Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn thạc sĩ Tư tưởng nho giáo về đạo đức người quân tử với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay (full)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG



NGUYỄN THỊ MAI VÂN


TƢ TƢỞNG NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC NGƢỜI
QUÂN TỬ VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN





Đà Nẵng, 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


NGUYỄN THỊ MAI VÂN



TƢ TƢỞNG NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC NGƢỜI
QUÂN TỬ VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60.22.80


LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI &NHÂN VĂN


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS.Trần Hồng Lƣu


Đà Nẵng - Năm 2015

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Trần Hồng Lưu
Các số liệu và kết quả nghiên cứu của luận văn là hoàn toàn trung
thực, chưa từng được sử dụng trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Các
tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn đều được chú thích hoặc trích dẫn
rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn




Nguyễn Thị Mai Vân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 3
5. Bố cục của đề tài 3
6. Tổng quan tình hình nghiên cứu 4
CHƢƠNG 1. TƢ TƢỞNG CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC NGƢỜI
QUÂN TỬ 7
1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NÊN ĐẠO ĐỨC NGƢỜI QUÂN TỬ 7
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA NGƢỜI QUÂN
TỬ 14
1.2.1. Khái niệm về quân tử và đạo quân tử 14
1.2.2. Đạo đức ngƣời quân tử 16
Tiểu kết chƣơng 1 28
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN VIỆT NAM
HIỆN NAY 30
2.1. KHÁI NIỆM THANH NIÊN VÀ NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC
MỚI CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY 30
2.1.1. Khái niệm thanh niên 30
2.1.2. Những chuẩn mực đạo đức mới của thanh niên Việt Nam hiện
nay 32
2.2. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN
NAY 38

2.2.1. Về ý thức đạo đức 38
2.2.2. Về hành vi đạo đức 44
2.2.3.Về quan hệ đạo đức 49

2.3. VAI TRÕ CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 52
2.4. NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA THANH NIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY 56
2.4.1.Tác động của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam và các thể chế có liên quan chƣa hoàn thiện 56
2.4.2. Tác động tiêu cực từ gia đình, nhà trƣờng và xã hội 58
2.4.3. Một bộ phận thanh niên thiếu ý thức rèn luyện đạo đức 60
Tiểu kết chƣơng 2 62
CHƢƠNG 3. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VỀ ĐẠO ĐỨC NGƢỜI QUÂN
TỬ ĐỂ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN
NAY 63
3.1. KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TÍCH CỰC VỀ ĐẠO ĐỨC
NGƢỜI QUÂN TỬ 63
3.2. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC GẮN VỚI GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 69
3.3. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC QUA NÊU GƢƠNG 71
3.4. TĂNG CƢỜNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA GIA ĐÌNH VÀ NHÀ
TRƢỜNG 74
3.5. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 76
3.5.1. Đối với Đảng, nhà nƣớc 76
3.5.2. Đối với bộ giáo dục và đào tạo 80
3.5.3. Đối với gia đình 81
3.5.4. Đối với thanh niên 82
Tiểu kết chƣơng 3 84
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Để phát triển bền vững, ngoài yếu tố kinh tế, chúng ta không đƣợc quên
yếu tố văn hóa. Trong đó xây dựng một nền đạo đức mới luôn đƣợc coi là nền
tảng quan trọng cho sự phát triển đó. Xuyên suốt lịch sử phát triển của dân tộc
Việt Nam, dù trong thời gian nào, hoàn cảnh nào thì vấn đề đạo đức luôn là
vấn đề cốt lõi, trọng tâm, là cơ sở để xây dựng và phát triển con ngƣời. Việc
kế thừa và tiếp thu chọn lọc những tinh hoa trong nền văn minh nhân loại, làm
giàu thêm cho đời sống văn hóa và đạo đức dân tộc là hết sức cần thiết, đặc
biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Nơi đã
sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hƣởng đến nền văn minh
Châu Á cũng nhƣ toàn thế giới, kể cả Việt Nam. Một trong số đó phải kể đến
trƣờng phái triết học Nho gia. Trong suốt hơn hai ngàn năm lịch sử tồn tại và
phát triển, Nho giáo đã để lại nhiều giá trị tốt đẹp cả về phƣơng diện chính trị
- xã hội lẫn xây dựng đạo đức con ngƣời. Hồ Chí Minh từng chỉ rõ, ƣu điểm
của Nho giáo là góp phần tu dƣỡng đạo đức cá nhân. Đã biết bao thế hệ với
bao con ngƣời đã học tập và vận dụng giá trị tốt đẹp trong học thuyết của Nho
giáo nhƣ “chính danh”, “nhân”, “lễ”, “nghĩa”, “trí”, “tín” vào việc tu dƣỡng
bản thân cũng nhƣ xây dựng những phƣơng châm sống cho mình. Đặc biệt,
hình mẫu ngƣời “quân tử”, mẫu ngƣời lý tƣởng mà Nho giáo xây dựng nên đã
từng là chuẩn mực cho con ngƣời trong xã hội cũ phấn đấu noi theo trong
bƣớc đƣờng sự nghiệp công danh, cũng nhƣ “tu thân” hoàn thiện bản thân
mình. “Chính tâm- tu thân- tề gia- trị quốc- bình thiên hạ” vẫn là những phẩm

chất tốt đẹp cho hình mẫu về con ngƣời lý tƣởng. Những phẩm chất cao quý
đó của ngƣời quân tử, nếu đƣợc gạn lọc, kế thừa vẫn còn không ít giá trị để
2

ngƣời đời sau học hỏi, phát huy.
Trong quá trình đất nƣớc ta mở cửa hội nhập giao lƣu quốc tế, bên cạnh
những mặt tích cực vẫn xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực ảnh hƣởng đến lối
sống và đạo đức của con ngƣời Việt Nam hiện nay nhƣ hám danh, hám lợi,
chạy theo đồng tiền, du nhập lối sống, văn hóa lai căng mà đánh mất đi những
giá trị tốt đẹp của đạo đức truyền thống. Điều đáng lo là chính tầng lớp thanh
niên, những ngƣời chủ tƣơng lai của đất nƣớc lại là những ngƣời chịu ảnh
hƣởng nhiều nhất của các yếu tố tiêu cực đó. Vấn đề đạo đức của thanh niên
hiện nay đang ở tình trạng báo động và có nhiều điều bất ổn. Để đáp ứng tốt
yêu cầu phát triển đất nƣớc trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
góp phần hạn chế tình trạng suy thoái đạo đức, điều chỉnh các hành vi lệch
chuẩn của thanh niên, việc nghiên cứu về đạo đức Nho giáo, qua đó kế thừa
những yếu tố tích cực vào việc giáo dục đạo đức của thanh niên là điều cần
thiết. Đó là lý do tôi chọn “Tư tưởng Nho giáo về đạo đức người quân tử với
việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu tƣ tƣởng Nho giáo về đạo
đức ngƣời quân tử và thực trạng đạo đức thanh niên nƣớc ta, luận văn kế thừa
những giá trị tích cực về đạo đức của ngƣời quân tử và đề xuất các giải pháp
nhằm phát huy những giá trị tích cực đó vào việc giáo dục đạo đức cho thanh
niên Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục đích này, luận văn đề ra những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích những nội dung cơ bản về đạo đức ngƣời quân tử trong Nho
giáo và rút ra những giá trị tích cực của nó.
- Tìm hiểu tình hình đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay, chỉ ra vai

trò của việc giáo dục đạo đức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3

đất nƣớc.
- Vận dụng những ƣu điểm của Nho giáo về đạo đức ngƣời quân tử vào
việc giáo dục đạo đức cho thanh niên và đề ra một số giải pháp giáo dục đạo
đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những giá trị tích cực trong tƣ tƣởng
Nho giáo về đạo đức ngƣời quân tử và tình hình đạo đức thanh niên Việt Nam
hiện nay, hƣớng tới các giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt
Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu là một số nội dung về đạo đức ngƣời quân tử trong
tƣ tƣởng Nho giáo ở Trung Quốc; tình hình đạo đức thanh niên Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc; thực tiễn công tác
giáo dục đạo đức ở gia đình, nhà trƣờng, xã hội cho thanh niên Việt Nam hiện
nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng - chủ nghĩa duy vật lịch sử, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối của
Đảng ta về vấn đề đạo đức. Ngoài ra, còn có các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng con ngƣời Việt Nam xã hội chủ nghĩa và các nghị
quyết về thanh niên.
Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên
cứu nhƣ logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, đối chiếu,
so sánh.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chƣơng 9 tiết.


4

6. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Xung quanh vấn đề Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng
đã có nhiều tác giả trong nƣớc và nƣớc ngoài nghiên cứu theo những phƣơng
diện khác nhau, nhƣng có thể phân định thành một số nhóm vấn đề sau đây:
- Nhóm thứ nhất, đi sâu luận giải nguồn gốc, nội dung của Nho giáo và
những yêu cầu đạo đức của Nho giáo, để từ đó thấy đƣợc sự ảnh hƣởng của
Nho giáo đối với sự phát triển của xã hội. Trong đó có: Nho giáo của Trần
Trọng Kim, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, (2001); Nho giáo xưa
và nay của Quang Đạm, Viện Khoa học Xã hội Nhân văn, Hà Nội, (1994);
Đạo Nho và văn hóa phương Đông của Hà Thúc Minh, Nhà xuất bản Giáo
dục, (2001); Mối quan hệ giữa Nhân và Lễ trong học thuyết Khổng Tử của
Nguyễn Thị Thanh Hải, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Huế, (2004); Tư
tưởng Nhân, Lễ, Chính danh trong tác phẩm Luận ngữ của Khổng Tử và vận
dụng giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị
Thanh Bình, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học Huế, (2005)… Các tác giả
đã trình bày, phân tích những tƣ tƣởng cơ bản của Nho giáo trong quá trình
hình thành và phát triển của nó. Khi đánh giá về Nho giáo, bên cạnh phê phán
đạo đức Nho giáo là khắt khe, trói buộc con ngƣời đặc biệt đối với phụ nữ,
các tác giả đều đề cao những nhân tố tích cực của Nho giáo, cho rằng đạo đức
Nho giáo có vai trò to lớn trong việc giáo dục đạo đức con ngƣời và ổn định
trật tự xã hội. Về “quân tử” đã có một số bài viết trên các tạp chí, các báo đã
đề cập đến nhƣ Quân tử qua tứ thư của Trần Hồng Thúy, tạp chí Triết học số
3 tháng 9 năm 1992. Bài viết đã nêu lên đƣợc những phẩm chất đạo đức mà
quân tử phải tu dƣỡng, trong quan hệ ứng xử quân tử cần phải giúp ngƣời, nêu
gƣơng, vấn đề nhận lỗi và sửa lỗi…Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về kẻ sĩ
của Lê Thị Lan, tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 11 năm 2013 nêu lên
đƣợc vị trí của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến Trung Hoa, còn trong xã hội Việt
5


Nam thì đó là ngƣời có tài, có đức. Kẻ sĩ cần phải có những phẩm chất và bổn
phận đó là ngƣời tài, là nguyên khí của quốc gia. Chức phận của kẻ đại trƣợng
phu trong vũ trụ là trên thì vì đức lớn, dƣới thì vì lợi ích của ngƣời dân, phải
theo đạo vua tôi, dùng tài kinh luân của mình để gánh vác trọng trách trị quốc
an dân.
- Nhóm thứ hai: Vấn đề đạo đức của thanh niên đƣợc đề cập trong Xây
dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của Trịnh Duy Huy, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, (2009); Ý thức đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của Lê Thị Tuyết Ba,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội, (2010), Đề tài Đạo đức của sinh viên trong
điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp
của Vũ Thanh Hƣơng (Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004) , Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp nhà nƣớc
thực trạng và xu hướng biến đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá
trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Phạm Hồng Tung Mã số:KX.03.16/06-
10, Hà Nội, (2010), Đề tài khoa học cấp bộ Sự lựa chọn các giá trị đạo đức và
nhân văn trong định hướng lối sống của sinh viên, của Huỳnh Văn Sơn
(2009),…Các tác giả đã phân tích các yếu tố trong mối quan hệ đạo đức, thực
trạng đạo đức của thanh niên và nêu ra một số cách giải quyết. Cuộc Điều tra
quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ 2 (SAVY 2) vừa
đƣợc Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa Gia đình thực hiện với hơn 10.000
mẫu khảo sát ở 63 tỉnh thành, tiến hành từ năm 2008, và công bố vào tháng
6/2010, đã cung cấp những số liệu về gia đình, điều kiện sống, giáo dục, việc
làm, sức khỏe, giải trí, thói quen, hành vi, hoài bão… của vị thành niên và
thanh niên Việt Nam ngày nay.
Với tinh thần cầu thị, tiếp bƣớc các công trình nghiên cứu trƣớc về Nho
giáo, luận văn tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu những phạm trù cơ bản của Nho
6


giáo về đạo đức ngƣời quân tử để tìm ra những giá trị tích cực của nó góp
phần vào việc hoàn thiện đạo đức con ngƣời, đặc biệt trong việc giáo dục đạo
đức cho thanh niên nƣớc ta hiện nay.

















7

CHƢƠNG 1
TƢ TƢỞNG CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC
NGƢỜI QUÂN TỬ

1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NÊN ĐẠO ĐỨC NGƢỜI QUÂN TỬ
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm
nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục. Và có thể nói văn
minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Bên

cạnh những phát minh, phát triển về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là
nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hƣởng đến nền văn minh
Châu Á cũng nhƣ nền văn minh trên toàn thế giới. Trong số các học thuyết
triết học lớn đó, phải kể đến trƣờng phái triết học Nho gia.
Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “Nho”. Theo
Hán tự “Nho”là chữ “Nhân” (ngƣời) đứng cạnh chữ “Nhu” (cần, chờ đợi).
Nho gia còn gọi là nhà nho, ngƣời đã học thấu sách thánh hiền đƣợc thiên hạ
cần để dạy bảo ngƣời đời ăn ở cho hợp luân thƣờng đạo lý. Trƣớc thời Xuân
thu, nhà nho đƣợc gọi là “Sỹ” chuyên học văn chƣơng và lục nghệ góp phần
trị vì đất nƣớc. Đến đời mình, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tƣ tƣởng và
tri thức trƣớc đây trở thành học thuyết, gọi là Nho gia hay Nho học. Ngƣời ta
cũng gắn học thuyết này với tên tuổi ngƣời đã sáng lập nên nó, gọi là Khổng
học. Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, ngƣời làng Xƣơng Bình, huyện
Khúc Phụ, nay thuộc Phủ Duyện Châu, Tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông
sinh vào năm 551 TCN. Đó là lúc xã hội Trung Hoa cổ đại loạn lạc triền
miên, các vua chúa chỉ lo hƣởng thụ và chém giết lẫn nhau để xƣng hùng,
xƣng bá. Đạo lý nhân luân xáo trộn, vinh nhục không rõ ràng, thiện ác khó
phân biệt. Học thuyết của Khổng Tử lập thành hệ thống lấy nhân, nghĩa, lễ, trí
mà dạy ngƣời. Lấy đạo cƣơng thƣờng mà hạn chế nhân dục để giữ trật tự ở
8

trong xã hội cho bền vững. Trong thập niên 70 của thế kỷ 20, một học giả
ngƣời Mỹ đã xếp Khổng Tử ở ngôi vị thứ 5, chỉ sau chúa Zê - xu, Thích - ca -
mầu – ni trong 100 nhân vật có ảnh hƣởng trong lịch sử. Khổng Tử là ngƣời
sáng lập ra học thuyết Nho giáo ở Trung Quốc. Hơn 2000 năm qua, tƣ tƣởng
Nho giáo ảnh hƣởng đến với Trung Quốc không chỉ là chính trị, văn hóa mà
còn trong sinh hoạt, ứng xử của con ngƣời.
Khổng Tử sống trong thời Xuân thu. Thời kỳ này, thể chế thống nhất của
quốc gia bị phá vỡ, sản sinh ra nhiều chƣ hầu lớn nhỏ. Học thuyết của Khổng
Tử mới xuất hiện không trở thành tƣ tƣởng chủ yếu ngay lập tức mà mãi đến

thế kỷ thứ 2 TCN thì tƣ tƣởng đó mới có đƣợc vị trí độc tôn. Trung Quốc lúc
đó đã trở thành một nhà nƣớc theo chế độ tập quyền trung ƣơng lớn mạnh và
thống nhất. Trải qua nhiều nỗ lực của giai cấp thống trị và các đại sĩ phu thời
Hán, Khổng Tử và tƣ tƣởng Nho gia của ông mới trở thành tƣ tƣởng chính
thống cho nhà nƣớc phong kiến Trung Hoa. Thời Xuân thu, Khổng Tử đã san
định, hiệu đính và giải thích bộ lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thƣ, Kinh
Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc
nên chỉ còn năm bộ kinh thƣờng đƣợc gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất
(479 TCN), học trò của ông tập hợp các lời dạy của thầy để soạn ra cuốn Luận
ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử
dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là
Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tƣ viết ra cuốn Trung dung. Đến thời chiến quốc,
một ngƣời có công bảo vệ và phát triển Nho giáo là Mạnh Tử. Mạnh Tử (372
- 289 TCN) Tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dƣ ngƣời gốc nƣớc Trâu thuộc miền
nam, tỉnh Sơn Đông ngày nay. Mạnh Tử đã tập hợp và ghi lại những cuộc
biện luận của mình thành tập gọi là “bảy thiên” Mạnh Tử. Mạnh Tử cùng với
Luận ngữ, Đại học và Trung dung tập hợp thành bộ Tứ thƣ và cùng với Ngũ
kinh ( gồm Kinh Thi, Kinh Thƣ, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch) đã trở
9

thành tài liệu chính thức của kinh điển Nho giáo. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử
hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trƣớc đời
Tần). Khổng giáo hay là “tƣ tƣởng Khổng - Mạnh” từ đây mới hình thành nên
hai khái niệm Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuât, nội dung
của nó còn đƣợc gọi là Nho học. Còn Nho giáo mang tính chất tôn giáo. Ở
Nho giáo, Văn Miếu trở thành đƣờng và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo
lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Đến đời Hán, Hán Vũ Đế đƣa Nho giáo lên làm quốc giáo và dùng nó
làm công cụ thống nhất đất nƣớc về tƣ tƣởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành
hệ tƣ tƣởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt 2000

năm. Nho giáo thời kỳ này còn đƣợc gọi là Hán Nho. Nhân vật nổi trội đó là
Đổng Trọng Thƣ (179-104 TCN), ngƣời đƣợc coi là tập đại thành của Nho
giáo. Ông đã bổ sung vào học thuyết Khổng - Mạnh phần nói về trời đất, quỷ
thần, âm dƣơng, ngũ hành mà Khổng Tử, Mạnh Tử cố né tránh hoặc nói sơ
qua. Đồng thời hệ thống hóa học thuyết này một cách tƣơng đối hoàn chỉnh,
vừa làm cho quân quyền và thần quyền quyện chặt vào nhau, mang tính thần
học duy tâm với các luận đề “trời ngƣời hợp nhất”, “trời ngƣời cảm ứng”,
“trời không biến đổi đạo cũng không biến đổi” nhằm đề cao quyền lực của
giai cấp thống trị, thiên tử là con trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”.
Đến đời nhà Tống, các vua rất sùng bái Nho học, Nho giáo thời kỳ này
đƣợc gọi là Tống Nho, với các tên tuổi Thiệu Ung, Chu Đôn Di, Trƣơng Tái
với học thuyết lý học. Rồi hai anh em họ Trình là Trình Hạo và Trình Di. Nho
học thời Nguyên không đƣợc thịnh hành nhƣ thời Tống nhƣng vẫn có nhiều
danh nho nhƣ Triệu Phục, Hứa Hành và Hứa Khiêm. Nho giáo đời nhà
Nguyên tuy so với đời trƣớc thì không bằng, nhƣng cũng rất thịnh đạt. Những
học giả nhƣ Triệu Phục, Hứa Hành và Hứa Khiêm đều là ngƣời có đức hạnh,
rất xứng đáng là danh nho một thời. Tuy nhiên, Nho học trong thời Nguyên
10

chỉ bó hẹp trong phạm vi Trình Chu mà thôi, bởi ai cũng cho rằng Nho học
đến đó là cùng cực rồi. Bởi vậy, Nho học thời Nguyên chỉ nhằm giữ lấy cái
danh tiết cho trong sạch chứ không ai phát triển thêm đƣợc điều gì cao minh
hơn nữa. Đến thời nhà Minh, sau khi Chu Nguyên Chƣơng lấy đƣợc đất Kim
Lăng, đón mời các nho sĩ, mở nhà quốc tử học và làm miếu thờ Khổng Tử thì
nền Nho học có nhiều bƣớc phát triển. Xét ra, Nho học đời Minh không ra
ngoài phạm vi Tống học dù có phái Diêu Giang chuyên về mặt tâm học hay
phái Hà Đông tôn sùng cái học của Trình Chu. “Cái học ấy từng chia ra chi
nọ, phái kia nhƣng kết cục vẫn theo cái tôn chỉ thiên địa vạn vật nhất thể, và
về đƣờng thiết thực vẫn cố giữ cái khí tiết của học giả” [26; 669]. Triều đại
nhà Thanh gắn với sự tiếp xúc văn hóa phƣơng Tây đã đặt ra những vấn đề

không thể giải quyết đƣợc dƣới ánh sáng của đạo Nho. Đến cuối triều đại nhà
Thanh một số nhân vật tiêu biểu đã hấp thụ đƣợc nhiều tƣ tƣởng mới ở Tây
Âu về “tự do”, “bình đẳng”, “dân chủ”. Khang Hữu Vi, Lƣơng Khải Siêu
cũng muốn xây dựng và phát triển Trung Quốc theo hƣớng công nghiệp và
chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật, nhƣng cuối cùng họ đi đến “cải lƣơng”
và “duy tâm” dƣới ngọn cờ của Hoàng đế triều Thanh. Mãi cho đến 1911 cách
mạng Tân Hợi đã giành thắng lợi, Trung Quốc mới bắt đầu từ vũng bùn
phong kiến dần dần khởi sắc lên. Đến đây lịch sử Nho giáo gắn liền với các
triều đại phong kiến Trung Quốc cơ bản đã kết thúc, song những ảnh hƣởng
của nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay với những dƣ âm của nó.
Nho học về thực chất là một học thuyết về chính trị đạo đức mà biểu
hiện tập trung ở đƣờng lối “đức trị”. “Đức trị” có nghĩa là đƣờng lối trị nƣớc
bằng đạo đức. Khổng Tử quan niệm: “Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để
cảm hóa dân) thì nhƣ sao bắc đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hƣớng về
cả (tức là thiên hạ nghe theo”[30;37]. Với Khổng Tử đạo đức là gốc của con
ngƣời, nói đến con ngƣời trƣớc hết là nói đến đạo đức: “Làm ngƣời có nết
11

hiếu để thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề trên mà
thích làm loạn thì chƣa từng có. Ngƣời quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc
mà vững thì đạo đức sinh ra.”[30;26].
Khổng Tử coi “nhân” là đức căn bản nhất của con ngƣời cả về xử thế lẫn
tu thân và bao gồm cả các đức khác. Thật vậy nhân vừa là tu thân vừa là ái
nhân lại vừa là xử kỷ vừa là tiếp vật. “Nhân” còn là “trung” (yêu ngƣời, hết
lòng với ngƣời) và “thứ” (làm cho ngƣời những cái mình muốn và đừng làm
cho ngƣời những cái mình không muốn). Nhƣng đối với Khổng Tử, điều quan
trọng nhất trong tƣ tƣởng về nhân là biểu hiện về mặt chính trị của nó. Có lẽ
với Khổng Tử thái độ đối với dân là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá
đức nhân của ngƣời cầm quyền: “Sai khiến dân thì phải thận trọng nhƣ trong
một cuộc tế lớn, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho ngƣời” [30;196].

Trong nƣớc không ai oán mình, trong nhà một đại phu không ai oán mình.
Ông từng nói “Tài trí đủ để trị dân (có ngƣời hiểu là đủ để biết mọi lẽ) mà
không biết dùng đức nhân để giữ dân, thì sẽ mất dân” [30;266].
Sau “nhân” Khổng tử quan tâm nhiều đến “lễ” bởi lễ cần thiết để duy trì
trật tự xã hội và có trật tự xã hội thì vua mới đƣợc tôn, nƣớc mới đƣợc trị. Mặt
khác, lễ có nội dung luân lý của nó, trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời
với nhân. Khổng Tử xem điều lễ là hình thức của nhân, là chính đạo mà mọi
ngƣời nên thi hành, còn nếu con ngƣời chạy theo dục vọng của mình mà trái
ngƣợc với chính đạo tức là trái ngƣợc với điều nhân. Vì vậy, ngƣời cầm
quyền phải giữ lễ: “Vua khiến bề tôi phải giữ lễ, bề tôi thờ vua phải trung (hết
lòng)” [30;65]. Đáng chú ý là trong quan niệm của Khổng Tử lễ chỉ quan
trọng khi gắn bó với điều nhân, là biểu hiện của nhân. Nếu tách rời nhân thì lễ
chỉ là vô nghĩa. “Ngƣời không có đức nhân thì lễ mà làm gì?” [30;56]. Thật
vậy không có lòng nhân thì lễ mà làm gì? Nhà cầm quyền không có đức nhân
thì lễ chỉ càng làm thủ cựu, càng làm nghiệt ngã và tàn khốc. Khổng Tử đề
12

xƣớng “lễ trị” nhằm ổn định xã hội, thực hiện đúng lễ vừa là biểu hiện của
nhân đồng thời cũng thể hiện con ngƣời làm đúng bổn phận, thân phận của
mình, tức Chính danh. Trong công việc chính trị theo Khổng Tử “chính danh”
phải đặt lên trƣớc nhất, bởi:
“Nếu danh không chính thì lời nói không thuận, lời nói không thuận thì
sự việc chẳng thành, sự việc không thành thì lễ nhạc chế độ không kiến lập
đƣợc, lễ nhạc chế độ không kiến lập đƣợc thì hình phạt không trúng, hình phạt
không trúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu (không biết làm thế nào
cho phải” [30;213].
Để thực thi đƣờng lối đức trị đƣơng nhiên cần phải có mẫu ngƣời cầm
quyền thích hợp, đó là mẫu ngƣời quân tử. Mẫu ngƣời quân tử với những tiêu
chuẩn về tài đức xứng đáng nhất nắm quyền trị dân. Đức của ngƣời quân tử là
lấy nghĩa làm gốc thọ lễ mà làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên

việc. Tƣ cách ngƣời quân tử là lo không đạt đạo chứ không lo nghèo, hòa hợp
nhƣng không a dua, thƣ thái mà không kiêu căng. Tài năng kiến thức của
ngƣời quân tử là phải hiểu rộng, biết nhiều làm đƣợc nhiều việc và nhất là
phải có tài trí đủ để trị dân. Ngƣời quân tử còn phải là thận trọng về lời nói,
mau mắn về việc làm, thờ vua phải trung nhƣng là trung một cách sáng suốt.
Đƣờng lối đức trị của Khổng Tử lấy đạo nhân làm gốc, lấy hiếu-đễ, lễ- nhạc
làm cơ sở cho sự giáo hóa, lấy việc thực hiện chính sách “thân dân” làm cơ
sở, lấy tƣ cách phẩm chất mẫu mực của ngƣời cầm quyền làm gƣơng để thực
hiện đƣờng lối đức trị, lễ trị, nhân trị nhằm tạo lập một xã hội phong kiến điển
chế có trật tự, tôn ti.
Với Mạnh Tử thì ông lại đề cao đƣờng lối nhân chính, “nhân chính thiện
chi giã” (cái bản tính của ngƣời ta vốn thiện), từ đó ông đề cao sức mạnh của
nhân nghĩa: “đối với ngƣời nhân dẫu kẻ địch có đông cũng chẳng làm gì đƣợc
mình.”.[70;17] Không ai địch nổi ngƣời nhân đức là ý niệm chính trị mà
13

Mạnh Tử suốt đời tin tƣởng theo đuổi. Quả thật là Mạnh Tử rất nhất quán
trong quan niệm lấy nhân đức làm nguyên tắc chỉ đạo chính trị của mình.
Trƣớc sau nhƣ một ông luôn luôn chỉ nói đến nhân nghĩa, chỉ đề cao nhân
nghĩa. Quan điểm của ông thật rõ ràng: “Ngƣời ƣa điều thiện thì dƣ sức cai trị
thiên hạ nếu nhà cầm quyền ƣa điều thiện, ắt ngƣời trong bốn biển sẽ khinh
thƣờng đƣờng xa muôn dặm mà đến với mình, để mách bảo điều thiện với
mình” [70;17]. Ngƣời nhân là ngƣời vô địch trong thiên hạ, bởi vì “điều nhân
thắng điều bất nhân, cũng nhƣ nƣớc thắng lửa”.[70;20]
Mạnh Tử rất coi trọng sức dân. Nếu Khổng Tử hết sức coi trọng “dân
tín”, coi đó là điều quan trọng nhất không thể bỏ đƣợc trong phép trị nƣớc, thì
Mạnh Tử nhận thức một cách sâu sắc rằng: “Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất
ngôi thiên tử ấy vì mất dân chúng hễ đƣợc dân chúng tự nhiên sẽ đƣợc thiên
hạ hễ đƣợc lòng dân tự nhiên sẽ đƣợc dân chúng” [70;19]. Ông nói: “Dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” nghĩa là trong nƣớc nhân dân là quan trọng

nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc) vua là thứ bậc xem nhẹ nhất. Với các
nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ có một phƣơng pháp nên theo: “Dân muốn
việc chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm
quyền đừng thi thố cho họ”[70;19]. Phân chia ruộng đất hợp lý và khuyến
khích làm giàu cho dân. Nếu Khổng Tử coi trọng việc dƣỡng dân hơn cả việc
bảo vệ xã tắc thì Mạnh Tử quan tâm nhiều hơn đến các biện pháp kinh tế cụ
thể nhằm tạo ra cho dân số một sản nghiệp no đủ. “Thánh nhân cai trị thiên
hạ, phải làm cho dân có đậu thóc nhiều nhƣ nƣớc lửa, khi đậu thóc nhiều nhƣ
nƣớc lửa thì dân chẳng còn ai bất nghĩa nữa” [13;246]
Mạnh tử còn chủ trƣơng giảm nhẹ hình phạt và tăng cƣờng giáo hóa dân.
Ông nói: Vua cần phải thi hành phép cai trị nhân - đức đối với dân: “Giảm
hình phạt, bớt thuế - liễm, khiến dân siêng lo việc cày sâu cuốc bẫm, làm
vƣờn làm tƣợc”[70;170]. Theo Mạnh Tử cần phải nhẹ hình phạt bởi nếu “dân
14

khờ khạo mà phạm luật nƣớc, đó không phải là tội của họ, mà chính là tội của
nhà cầm quyền chẳng biết giữ gìn, giáo hoá họ” [70;179]. Mạnh Tử cũng xem
trọng giáo hoá nhƣ Khổng Tử, nhƣng cái mới ở ông là rất quan tâm đến việc
quảng bá giáo dục, thông qua việc xây dựng hệ thống trƣờng học rộng khắp.
Ông chủ trƣơng hình thành một mạng lƣới trƣờng học đa dạng từ làng xã đến
kinh đô, từ trƣờng hƣơng học đến trƣờng quốc học. Nhƣ vậy, so với Khổng
Tử chủ trƣơng giáo hoá của Mạnh Tử có tính quảng bá và phổ cập hơn. Ngoài
việc chú ý đề cao giáo dục đạo đức nhân luân nhƣ Khổng Tử, Mạnh Tử còn
thấy đƣợc trách nhiệm của ngƣời trị dân là phải dạy dân cấy gặt, chăn nuôi,
trồng dâu nuôi tằm, dệt vải nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất hơn. Ông chỉ
rõ: “Vua Thuấn đã cho ông hậu tắc việc dạy dân cấy gặt và gieo trồng năm
giống lúa chín, nhân dân nhờ đó mà sống” [70;169]. Có thể thấy rõ quan điểm
giáo dục và giáo hóa dân của Mạnh Tử thể hiện một bƣớc tiến mới so với
Khổng Tử trƣớc đó và là một nội dung quan trọng hợp thành đƣờng lối chính
trị nhân nghĩa mà Mạnh Tử đã suốt đời cổ vũ. Nhƣ vậy, đƣờng lối đức trị của

Nho giáo từ Khổng Tử tới Mạnh Tử lấy nhân nghĩa làm gốc, khuyến khích
ngƣời đời từ thƣờng dân đến bậc vua chúa đều phải tu thân rèn đức theo mẫu
ngƣời quân tử.
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA NGƢỜI QUÂN
TỬ
1.2.1. Khái niệm về quân tử và đạo quân tử
Khái niệm “quân tử” không xa lạ với ngƣời Trung Hoa, nó có từ thời nhà
Chu (khoảng 1100 TCN). Quân tử (tiếng Trung: 君子) nguyên nghĩa là kẻ cai
trị, nhằm chỉ những ngƣời nắm quyền hành trong xã hội. Quân tử hay là kẻ sĩ
thƣờng đƣợc coi là ngƣời hành động ngay thẳng, công khai theo lẽ phải và
không khuất tuất vụ lợi cá nhân. Đến thời Xuân Thu thì nó đƣợc dùng để chỉ
các đại phu - đại trƣợng phu. Đối lập với quân tử là tiểu nhân, khái niệm chỉ
15

nhân dân lao động. Khổng Tử đã dùng hai khái niệm quen thuộc này để xây
dựng mẫu ngƣời lý tƣởng của mình.
“Đạo quân tử” cũng có nghĩa là lý tƣởng cao nhất của quân tử, đã đƣợc
trình bày trong sách Đại học rằng: “đạo của Đại học là ở chỗ làm sáng tỏ đức
sáng, ở chỗ làm mới dần và ở chỗ đúng vào nơi chí thiện”( đại học chi đạo tại
minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ƣ chí thiện” [16;77]. Nhƣ vậy, đạo quân
tử là con đƣờng, cách thức mài dũa, rèn luyện cái đức sáng của ngƣời quân tử,
truyền bá nó ra cho nhân dân noi theo, khiến cho bản thân và ai nấy đều ngày
một mới hơn, tốt đẹp hơn và đạt đến chỗ đứng vững ở nơi chí thiện.
Thế nào là đứng vững ở nơi chí thiện? Khổng Tử cho rằng:“Vi nhân
quân chỉ ƣ nhân, vi nhân thần chỉ ƣ kính, vi nhân tử chỉ ƣ hiếu, vi nhân phụ
chỉ ƣ từ, dữ quốc nhân giao chỉ ƣ tín”[16;91] có nghĩa là: làm vua đứng ở điều
nhân, làm tôi đứng ở điều kính, làm con đứng ở điều hiếu, làm cha đứng ở
điều từ, giao tiếp với ngƣời trong nƣớc đứng ở đức tín.
Con đƣờng tổng quát để thực hiện đạo quân tử là:
“cổ chi dục minh minh đức ƣ thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trị kỳ

quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia giả, tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả,
tiên chính kỳ tâm. Dục chính kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả,
tiên trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật”[69;8].
Có nghĩa là: ngƣời xƣa muốn làm sáng tỏ đức sáng trong thiên hạ thì
trƣớc phải trị quốc, muốn trị quốc thì trƣớc phải tề gia, muốn tề gia thì trƣớc
phải tu thân, muốn tu thân thì trƣớc phải chính tâm, muốn chính tâm thì trƣớc
phỉ thành ý, muốn thành ý thì trƣớc phải trí tri, trí tri là ở cách vật.
Nói xuôi quá trình trên là: cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề
gia, trị quốc, minh minh đức. Có nghĩa là: muốn cho sự hiểu biết của ta thấu
đáo thì phải nghiên cứu sự vật (trí tri tại cách vật). Khi đã nghiên cứu sự vật,
cái trí đƣợc thấu đáo, cái ý mình mới thành thật. Cái ý mình đã thành thật,
16

lòng dạ mình mới ngay thẳng. Lòng dạ mình đã ngay thẳng mới tu tập lấy
mình đƣợc. Đã tu tập lấy mình đƣợc thì mới sắp đặt nhà cửa cho tỉnh tề. Nhà
cửa đã sắp đặt cho tỉnh tề thì nƣớc mới trị đƣợc, thiên hạ mới bình an. Sách
đại học đã chỉ ra rằng cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm là các điều kiện và tề
gia, trị quốc, minh minh đức là các mục đích ngày càng cao hơn của tu thân.
Tu thân là điều kiện tất yếu mà quân tử nhất thiết phải thực hiện để làm tỏa
đức sáng trong khắp gia đình và đất nƣớc. Nhƣ vậy, cái con đƣờng tổng quát
để thực hiện đạo của ngƣời quân tử bắt đầu từ tu thân và cái đích đến là để
giúp ích cho đất nƣớc, cho xã hội.
1.2.2. Đạo đức ngƣời quân tử
Nho giáo đã xây dựng nên hình mẫu ngƣời quân tử lý tƣởng với rất
nhiều giá trị tốt đẹp. Các phẩm chất đạo đức, trí tuệ cùng với cách ứng xử của
quân tử là biểu hiện tập trung, tinh lọc của các quan điểm triết lí, chính trị đạo
đức và xã hội của Khổng giáo. Quân tử, không chỉ thuần túy chỉ địa vị xã hội
mà chủ yếu chỉ phẩm chất đạo đức mà ngƣời đó đã đạt đƣợc. Ông dạy rằng:
“ngƣời ta gọi một con ngựa nào đó là ngựa ký (loại ngựa tốt đã đƣợc thuần
hóa), đâu phải vì sức mà vì đức của nó”[69;231]. “ngay nhƣ ở đời vua Cảnh

Công nƣớc Tề có một ngàn cổ xe Tứ mã nhƣng đến ngày chết chẳng thấy dân
khen, Bá Di, Thúc Tề đói gục trên núi Thú Dƣơng mà đến nay vẫn còn ngời
ca ngợi.” [69;265]. Nghĩa là theo ông chức tƣớc, giàu sang chƣa chắc đứng
đƣợc ở hàng quân tử, giày rơm áo vải chƣa chắc hẳn đứng ở hạng tiểu nhân.
Vì vậy, để hiểu đầy đủ tƣ tƣởng của các nhà kinh điển về đạo đức của ngƣời
quân tử nên lƣu ý mấy điểm sau đây: (1) sự khác nhau giữa quân tử - tiểu
nhân; (2) những phẩm chất đạo đức mà quân tử phải tu dƣỡng; (3) những
phẩm chất đạo đức mà các quân tử có quyền lực tu dƣỡng và thể hiện.
Thứ nhất: sự khác nhau giữa quân tử và tiểu nhân
Theo thống kê của Dƣơng Bá Tuấn, trong cuốn sách Luận Ngữ có 109
17

lần nói đến chữ nhân, mà nói đến quân tử thì có 107 lần; có ngƣời gọi là
“quân tử quốc” [19;43]. Từ đó có thể thấy quân tử có địa vị nhƣ thế nào trong
tƣ tƣởng của Khổng Tử. Cụ thể mà nói giữa quân tử và tiểu nhân có sự khác
biệt nhƣ sau:
(1) Với tiểu nhân chỉ nghĩ đến lợi, quân tử tinh tường việc nghĩa. Nói
vậy có nghĩa là: tiểu nhân thấy lợi là làm, mục tiêu cuối cùng của mọi lời nói,
việc làm đều là mƣu cầu tƣ lợi cho mình còn quân tử hành vi chủ yếu là hợp
với nhân đạo. Đấy có thể nói là sự phân chia ranh giới cơ bản giữa quân tử và
tiểu nhân.
(2) Quân tử cậy ở mình mà thành công, tiểu nhân cậy ở người nên ít khi
thành công: ngƣời quân tử do có tự giác với nhân tính nội tại của mình, bởi
thế mà có thể khai thác thế giới nhân cách nội tại của mình, có thể từ trong
cuộc sống thƣờng ngày, qua sự tu dƣỡng đạo đức của mình đạt đến sự quán
thông ta với ngoại vật, mình với ngƣời, một khung cảnh hòa đồng trời với
ngƣời từ đó mà thành ra một ngƣời có đủ đức tính kiên định. Kẻ tiểu nhân chỉ
nghĩ đến lợi lộc, bởi thế mà không biết phản tỉnh với đức tính của mình cho
nên khó có đƣợc một thế giới tinh thần tốt đẹp.
(3) Quân tử thì hòa mà bất đồng, tiểu nhân thì đồng mà bất hòa: trong

đối đãi xử sự với ngƣời, ngƣời quân tử với tấm lòng nhân ái, thể hiện rõ rệt
đức tính nội tại của mình, theo yêu cầu ứng xử thích hợp với sự vật, dám kiên
trì quan điểm đúng đắn của mình, đề ra ý kiến bất đồng, xúc tiến sự phát triển
hài hòa của sự vật. Liên quan với điều đó, trong quan hệ xử lý giữa ngƣời với
ngƣời, quân tử chú trọng đến sự hợp lý, nhấn mạnh đến đoàn kết, hiệp tác của
chỉnh thể mà không kéo bè kéo cánh tƣ lợi. Tiểu nhân chỉ biết nhắm mắt mà
làm bừa theo ý cấp trên, mà không thể từ thực tế xuất phát, đề ra ý kiến bất
đồng mà chính xác. Họ không chú trọng đến đoàn kết, hiệp tác của chỉnh thể,
họ chỉ thích kéo bè kéo cánh vì tƣ lợi mà thôi.
18

(4) Quân tử thì nói đến khuôn phép, tiểu nhân thì tự ý làm bừa: quân tử
bởi có tự giác và nhân ái nên có sự tuân thủ, lời nói và việc làm đều có quy củ
nhất định. Nhƣ vậy quân tử lúc nào cũng nghĩ đến tiết tháo, họ không bởi một
lúc yếu mềm mà tƣ lợi làm bừa, trái lại tiểu nhân lúc mà họ khốn cùng thì họ
tự ý làm bừa.
(5) Quân tử thì thanh thản thư thái, tiểu nhân thì kiêu ngạo mà lo âu :
biểu hiện ra ở thái độ sống, quân tử do có nhân đức, có hiểu biết dẫu nghèo
mà vui với đạo, bởi thế trong lúc nguy khốn cũng vẫn bình thản, thƣ thái, có ở
địa vị cao cũng không kiêu ngạo, khinh rẻ ngƣời khác. Tiểu nhân thì chăm
chăm ở sự cầu lợi, bởi thế không đƣợc yên ổn, phải luôn luôn lo nghĩ. Một khi
ngồi ở địa vị cao, lại lo đƣợc lo mất, chỉ thích tận hƣởng xa hoa, với ngƣời thì
ngạo mạn, khinh rẻ ngƣời khác.
(6) Người quân tử làm thì dễ mà nói ra thì khó, kẻ tiểu nhân nói giỏi mà
làm chẳng được việc gì: ngƣời quân tử làm công việc của mình thƣờng rất dễ
dàng, song để họ vừa ý thật thì khó, bởi ngƣời quân tử biết sử dụng ngƣời,
thƣờng là căn cứ vào tài năng của ngƣời ta mà phân phối công việc, bởi thế
mà những ngƣời dƣới quyền đều làm xong công việc một cách vui vẻ còn đối
với kẻ tiểu nhân thì chỉ muốn làm cho xong công việc là đƣợc ví nhƣ lấy
phƣơng thức không chính đáng để làm vừa lòng ngƣời ta thì hắn cũng tỏ ra

vui vẻ, khi hắn sử dụng ngƣời làm việc thì lại hay đòi hỏi thế này thế nọ cho
hoàn thiện. Bởi thế mà kẻ tiểu nhân làm thì khó mà lại tỏ ra vui mừng là làm
xong việc rồi.
(7) Người quân tử mừng vì người khác thành đạt, kẻ tiểu nhân đố kỵ với
người khác: ngƣời quân tử lấy đạo để tự lập, lấy Trung thứ để đối đãi với
ngƣời khác, cái mình làm đƣợc thì cũng muốn giúp ngƣời khác làm đƣợc, cái
mình không muốn làm cho mình thì cũng không muốn làm cho ngƣời khác.
Bởi thế mà ngƣời quân tử luôn vui vẻ giúp đỡ vào việc thành đạt của ngƣời
19

khác. Kẻ tiểu nhân muốn đạt tƣ lợi của mình lên hàng đầu nên không quan
tâm nhiệt tình giúp đỡ ngƣời khác. Trái lại, để giành đƣợc tƣ lợi của mình họ
thƣờng là bất kể thủ đoạn, không chỉ là tranh chỗ của ngƣời khác mà còn có
thể làm điều ác với ngƣời ta nữa. Nhƣ vậy giữa quân tử và tiểu nhân có một
đƣờng ranh giới. Đối với ngƣời quân tử tự giác làm điều nhân, Khổng Tử đã
đề ra một số yêu cầu khác nữa. Ví dụ nhƣ: ngƣời quân tử ăn không cần no,
chăm chỉ trong công việc, cẩn thận ở lời nói nghiêm chỉnh giữ đạo cùa mình.
Ngƣời quân tử đối với mình trƣớc hết phải làm những việc khó, sau mới đƣợc
hƣởng thành quả. Ngƣời khổ trƣớc thiên hạ, vui sau thiên hạ là ngƣời có
nhân. Khác với những ngƣời bất nhân, ngƣời quân tử, nhân đức là ngƣời luôn
vui vẻ sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù đó là vinh hoa hay đói nghèo, túng
thiếu. Nhƣ Khổng Tử quan niệm, đó là ngƣời sáng nghe đạo, tối có chết cũng
cam lòng, không một chút oán thán. Họ không bị phú quý, danh lợi, giàu sang
làm lung lạc.
Thứ hai: những phẩm chất đạo đức mà quân tử phải tu dưỡng
Là hệ tƣ tƣởng của giai cấp phong kiến, mục đích của Nho giáo là nhằm
bảo vệ chế độ phong kiến tập quyền cho nên Nho giáo cũng quan tâm đặc biệt
đến đạo đức ngƣời cầm quyền. Trong suy nghĩ của Khổng Tử, ngƣời nào giữ
đƣợc nhân tính trời phú, không ngừng tu dƣỡng để trở thành ngƣời có khả
năng thực hiện sứ mệnh thi hành ý trời, không để những ngƣời “đã đánh mất”

nhân tính trời phú làm loạn (những ngƣời này Khổng Tử gọi là hạng tiểu
nhân), nói cách khác ngăn chặng sự vi phạm ý trời của họ thì ngƣời đó là bậc
quân tử. Có thể nói rằng ngƣời quân tử đƣợc Khổng Tử nói đến là cách gọi
chung cho những ngƣời làm điều “nhân”, ở đó còn có thể chia thành tầng thứ
cao thấp nữa. Trên một ý nghĩa nhất định kẻ sĩ mà Khổng Tử nói đến cũng
tƣơng tự nhƣ khái niệm quân tử. Sĩ là một tiêu chí về đẳng cấp thân phận; ở
thời đại Xuân Thu của Khổng Tử đã thấy nói đến Sĩ, Nông, Công, Thƣơng,
20

tức là xem sĩ là đứng đầu trong bốn hạng ngƣời. Theo Khổng Tử, thân phận
của kẻ sĩ ở mức độ nhất định cũng liên quan tới tu dƣỡng đạo đức. Vì thế kẻ sĩ
có thể đƣợc xem là phần tử trí thức có chí lớn hành đạo. Nhƣ kẻ sĩ hay ngƣời
quân tử là những ngƣời có đức hạnh cao quý, có nhân cách ngời sáng. Vậy
theo quan điểm của Nho giáo, đạo đức ngƣời quân tử bao gồm những phẩm
chất và yêu cầu gì? Theo Khổng Tử thì ngƣời quân tử cũng là một ngƣời nhƣ
dân thƣờng nên cũng phải có đủ những đức làm ngƣời: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Ngoài ra ngƣời quân tử còn phải có những yêu cầu nhƣ: Đề cao và coi trọng
nghĩa, xem thƣờng lợi. Phải có tam úy tức 3 điều sợ: sợ mệnh trời, sợ đại
nhân, sợ lời nói của thánh hiền. Phải biết mệnh trời. Phải có tam đức: Nhân,
trí, dũng. Phải hòa nhi bất đồng (hòa hợp với mọi ngƣời nhƣng không theo
đuôi họ)
Nho giáo luôn khẳng định, đã là ngƣời quân tử thì đức nhân phải là yếu
tố hàng đầu. Nhân theo nghĩa hẹp là một phẩm chất đạo đức cơ bản, là chuẩn
mực đạo đức để con ngƣời tự tu dƣỡng và hoàn thiện nhân cách của mình.
Theo nghĩa rộng, thì những đức cần có khác của con ngƣời nhƣ nghĩa - lễ - trí
- tín - hiếu - trung đều là biểu hiện cụ thể của đức nhân. Nhân là đạo làm
ngƣời, là cách cƣ xử của mình với ngƣời, là yêu ngƣời, bác ái. Theo Khổng
Tử nhân không chỉ là riêng một đức tính nào mà chỉ chung mọi đức tính.
Ngƣời có nhân đồng nghĩa với ngƣời hoàn thiện nhất, nên nhân là nghĩa của
đạo làm ngƣời.

“Kẻ có nhân là ngƣời tình cảm chân thật, hết lòng vì nghĩa, cho nên có
nhân thì bao giờ cũng hiếu để, lễ nghĩa, trung thực. Kẻ bất nhân thì đầy những trí
thuật, rất khôn khéo, linh lợi mà tình cảm đơn bạc không thành thực, chỉ vì lợi
mà không có lễ nghĩa, dối trá, gian ác, phản loạn, lừa trên gạt dƣới” [13; 64].
Bên cạnh đức nhân thì “nghĩa” cũng có vị trí quan trọng. Nho giáo
không đƣa ra một định nghĩa kinh điển nào về nghĩa. Tùy từng hoàn cảnh, đối

×