thống và là
đối thủ đáng sợ nhất của chế độ chuyên chế phong kiến.
J.J. Rousseau (1712 - 1778): Là nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp, là đại
17

biểu của tầng lớp dân chủ thị dân, ông phê phán gay gắt quan hệ đẳng cấp
phong kiến và chế độ chuyên chế. “Khế ước xã hội” là tác phẩm nỗi tiếng của
ông về chính trị.
Ông đề cao tư tưởng chủ quyền nhân dân, đòi bác bỏ hoàn toàn chế độ
phong kiến. Ông cho rằng trong xã hội mọi người phải được tự do bình đẳng
đó là trạng thái tự nhiên vốn có, là phúc lợi cao nhất của con người, quyền lực
trong xã hội phải thuộc về nhân dân, nhà nước lập ra qua các khế ước xã hội
phải thể hiện ý chí quyền lực của nhân dân.
Về quyền lực nhà nước ông phê phán quan điểm phân quyền của
Montesquieu và cho rằng quyền lực là sự thể hiện ý chí của đại đa số, bản
thân các quyền lập pháp hành pháp và tư pháp là thống nhất, đó chỉ là biểu
hiện bề ngoài của quyền lực tối cao, quyền lực tối thượng của nhân dân.
Quyền lập pháp là ý chí của nhân dân gắn liền với quyền lực quốc gia.

I.Kant (1724 - 1804): Tên tuổi của ông gắn với học thuyết pháp quyền.
Theo Kant, nhà nước là tập hợp của nhiều người, là bảo đảm của sự thắng lợi
của pháp luật và triệt để áp dụng thuyết phân quyền trong tổ chức nhà nước.
Theo ông thì ở đâu áp dụng nguyên tắc phân quyền thì ở đó có Nhà nước
pháp quyền; Nhà nước pháp quyền không phải là một hiện tượng kinh nghiệm
mà là mô hình lý luận, lý tưởng cần phải tuân thủ. Nhà nước đó phải là nhà
nước cộng hòa thuần túy, chân chính, nơi có pháp luật ngự trị, mọi cá nhân,
mọi chủ thể mang quyền lực nhà nước phải phụ thuộc vào pháp luật. Quyền
lập pháp có mục đích tạo ra tự do, còn quyền hành pháp không có mục đích
pháp lí chung mà chỉ tác động đến công dân.
Denis Diderot (1713 - 1784): Theo ông nguồn gốc của nhà nước ra đời
do khuế ước xã hội, nhà nước phải đảm bảo bình đẳng và tự do. Nhà nước
nào vi phạm điều đó thì không còn tư cách để tồn tại.
Về tư cách lãnh đạo ông cho rằng mọi chức vụ của người nắm quyền
18

phải được thực hiện bằng thi cử, dòng đầu tiên của một bộ luật là hạn chế
quyền lực của người nắm quyền.
G. W.F Hegel (1770 - 1831): Ông là người có công rất lớn đóng góp cho
lí thuyết Nhà nước pháp quyền. Theo ông, Nhà nước pháp quyền là sự thể hiện
trong thực tế những ý niệm dưới hình thức nhất định của tồn tại thực tế con
người. Pháp luật là sự thể hiện của tư tưởng tự do. Pháp luật trong Nhà nước
pháp quyền là hiện thực của tự do và tồn tại thực tế của ý chí tự do. Trong xã
hội, nhà nước ở vị trí cao nhất và cao hơn cả con người. Pháp quyền vừa là sự
sáng tạo vừa là sản phẩm của nhà nước. Con người không thể tồn tại thiếu nhà
nước. Sự phân quyền trong nhà nước là nhằm đảm bảo sự tự do công cộng,
chống lạm quyền, chuyên chế, vũ lực và phi pháp.Tuy nhiên, ông cũng cho
rằng, sự phân chia tuyệt đối quyền lực lại là nguy cơ dẫn đến thù địch và chống
đối. Ông tập trung vào việc chống sự tùy tiện, vô pháp luật của cá nhân con
người. Nhưng Nhà nước pháp quyền của Hegel luôn gắn với duy tâm.

Tóm lại, trong thời kì cận đại, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thực sự
có bước phát triển mới. Nó đã trở thành một học thuyết và đã trở thành hiện
thực, được vận dụng ở một số quốc gia phương Tây, mà ta gọi là Nhà nước
pháp quyền tư bản chủ nghĩa hay Nhà nước pháp quyền tư sản.
- Tư tưởng pháp quyền trong các cuộc cách mạng tư sản phương Tây
+ Yếu tố pháp quyền Dân tộc và ảnh hưởng của Tuyên ngôn độc lập của
dân tộc Mỹ:
Mỹ là một quốc gia trẻ xuất hiện trên bản đồ thể giới chỉ khoảng hơn 300
năm nay. Vương quốc Anh được coi chung là mẫu quốc của mười ba thuộc
địa Anh trên đất Mỹ. Nhưng trên một lục địa mới bao la đã mở ra rất nhiều cơ
hội phát triển mạnh mẽ cho con người thì các thuộc địa Mỹ mặc nhiên nằm
ngoài sự giám sát của Vương triều Anh quốc, các đội dân quân của các thuộc
địa xuất hiện công khai. Cuối cùng, chỉ chưa đầy hai tháng, cách mạng của
19

các thuộc đia Mỹ với Vương triều Anh quốc đã giành được thắng lợi, đáp ứng
lòng mong muốn khao khát được li khai của toàn dân thuộc địa.
Ngày 4 tháng năm 1776, Bản Tuyên ngôn độc lập được thông qua không
những tuyên bố sự ra đời của một quốc gia mới mà còn trình bày một triết lý
về tự do của con người (dựa trên luận thuyết của Locke):
“Chúng ta nắm giữ những sự thật này để tự thấy rõ rằng tất cả mọi người
sinh ra đều bình đẳng, rằng họ được Chúa ban phú cho những quyền nhất
định không thể chối cãi được, rằng trong những quyền này có quyền sống,
quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [28; 217].
Đấy là đạo lý con người và pháp lý tự nhiên, hợp với lòng người. Đạo lý,
pháp lý này đã soi sáng và dẫn đường cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
Mỹ khỏi cường quyền áp bức của Vương triều Anh, phân tích cặn kẽ rằng đòi
ly khai với Vương triều ấy tức là đòi quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc của từng con người trong cộng đồng Mỹ. Sự ly khai của họ đối
với chính quốc là hợp lẽ tất nhiên của Trời Đất. Hồ Chí Minh đã có cảm tình

đậm đà với cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Mỹ.Chính vì
vậy, khi cách mạng Tháng 8 năm 1945 ở nước ta thành công. Ngày 2-9-1945
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng Hòa, thì dòng chữ đầu Người đọc như ta biết là câu Người trích ở đoạn
đầu bảnTuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ:
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Trên hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Người, Nguyễn Tất Thành
mới tới Pháp ít lâu thì qua mấy bến cảng thuộc địa của Pháp tại Châu Phi, rồi
Nguyễn Tất Thành sang các cảng nước Mỹ. Chắc rằng, Người hy vọng được
20

nhìn thấy tận mắt một đất nước xuất hiện rực rỡ với cuộc cuộc cách mạng đòi
độc lập – tự do, một đất nước đã nêu cao những lý luận đanh thép trong bản
Tuyên ngôn Độc lập của mình. Người đến thăm New York, Boston mấy lần,
sống ở đây, cùng ăn ở, giải trí, sinh hoạt chính trị với dân nghèo.
Nguyễn Tất Thành hồi mới 13 tuổi đã thấy lóe lên ánh sáng pháp quyền
nhân nghĩa, quyền sống và quyền tự do, bình đẳng bác ái của mọi dân tộc đã
được nêu cao trong tác phẩm Khế ước xã hội của văn hào người Pháp
Rousseou cũng như nhà tư tưởng người Anh Locke ở thế kỷ XVII. Khi đến
đất Mỹ, Người đã đứng lặng người ngắm tượng Nữ thần tự do. Người thấm
thía khi đọc mấy câu thơ của thi hào Emma Lazarut được khắc dưới chân
tượng đài: “Hãy trao vào tay tôi cả muôn ngàn người mệt nhọc, nghèo khổ
chồng chất, tới đây mong được hít thở tự do…”. Ấy vậy mà ngây từ khi từ
New York xuống đến Georgia, Bác đã thấy Tự do và Công lý được áp dụng
một trời một vực đối với những người có màu da khác nhau,những cuộc xung
đột đẩm máu trong lịch sử với giữa người da trắng và người da đỏ. Lại còn có
cả những chính sách, chủ trương, kế hoạch quy mô quốc gia công nhiên lợi

dụng, bóc lột lao động một cách phi nghĩa, phi pháp người da đen, da màu.
Tuy nhiên, không vì thế mà Nguyễn Tất Thành phủ nhận sạch trơn những mặt
hay của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ với những lý luận đanh thép
như: “Chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa
đã ban cho họ những quyền: “BẤT KHẢ XÂM PHẠM, trong đó có quyền
sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.
+ Yếu tố Nhân quyền, Dân quyền của Đại Cách mạng Pháp:
Cách mạng Pháp nổ ra, lúc đầu là những yêu sách đòi hỏi cải cách chế
độ chính trị. Đến ngày 14-7-1789, dân chúng biểu tình kéo đến phá ngục
Bastille là nơi từ lâu giam hãm tù đày, ngược đãi triền miên các chiến sỹ canh
tân phản đối triều đình. Đêm 4-5 Hội nghị dân chúng tuyên bố xóa bỏ chế độ

×