Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

[ Luận văn ThS ] Phong trào thi đua yêu nước thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1948 - 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 128 trang )

ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC XÃ HộI Và NHÂN VĂN
----------

LÊ THị Lý

PHONG TRàO THI ĐUA YÊU NƯớC
THờI Kỳ KHáNG CHIếN CHốNG PHáP
(1948 - 1954)

LUậN VĂN THạC Sĩ LịCH Sử

Hà NộI - 2014

1


ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC XÃ HộI Và NHÂN VĂN
----------

LÊ THị Lý

PHONG TRàO THI ĐUA YÊU NƯớC
THờI Kỳ KHáNG CHIếN CHốNG PHáP
(1948 - 1954)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam
MÃ số: 602254

Ngi hng dn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đình Lê



Hà NộI - 2014
LêI

2


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, thông tin trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả

Lê Thị Lý

3


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành chương trình cao học và viết Luận văn, tôi đã nhận được
sự giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của các cán bộ, quý thầy
cô, các bạn tại khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi xin chân thành cảm ơn và trân trọng sự giúp đỡ
quý báu đó, đặc biệt là những thầy cơ đã tận tình giảng dạy tơi suốt q trình
nghiên cứu, học tập tại Khoa. Tơi xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới PGS.TS
Nguyễn Đình Lê đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên
cứu và giúp đỡ tơi hồn thành Luận văn tốt nghiệp. Nhân đây, tôi xin chân
thành cảm ơn sâu sắc sự quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện của Lãnh đạo Cục
Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Ban Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,
cùng các anh, chị, em đồng nghiệp nơi tôi công tác để tơi học tập và hồn

thành tốt khóa học.
Mặc dù tơi đã có nhiều cố gắng hồn thiện Luận văn bằng tất cả sự
nhiệt tình và tâm huyết của mình, tuy nhiên khơng thể tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được sự đóng góp của q thầy cơ và các bạn.
Hà Nội, tháng 02 năm 2014
Học viên

Lê Thị Lý

4


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu …………………………………………………………………………………..
3
3
1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………….
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ……………………………………………………..

6

3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ của đề tài ………………………………………

9

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ……………………………………

9


5. Đóng góp của đề tài …………………………………………………………….

10

6. Bố cục của đề tài ……………………………………………………………….

11

Nội dung ………………………………………………………………………………

12

Chƣơng 1. Sự ra đời của phong trào thi đua yêu nƣớc……………………….

12

1.1 Hoàn cảnh lịch sử ……………………………………………………….....

12

1.2 Chủ trương, đường lối thi đua ………………………………………………

20

Chƣơng 2. Phong trào thi đua yêu nƣớc thời kỳ kháng chiến chống Pháp

34

2.1 Giai đoạn thứ nhất: từ năm 1948 đến tháng 5/1952 ……………………….
2.1.1. Từ năm 1948 đến năm 1950 …………………………………….

2.1.2 Từ năm 1951 đến tháng 5/1952…………………………………..
2.2. Giai đoạn thứ hai: từ tháng 5/1952 đến năm 1954………………………...
2.2.1. Từ tháng 5/1952 đến tháng 3/1953 ………………………………
2.2.2 Từ tháng 3/1953 đến năm 1954 …………………………………..

34
34
51
67
67
79

Chƣơng 3. Một số đánh giá về phong trào thi đua yêu nƣớc thời kỳ kháng
chiến chống Pháp………………………………………………………………………..

91

3.1. Kết quả……………………………………………………………………..

91

3.1.1. Tiêu diệt giặc đói, giặc dốt và đánh thắng giặc ngoại xâm………………

92

3.1.2. Xây dựng được đội ngũ anh hùng chiến sĩ thi đua tiêu biểu toàn quốc…..

93

3.1.3. Xây dựng được những gương điển hình với mức kỷ lục cao…………….


94

3.2. Ý nghĩa………………………………………………………………………

100

3.2.1. Đối với cuộc kháng chiến chống Pháp……………………………………
3.2.2. Đối với sự nghiệp kiến thiết đất nước và sự phát triển đất nước trong giai

100
102

đoạn hiên nay…………………………………………………………………………….
3.2.3. Thi đua u nước đã đặt nền móng cho chính sách thi đua khen thưởng

104

của nước ta. ……………………………………………………………………………..
3.3. Bài học kinh nghiệm………………………………………………………..

105

Kết luận ………………………………………………………….……………………...

110

Danh mục tài liệu tham khảo ………………………………………….………………

113

120

Phụ lục…………………………………………………………………………………...

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Phong trào Thi đua yêu nước Việt Nam là phong trào thi đua mạnh mẽ,
sơi nổi, phấn khởi, xuất phát từ chính ý thức, lòng yêu nước của nhân dân
Việt Nam, cống hiến sức lực của mình vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự
tiến bộ chung của xã hội và vì lợi ích của bản thân, là sản phẩm được sản sinh
từ các chính sách, biện pháp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng trong quá
trình phát triển của cách mạng Việt Nam, là sự đòi hỏi của cuộc cách mạng
của dân tộc, được phát động, khởi xướng theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ khi được khởi xướng, phát động, trải qua 65 năm phát triển với
những thời kỳ, giai đoạn khác nhau gắn với lịch sử cách mạng, lịch sử dân
tộc, phong trào thi đua yêu nước có những biểu hiện, nội dung, hình thức và
nhằm những mục đích khác nhau. Trong cơng cuộc xây dựng và củng cố
chính quyền sau Cách mạng tháng Tám, thi đua yêu nước đã được đề cập và
trở thành một phong trào thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, quan tâm,
hưởng ứng.
Sau chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, cuộc kháng, chiến chống
thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam bước sang một giai đoạn mới. Nắm bắt
được nguyện vọng của nhân dân và thực tiễn phong trào thi đua của các
ngành trong toàn quốc, đồng thời để động viên nhân dân tập trung sức lực vào
công cuộc kháng chiến, kiến quốc, học tập kinh nghiệm của một số nước, theo
sáng kiến đề xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27/3/1948, Ban Thường

vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc trong
cả nước. Tiếp đến, ngày 01/5/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi
Thi đua yêu nước, ngày 11/6/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục ra Lời kêu
gọi thi đua ái quốc kêu gọi các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia thi đua
u nước, mục đích là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

6


Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi phát động,
phong trào thi đua yêu nước đã được đông đảo nhân dân, các ngành, các cấp
hưởng ứng, tham gia, trở thành một phong trào quần chúng sâu rộng trong cả
nước, tạo nên một sức mạnh to lớn - sức mạnh của chiến tranh nhân dân - là
một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, phong trào thi đua yêu
nước đã phát huy đến cao độ nhiệt tình yêu nước của nhân dân, biến khơng
thành có, biến cái có ít thành cái có nhiều, đưa cuộc kháng chiến của dân tộc
Việt Nam tiến lên những bước mới, từ yếu đến mạnh, từ phịng ngự chuyển
lên phản cơng và cuối cùng đập tan âm mưu, dã tâm và sự xâm lược của thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ, hoàn toàn giải phóng miền Bắc, đưa lại hịa bình,
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước và cho tồn cõi Đơng
Dương.
Phong trào thi đua u nước trong mỗi giai đoạn, thời kỳ có những nét
nổi bật, đặc trưng, song đều xuất phát từ lòng yêu nước chân chính, được khơi
dậy và phát huy với nhiều tấm gương điển hình thi đua tiêu biểu, xuất thân từ
những tầng lớp khác nhau, phần đông từ nhân dân lao động, là những công
nhân, nông dân, lao động chân tay và trí óc, một lịng một dạ trung thành với
nhân dân, với Đảng và Chính phủ. Những tấm gương điển hình về tinh thần
yêu nước, tinh thần dân tộc, về sức mạnh đồn kết, lịng kiên trung tận tụy với

cách mạng, ý chí vươn lên vượt mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, sẵn sàng
hy sinh cả tính mệnh của mình để giành lấy độc lập tự do cho dân tộc, họ
không chỉ tiêu biểu trong kháng chiến mà gương thi đua của họ ảnh hưởng
sâu rộng cả trong thời bình, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước,
ngày nay cũng rất cần những tấm gương điển hình thi đua xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, đặc biệt trong công cuộc lao động sản xuất, xây dựng, phát triển đất
nước thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển.
Là cao học viên chuyên ngành lịch sử Việt Nam, mong muốn tìm hiểu
về phong trào thi đua yêu nước nhằm tìm hiểu đường lối lãnh đạo của Đảng,
7


Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đoàn kết toàn dân, khơi dậy
nhiệt thành cách mạng trong nhân dân, dựa vào sức mạnh “dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đồng thời, để có cái nhìn
đầy đủ, tồn diện về phong trào quần chúng sôi nổi trong nhân dân những
năm kháng chiến: hoàn cảnh lịch sử phát động phong trào thi đua, tình hình
thi đua, kết quả và ý nghĩa thi đua và để củng cố hơn nữa nhận thức của bản
thân về vai trò của thi đua.
Mặt khác, trong quá trình thực hiện chun mơn nghiệp vụ tại cơ quan
cơng tác, tơi được tiếp xúc những tư liệu và tìm hiểu về phong trào thi đua ái
quốc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đây là những tài liệu hết sức giá
trị, ý nghĩa to lớn, phản ánh chân thực q trình thi đua, chúng cần được cơng
bố một cách đầy đủ mà hầu như rất ít cơng trình nghiên cứu khoa học nghiên
cứu về phong trào thi đua đề cập đến, hoặc chỉ đề cập ở những dạng lẻ tẻ,
riêng biệt, từng khía cạnh nhỏ của phong trào.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu về phong trào thi đua có ý nghĩa quan trọng,
khơng chỉ có tác dụng tìm hiểu về phong trào thi đua trong những năm kháng
chiến mà trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang bước vào thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, việc tuyên truyền, kêu gọi, cổ động thi

đua, thực hiện thi đua, đẩy mạnh thi đua là rất cần thiết, thiết thực, ý nghĩa
nhằm phát huy tinh thần sáng tạo của các tầng lớp nhân dân trong mọi ngành,
mọi lĩnh vực, đóng góp sức lực cho sự phát triển của đất nước, nâng cao đời
sống của nhân dân.
Thiết nghĩ, phong trào thi đua yêu nước được nghiên cứu với thái độ
khách quan và khoa học, chắc chắn sẽ rút ra được những vấn đề bổ ích cho
việc nghiên cứu và công tác nên chúng tôi quan tâm và lựa chọn đề tài
“Phong trào thi đua yêu nước thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1948 1954” thực hiện Luận văn tốt nghiệp của mình.

8


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phong trào thi đua yêu nước được chính thức phát động từ năm 1948,
phát triển trong kháng chiến chống Pháp, rồi kháng chiến chống Mỹ và ngày
nay, trong hịa bình, xây dựng và phát triển đất nước, phong trào thi đua ái
quốc vẫn tiếp tục được triển khai, nhân rộng và tiếp tục phát triển, được các
tầng lớp nhân dân, mọi ngành, mọi giới hưởng ứng.
Cùng với quá trình ra đời, phát triển của phong trào, đề tài nghiên cứu
về phong trào thi đua yêu nước là một vấn đề nghiên cứu được nhiều cơ quan,
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Cho đến nay đã có
nhiều bài viết, nhiều cơng trình nghiên cứu về phong trào thi đua u nước,
tuy nhiên, chưa nghiên cứu sâu sắc đến lịch sử phát triển của bản thân phong
trào thi đua thi đua u nước, những cơng trình nghiên cứu này phần lớn đề
cập đến những khía cạnh, những vấn đề cụ thể khác nhau, mức độ, phạm vi
nghiên cứu khác nhau, ở những góc độ khác nhau của phong trào thi đua tùy
thuộc vào thời điểm nghiên cứu và cách nhìn nhận đánh giá của từng nhà
nghiên cứu. Trong số đó, tiêu biểu nhất, nhiều nhất là những cơng trình
nghiên cứu tập trung nghiên cứu về chủ đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong
trào thi đua ái quốc”. Cụ thể như:

- Tác phẩm “Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu nước”,
Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1984: Nội dung tác phẩm nhằm
giới thiệu tập hợp những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi
đua yêu nước kể từ ngày phát động phong trào thi đua. Tác phẩm đã khắc họa
những tư tưởng, quan điểm, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào
thi đua và sự quan tâm của Người đối với sự ra đời, phát động, quá trình tổ
chức, phát triển của phong trào thi đua nói chung và của từng ngành, từng
giới nói riêng.
- Tác phẩm: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu nước”
của tác giả Lê Quang Thiệu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
Tác phẩm là những bài viết nghiên cứu về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
9


Minh về thi đua yêu nước từ những bài nói, bài viết của Người trong quá trình
phát động, phát triển của phong trào thi đua.
- Tác phẩm: “Đảng, Bác Hồ với thi đua yêu nước và công tác thi đua
khen thưởng” của Tạp chí Thi đua khen thưởng và Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008. Tác phẩm
là tập hợp, chọn lọc những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những
tài liệu, Nghị quyết, chỉ thị, thơng tư…của Đảng, Nhà nước về thi đua yêu
nước qua các thời kỳ.
Đây là cơng trình được thực hiện nhân kỷ niệm 60 năm phát động
phong trào thi đua yêu nước, tác phẩm là một nguồn tài liệu quan trọng về chủ
trương, đường lối, tổ chức phong trào thi đua yêu nước của Đảng, Nhà nước
và về công tác thi đua khen thưởng.
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu nói trên cịn có những tác phẩm,
bài viết nghiên cứu về thi đua yêu nước của các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên
cứu lịch sử:
- Tác phẩm: “Thi đua yêu nước - Trước kia và hiện nay” của Nguyễn

Văn Tạo, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1958. Tác phẩm trình bày khái quát
về phong trào thi đua yêu nước trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau ở
Việt Nam, cụ thể, tác phẩm đã đề cập đến phong trào thi đua yêu nước trong
những năm kháng chiến chống Pháp là thi đua giết giặc giải phóng đất nước
và cuộc thi đua u nước trong hịa bình từ năm 1954 đến 1958 là thi đua khôi
phục kinh tế và phát triển văn hóa, để hàn gắn vết thương chiến tranh, khơi
phục, phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân, thi đua tăng năng suất,
thực hành tiết kiệm, kiến thiết đất nước.
- Trần Thương Hoàng - Luận án Tiến sĩ năm 2004: “Nghiên cứu nguồn
sử liệu về thi đua yêu nước giai đoạn 1945 - 1954”. Luận án trình bày về
những nguồn sử liệu khác nhau thuộc các phông lưu trữ đang được bảo quản
tại Trung tâm lưu trữ để phục vụ việc nghiên cứu, tìm hiểu về phong trào thi
đua yêu nước thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954. Luận án đã chỉ ra
10


nguồn tài liệu phong phú, đa dạng đồng thời gợi mở những vấn đề, nội dung
mới từ việc nghiên cứu phong trào thi đua yêu nước.
Ngoài ra một số luận văn, bài viết đề cập đến thi đua yêu nước trên các
tạp chí: Tạp chí Thi đua khen thưởng, tạp chí nghiên cứu lịch sử, trên các
trang điện tử… Các bài viết này đề cập đến những nội dung khác nhau về thi
đua yêu nước:
- Thi đua ái quốc - Một nhân tố thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Pháp (1945 - 1954) của tác giả Nguyễn Tố Uyên (Tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử, số 4/(229)/1998);
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu nước của tác giả
Bùi Đình Phong (Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4/2008);
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu nước của tác giả
Nguyễn Văn Nhật (tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6(386)/2008);…
Nhìn chung, những tác phẩm, những cơng trình nghiên cứu nói trên

phần lớn giới thiệu những bài nói, bài viết, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tài liệu của Đảng, Nhà nước về phong trào thi đua u nước từ ngày
phát động, những cơng trình nghiên cứu này chưa đi sâu, tìm hiểu, nghiên cứu
về bản thân lịch sử phát triển phong trào thi đua yêu nước, các giai đoạn phát
triển cũng như thành tựu, kết quả của thi đua. Lịch sử phong trào thi đua yêu
nước chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, cụ thể và chưa thể hiện được
quá trình hình thành, phát triển của phong trào cũng như chưa chứng minh
được vai trò của thi đua yêu nước đối với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và
xây dựng, phát triển đất nước của nhân dân ta.
Ở những mức độ nào đó, các tác phẩm, các cơng trình nghiên cứu trên
đã gợi mở và đặt ra những vấn đề về phong trào thi đua yêu nước, là nguồn tài
liệu tham khảo quan trọng để tác giả có thể tiếp cận, nhìn nhận, đánh giá, tìm
hiểu vấn đề trên những khía cạnh khác nhau một cách đầy đủ hơn.

11


3. Đối tƣợng, phạm vi, nhiệm vụ của đề tài
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về “Phong trào thi đua yêu nước thời kỳ
kháng chiến chống Pháp 1948 - 1954”, đây là thời kỳ phong trào thi đua yêu
nước phát triển mạnh mẽ, đạt nhiều kết quả to lớn, nhiều tấm gương điển hình
xuất hiện, tiêu biểu cho tinh thần nồng nàn yêu nước của nhân dân Việt Nam.
Đề tài chú trọng về quá trình phát triển của phong trào thi đua, những kết quả
đạt được của phong trào, đặc biệt quan tâm và giới thiệu về những gương điển
hình thi đua là những minh chứng về thành tích, kết quả thi đua của nhân dân
Việt Nam.
3.2 Phạm vị nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu sự ra đời; quá trình phát
triển, hình thức, nội dung, đặc điểm và kết quả của phong trào thi đua yêu

nước những năm kháng chiến chống Pháp; tác dụng, ý nghĩa của phong trào
thi đua yêu nước đối với cuộc kháng chiến và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất
nước
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về phong trào thi đua yêu
nước từ khi phong trào được phát động đến khi kết thúc cuộc kháng chiến
chống Pháp (từ năm 1948 đến năm 1954).
3.3 Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài nghiên cứu cần phải làm rõ yêu cầu cần thiết dẫn đến sự ra đời
của phong trào thi đua, chủ trương của Đảng, Chính phủ về thi đua, tiến trình
phát triển và kết quả, ý nghĩa của phong trào thi đua yêu nước từ năm 1948
đến năm 1954
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tài liệu
Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi dựa vào những nguồn tài liệu cơ
bản sau:

12


- Các văn kiện của Đảng, Nhà nước về phong trào thi đua yêu nước và
công tác thi đua khen thưởng như Văn kiện Đảng tồn tập, Hồ Chí Minh tồn
tập và một số cơng trình nghiên cứu khác;
- Các tác phẩm, bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phong
trào thi đua yêu nước;
- Một số bài viết về thi đua yêu nước đăng trên các tạp chí: Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Lịch sử Đảng, tạp chí Thi đua yêu nước…
Đặc biệt, những hồ sơ, tài liệu lưu trữ về phong trào thi đua yêu nước
do các cơ quan Đảng, Chính phủ, Nhà nước, các bộ, ngành được ban hành
ngay trong quá trình hình thành, phát triển của phong trào thi đua yêu nước
thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, hiện đang được bảo quản tại

Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. Đây là nguồn tài liệu quan trọng, hữu ích
cung cấp phần lớn thơng tin cho q trình thực hiện đề tài.
4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp
phương pháp logic là những phương pháp nghiên cứu chủ yếu, bên cạnh đó,
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…cũng được sử dụng
nhằm làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu về sự ra đời, phát triển của phong trào thi đua yêu nước
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đề tài nêu bật sự phát triển của phong
trào thi đua trong kháng chiến chống Pháp, sự phát triển của phong trào trong
các ngành và đặc biệt đã chỉ rõ được vai trò, ý nghĩa, tác dụng cũng như
những đóng góp của thi đua yêu nước đối với cuộc kháng chiến chống Pháp
và đối với sự phát triển đất nước sau này.
- Đề tài là một tài liệu tham khảo về lịch sử phát triển của phong trào
thi đua yêu nước trong những năm kháng chiến chống Pháp, về tình hình thi
đua yêu nước của các ngành và về những tấm gương điển hình tiêu biểu cho
13


tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân trong những năm kháng chiến
chống Pháp trường kỳ, gian khổ.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài được kết cấu gồm có 3 chương:
Chƣơng 1. Sự ra đời của phong trào thi đua yêu nƣớc
Chƣơng 2. Phong trào thi đua yêu nƣớc thời kỳ kháng chiến chống
Pháp
Chƣơng 3. Một số đánh giá về phong trào thi đua yêu nƣớc thời kỳ
kháng chiến chống Pháp


14


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
SỰ RA ĐỜI CỦA PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƢỚC
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Cách mạng tháng Tám thành cơng đã đập tan xiềng xích nơ lệ của thực
dân Pháp và phát xít Nhật ở nước ta hơn 80 năm, lật đổ chế độ quân chủ
chuyên chế tồn tại gần một nghìn năm, đưa nước ta từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến trở thành một nước độc lập dưới chế độ dân chủ cộng hòa, nhân
dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người độc lập, tự do, làm chủ bản thân,
làm chủ vận mệnh dân tộc. Cách mạng Tháng Tám thành công, mở ra kỷ
nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã
hội.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tun ngơn Độc
lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, nhân dân đã giành được quyền làm chủ và bước đầu hưởng những
quyền lợi do chính quyền cách mạng mang lại. Vì vậy, nhân dân rất phấn
khởi, tin tưởng, gắn bó với chế độ mới, sẵn sàng đấu tranh bảo vệ nhà nước
và những quyền làm chủ của mình. Bên cạnh đó, với truyền thống anh dũng,
cần cù, chịu khó, nhanh nhẹn, cũng là những yếu tố quan trọng để nhân dân
Việt Nam cùng một lúc thực hiện những nhiệm vụ lớn lao của cách mạng.
Mặt khác, Cách mạng Việt Nam có Đảng dầy dạn kinh nghiệm, có lãnh
tụ sáng suốt là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo trong điều kiện phong trào
cách mạng quốc tế phát triển mạnh mẽ.
Đó là những thuận lợi cơ bản góp phần quan trọng cho việc cổ vũ động
viên nhân dân Việt Nam trong việc bảo vệ chính quyền, từng bước giải quyết
khó khăn.

Bên cạnh những thuận lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ
vừa mới ra đời đứng trước tình thế hết sức hiểm nghèo, phải đối mặt với
mn vàn khó khăn thử thách tưởng chừng không vượt qua nổi.
15


Về đối ngoại, với danh nghĩa vào giải giáp quân đội Nhật, quân đồng
minh đã lũ lượt kéo vào Việt Nam. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, ở Hà Nội và
hầu hết các tỉnh, có gần 20 vạn quân Tưởng, theo sau chúng là bọn tay chân
từ các tổ chức phản động như Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt
Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) tràn vào giải giáp quân Nhật
nhưng lại âm mưu tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá tan Việt Minh, lật đổ chính
quyền nhân dân và lập chính quyền tay sai. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân
Anh tạo điều kiện và giúp đỡ cho thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam.
Ngày 23/9/1945, quân Pháp đã nổ súng đánh chiếm Nam Bộ, mở đầu
cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai, lợi dụng tình hình đó, bọn phản động
trong nước ngóc đầu dậy, chống phá cách mạng. Khơng chỉ qn Pháp, trên
cả nước còn 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp, trong khi chờ được giải
giáp, một bộ phận quân Nhật theo lệnh quân Anh đã chống lại lực lượng vũ
trang của Nam Bộ, tạo điều kiện cho quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng
ở Nam Bộ.
Về đối nội, chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng
cố, tiềm lực mọi mặt của đất nước còn non yếu: kinh tế đất nước hết sức
nghèo nàn, lạc hậu, dưới chế độ thống trị của thực dân, phát xít càng trở nên
tiêu điều, kiệt quệ lại bị chiến tranh tàn phá, chưa khôi phục lại được. Thiên
tai, hạn hán, lũ lụt liên tiếp xảy ra làm cho hơn một nửa diện tích ruộng đất
khơng thể cày cấy, canh tác được. Nhiều xí nghiệp cơng nghiệp cịn nằm
trong tay tư bản Pháp. Các cơ sở công nghiệp của ta chưa phục hồi được sản
xuất, hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn, nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 hồnh hành cướp đi sinh mệnh

của hơn 2 triệu người, nạn đói mới lại tiếp tục đe dọa. Ngân sách Nhà nước
lúc này hầu như trống rỗng, kho bạc Nhà nước chỉ có hơn 1,2 triệu đồng.
Chính quyền cách mạng lại chưa quản lí được Ngân hàng Đơng Dương.
Trong lúc đó, qn Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trường các loại tiền của
Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính đất nước thêm rối loạn.

16


Tàn dư của chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn
90% dân số bị mù chữ, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè… rất phổ biến.
Những khó khăn đó đặt Việt Nam đứng trong tình thế như "ngàn cân
treo sợi tóc", đặt ra một yêu cầu cấp bách trước mắt cho toàn Đảng, toàn dân
là phải củng cố, phải bảo vệ nền độc lập tự do và chính quyền cách mạng vừa
giành được từ sau Cách mạng tháng Tám.
Bằng sách lược tài tình, với chính sách ngoại giao khơn khéo, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng đã từng bước chèo lái con thuyền cách mạng
Việt Nam, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, đạt được nhiều thành tựu
trong việc xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết những khó khăn của
đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, nhân dân Việt Nam vô cùng
phấn khởi, thi đua tăng gia sản xuất để cứu đói, làm thêm “giờ cứu quốc”, mở
lớp Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ, tun truyền, vận động đời sống mới…
Sau hơn một năm, những khó khăn trước mắt về vấn đề tài chính, giặc đói,
giặc dốt đã căn bản được giải quyết, Việt Nam từ chỗ phải đối phó cùng một
lúc với nhiều kẻ thù thì nay chỉ cịn phải đối phó với một kẻ thù là thực dân
Pháp.
Việt Nam muốn hịa bình để xây dựng và kiến thiết đất nước, Chính
phủ Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện sách lược
ngoại giao mềm mỏng để giải quyết mối quan hệ với Pháp, ký với Pháp bản

Hiệp định Sơ bộ ngày 06/03/1946 và bản Tạm ước ngày 14/9/1946, nhân
nhượng với Pháp một số quyền lợi. Nhưng Việt Nam càng nhân nhượng, thực
dân Pháp càng lấn tới, chúng tìm mọi cách để phá hoại, xóa bỏ những nội
dung đã ký kết, tăng cường các hành động khiêu khích và liên tiếp gây ra các
cuộc xung đột với lực lượng vũ trang Việt Nam. Trắng trợn hơn cả, ngày
18/12/1946, thực dân Pháp láo xược gửi tối hậu thư địi Chính phủ Việt Nam
giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm sốt thủ đơ cho chúng.

17


Trước hành động xâm lược đó, nhân dân Việt Nam chỉ có một con
đường là cầm vũ khí đứng lên kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm để bảo
vệ độc lập, tự do, bảo vệ những thành quả Cách mạng tháng Tám và thực hiện
nhiệm vụ kiến quốc nhằm xây dựng chế độ mới.
Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng
họp ở Vạn Phúc (Hà Đông) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định
phát động cuộc toàn quốc kháng chiến chống Pháp và đề ra những vấn đề cơ
bản về đường lối kháng chiến chống Pháp, ngay đêm 19/12/1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cách mạng Việt Nam
đặt ra những nhiệm vụ cơ bản cần phải giải quyết: kháng chiến và kiến quốc,
kháng chiến để đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc; kiến quốc
tức là xây dựng chế độ mới.
Với Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
cuộc kháng chiến tồn quốc chống thực dân Pháp bắt đầu, nhân dân Việt Nam
thà hy sinh tất cả để bảo vệ độc lập dân tộc, đường lối kháng chiến được hình
thành, đó là đường lối kháng chiến tồn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực
cánh sinh, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa kháng chiến vừa xây dựng
củng cố chính quyền và tiềm lực đất nước về mọi mặt. Quân dân Việt Nam
vừa chiến đấu nhằm tiêu hao và giam chân địch trong các đô thị, vừa tiến

hành di chuyển các cơ quan, kho tàng, tổ chức cho nhân dân đi tản cư, đồng
thời duy trì sản xuất, đảm bảo nhu cầu ăn mặc cho lực lượng vũ trang, từng
bước xây dựng tiềm lực kinh tế cho kháng chiến và chú trọng xây dựng đời
sống mới cho nhân dân…chuyển cả nước vào thời chiến và xây dựng thế trận
kháng chiến lâu dài.
Giữa lúc chiến dịch Việt Bắc đang diễn ra quyết liệt và giành những
thắng lợi bước đầu, để vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kháng chiến và nhiệm
vụ kiến quốc, nhiều phong trào thi đua ở một số địa phương, đơn vị, hay ở các
ngành đã diễn ra. Ngày 10/11/1947, Bộ Tổng Chỉ huy ra Huấn lệnh Luyện
quân lập công nhằm “gây một phong trào ganh đua luyện tập và thi nhau giết
giặc, trong bộ đội chính quy và trong các đội du kích” [4, 01]. Huấn lệnh ra
18


đời là yếu tố đầu tiên “nhen nhóm mầm thi đua” trong quân đội, khích lệ,
động viên bộ đội, dân quân luyện tập để nâng cao trình độ tác chiến, diệt được
nhiều sinh lực địch. Trên khắp các mặt trận, các chiến sĩ bộ đội, dân quân du
kích thi đua luyện quân đội, lập chiến công. Để cổ vũ, động viên bộ đội luyện
qn lập cơng, các cơ quan, đồn thể nhân dân khắp nơi đặt nhiều giải
thưởng, ủng hộ lương thực. Phong trào luyện quân lập công sổi nổi đã đưa
đến thắng lợi trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, làm thay đổi cục
diện chiến trường, kết thúc giai đoạn phịng ngự chuyển sang phản cơng, qn
dân ta càng thêm phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tích cực tham gia kháng chiến.
Thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc là thắng lợi có quy mơ lớn đầu tiên
của quân dân Việt Nam, là sự thể hiện rõ nét bước đầu sức mạnh của tinh thần
yêu nước của nhân dân, quyết tâm kháng chiến chống ngoại xâm, ra sức thi
đua hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng, của kháng chiến.
Xuất phát từ thực tiễn phong trào, nhận thấy sự cần thiết phải động
viên, khích lệ tinh thần, khí thế thi đua, đồng thời thống nhất việc lãnh đạo, tổ

chức phong trào thi đua và định hướng kịp thời phong trào thi đua cho tất cả
các ngành, các giới trên cả nước, nắm bắt được nguyện vọng của nhân dân và
yêu cầu thiết thực của cuộc kháng chiến, theo sáng kiến đề xuất của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, ngày 27/3/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ
thị phát động phong trào thi đua ái quốc trong cả nước, nhằm động viên tinh
thần thi đua yêu nước, phát huy tinh thần sáng tạo, lịng nhiệt tình cách mạng
trong mọi tầng lớp nhân dân, kêu gọi các tầng lớp nhân dân nỗ lực thi đua
hoàn thành nhiệm vụ, đáp ứng nhu cầu ngày một phát triển của cuộc kháng
chiến.
Chỉ thị đã đề cập đến các vấn đề như mục đích, phạm vi, kế hoạch, tổ
chức thi đua… Nội dung thi đua được đề ra về ba mặt:
1. Phương pháp: tức là nghĩ cách làm sao cho hợp lý;
2. Tinh thần: phấn đấu tích cực, hăng hái, khơng sợ gian lao, khổ sở;
19


3. Kết quả: mọi hoạt động phải nhằm vào kết quả thực tế, kết quả phải
tính về phẩm và lượng trong thời gian nhất định.
Tiếp theo đó, ngày 01/5/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi
Thi đua yêu nước:
“Nước ta kinh tế lạc hậu, nhưng lòng yêu nước và chí quật cường
chẳng kém ai.
Nay muốn tự cấp, tự túc, đi kịp người ta, thì chúng ta phải đi mau.
Vì vậy, sĩ, nơng, cơng, thương, binh, gái trai, già trẻ, tồn thể quốc dân
ta vơ luận ở địa vị nào, làm cơng việc gì, phải ra sức tham gia cuộc Thi đua
yêu nước, tức là tăng gia sản xuất.
Như thế thì kháng chiến nhất định thắng lợi,
Kiến quốc nhất định thành cơng”. [19, 01]
Ngày 11/6/1948, nhân dịp tồn quốc kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến
(Ngày Nam bộ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 23/9/1945), một

lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, phát thanh
rộng rãi đến toàn quân và toàn dân, một lần nữa kêu gọi nhân dân thi đua
đóng góp sức mình cho kháng chiến, ra sức phục vụ kháng chiến1:
“Mục đích thi đua ái quốc là:
Diệt giặc đói,
Diệt giặc dốt,
Diệt giặc ngoại xâm.
Cách làm là, dựa vào:
Lực lượng của dân,
Tinh thần của dân, để gây:
Hạnh phúc cho dân.
Vì vậy bổn phận của người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công,
thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua nhau:
Làm cho mau,
1

Ngày 11/6 được lấy làm ngày kỷ niệm Thi đua yêu nước hàng năm

20


Làm cho tốt,
Làm cho nhiều.
Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo,
lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Qn sự,
kinh tế, chính trị, văn hóa. Thực hiện khẩu hiệu:
Toàn dân kháng chiến,
Toàn diện kháng chiến,
Trong cuộc thi đua ái quốc, chúng ta:
Vừa kháng chiến,

Vừa kiến quốc.
Kết quả đầu tiên của thi đua ái quốc sẽ là:
Toàn dân đủ ăn đủ mặc,
Toàn dân biết đọc, biết viết.
Tồn bộ đội đầy đủ lương thực, khí giới, để diệt ngoại xâm.
Toàn quốc sẽ thống nhất độc lập hoàn toàn.
Thế là chúng ta thực hiện:
Dân tộc độc lập,
Dân quyền tự do,
Dân sinh hạnh phúc.
Ba chủ nghĩa mà nhà đại cách mạng Tôn Văn đã nêu ra.
Để đi đến kết quả tốt đẹp đó, tơi xin
Các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công
việc,
Các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn,
Đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp,
Đồng bào công nông thi đua sản xuất,
Đồng bào trí thức và chun mơn thi đua sáng tác và phát minh,
Nhân viên Chính phủ thi đua tận tụy làm việc phụng sự nhân dân,
Bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng.
Nói tóm lại, ai cũng thi đua, ai cũng tham gia kháng chiến và kiến
quốc. Phong trào sôi nổi.
21


Thi đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân
dân, và sẽ giúp ta dẹp tan mọi nỗi khó khăn và mọi âm mưu của địch để đi
đến thắng lợi cuối cùng.
Với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lịng
u nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chúng ta có thể thắng

lợi, chúng ta nhất định thắng lợi.
Hỡi toàn thể đồng bào,
Hỡi toàn thể chiến sĩ,
Tiến lên!”[11, 444 - 446]
Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn
khơng chỉ đối với phong trào thi đua yêu nước, phát động, kêu gọi toàn dân
thi đua, khởi xướng một phong trào quần chúng sâu rộng mà còn đối với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
đoàn kết một lòng, phát huy truyền thống anh hùng, tinh thần yêu nước, ý chí
tự lực, tự cường, vượt qua mọi hi sinh, gian khổ diệt giặc ngoại xâm, giặc đói,
giặc dốt.
Với sự ra đời Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Lời kêu
gọi thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua yêu nước
đã chính thức được phát động trong cả nước, trong tất cả các ngành, các giới,
trong mọi tầng lớp nhân dân.
Phong trào thi đua yêu nước được phát động khi toàn dân, toàn quân
đang hăng hái, phấn khởi trước chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947,
là rất đúng lúc, đúng thời điểm, có ý nghĩa trọng đại, động viên hết sức to lớn
tinh thần yêu nước của toàn dân để giết giặc, sản xuất với một đà sôi nổi, đã
đáp ứng kịp thời yêu cầu, nguyện vọng của đông đảo nhân dân, được nhân
dân hưởng ứng mạnh mẽ, trở thành một cuộc vận động chính trị rộng lớn
trong toàn quân và toàn dân tộc.
Tinh thần và kết quả thiết thực của phong trào đã góp phần đẩy mạnh
cuộc kháng chiến kiến quốc phát triển lên những bước mới, là nhân tố quan

22


trọng góp phần tạo nên thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp
của nhân dân Việt Nam.

Phong trào thi đua yêu nước ra đời, phát triển và được phát huy mạnh
mẽ gắn liền với vai trò to lớn của lãnh tụ Hồ Chí Minh, là người đã sáng lập,
dẫn dắt và lãnh đạo phong trào.
1.2. Chủ trƣơng, đƣờng lối thi đua
Chủ trương, đường lối thi đua yêu nước được đề ra ngay từ những ngày
đầu phát động phong trào thi đua và trong suốt quá trình phát triển của phong
trào thi đua từ năm 1948 đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc.
Nội dung chủ trương, đường lối thi đua được thể hiện, đề cập trong
nhiều văn bản, tài liệu khác nhau của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí
Minh về phong trào thi đua yêu nước: Lời kêu gọi thi đua, tài liệu phát động
phong trào thi đua, tài liệu chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thi đua, những thông
tư, chỉ thị…thể hiện cụ thể các vấn đề về mục đích, nội dung, tổ chức, lực
lượng, cách thức thi đua…
1.2.1 Mục đích thi đua
Trong điều kiện, hoàn cảnh, nhiệm vụ cách mạng của Việt Nam những
năm đầu toàn quốc kháng chiến, phong trào thi đua yêu nước được phát động
là hết sức cần thiết, giữa phong trào thi đua và cuộc cách mạng Việt Nam có
mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít, vì vậy, mục đích của thi đua khơng thể tách
rời mục đích, nhiệm vụ của cách mạng.
Ngày 27/3/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị phát
động phong trào thi đua ái quốc. Chỉ thị xác định mục đích thi đua ái quốc là
“làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến thiết chóng thành cơng” [4, 71],
thể hiện vai trị cũng như vị trí hết sức quan trọng của thi đua với cuộc cách
mạng của dân tộc, thi đua là để nhằm làm cho kháng chiến phát triển và đi
đến thắng lợi.
Trong Lời kêu gọi Thi đua ái quốc ngày 11/6/1948, mục đích thi đua
được đề ra một cách cụ thể hơn, rõ ràng hơn, thi đua nhằm:
23



“Diệt giặc đói,
Diệt giặc dốt,
Diệt giặc ngoại xâm” [11, 444].
Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đều là những kẻ thù nguy hiểm kìm
hãm sự phát triển của quốc gia dân tộc và của nhân dân, là mục tiêu, đối
tượng của cách mạng và cũng là của phong trào thi đua yêu nước. Mỗi ngành,
mỗi cấp, mỗi tầng lớp nhân dân, mỗi giới đều phải thi đua nhằm những mục
đích để tiêu diệt chúng: nhân dân thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm để cải
thiện đời sống tinh thần và vật chất của quân và dân, để trừ đói, trừ dốt, nâng
cao đời sống, hiểu biết của nhân dân và để đáp ứng yêu cầu của kháng chiến,
quân đội thi đua diệt giặc lập công để tiêu diệt sinh lực địch, để phục vụ và
đáp ứng nhu cầu của công cuộc kháng chiến, để đánh thắng giặc ngoại xâm,
giành lại hịa bình, độc lập, tự do cho nhân dân, để kiến thiết đất nước. Thi
đua là hướng đến lợi ích của nhân dân và của quốc gia dân tộc, làm cho đời
sống của nhân dân được đầy đủ hơn, no ấm hơn, trình độ của nhân dân được
nâng cao hơn, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và tình hình Việt Nam lúc bấy
giờ đồng thời đáp ứng được yêu cầu nguyện vọng của nhân dân.
Tùy từng thời kỳ, giai đoạn hay từng đợt phát động phong trào thi đua,
khẩu hiệu thi đua, mục đích thi đua sẽ được đề ra khác nhau, cụ thể hơn, thiết
thực hơn gắn với đối tượng, ngành hay giới thi đua cũng như nhiệm vụ của
cách mạng ở những thời điểm khác nhau song đều nhằm mục đích mục tiêu
chung của phong trào thi đua và hướng đến thực hiện mục đích, mục tiêu
chung của cách mạng.
Việc thực hiện được mục đích, mục tiêu diệt giặc đói, giặc dốt và diệt
giặc ngoại xâm trong phong trào thi đua chính là sự thực hiện đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện đã được đề ra ngay từ đầu cuộc kháng toàn
quốc, là sự tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ, đoàn kết dân
tộc trong hoàn cảnh cách mạng mới thông qua phong trào thi đua yêu nước và
là sự vận dụng sáng tạo những cơ sở lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác 24



Lê nin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, nhằm phát huy tối đa toàn lực của
các tầng lớp nhân dân, kêu gọi nhân dân, phát huy tinh thần u nước để đóng
góp sức mình cho cuộc kháng chiến, kiến quốc.
1.2.2. Nội dung thi đua
Phong trào thi đua yêu nước thực chất là một phong trào cách mạng của
quần chúng, dưới sự tổ chức, lãnh đạo của chính đảng cách mạng chân chính,
với mục đích thi đua được xác định cụ thể, rõ ràng, phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh của Việt Nam những năm đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp
thì nội dung thi đua yêu nước cũng được đề ra một cách cụ thể, toàn diện gắn
liền với nhiệm vụ cách mạng đồng thời phù hợp với nguyện vọng đông đảo
các tầng lớp nhân dân và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc kháng
chiến ngày càng gian khổ, khó khăn, ác liệt.
Nói đến nội dung thi đua tức là để trả lời câu hỏi “thi đua cái gì?”, khác
với phong trào thi đua yêu nước của Liên Xô với nội dung của thi đua là kiến
thiết, phong trào thi đua ở Việt Nam vào thời kỳ này nhằm thực hiện những
nhiệm vụ của cách mạng trong đó những nội dung thi đua được nhấn mạnh,
được đề cập sâu rộng là những công việc hàng ngày và được coi là nền tảng
của thi đua. Thi đua được tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
và phải thực hiện thường xuyên, lâu dài, rộng khắp, thiết thực nhằm những
nội dung cơ bản nhất là thi đua giết giặc và thi đua tăng gia sản xuất.
Thi đua tăng gia sản xuất tức là nông dân, công nhân, thợ thủ công và
các tầng lớp nhân dân lao động khác ra sức khắc phục mọi khó khăn, tích cực
thi đua tăng gia sản xuất, “làm cho mau, làm cho tốt, làm cho nhiều” [11, 444]
nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất, lương thực, thực phẩm, quân trang quân
dụng, cùng những vật phẩm sinh hoạt cung cấp cho đời sống, sản xuất của
nhân dân và đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến.
Gắn với nội dung thi đua tăng gia sản xuất là thi đua tiết kiệm, bao
gồm: tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu, sức lao động, thì giờ... Tiết kiệm để giúp
tăng gia, tăng gia để tăng năng suất và đồng thời, tăng gia để thực hiện tiết

25


×