Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Phong trào quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ, giữ gìn trị an ở miền Bắc (1954 – 1975) Luận văn ThS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 140 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





ĐẶNG THỊ THU HƢỜNG






PHONG TRµO QUÇN CHóNG THAM GIA B¶O VÖ, GI÷ G×N
TRÞ AN ë MIÒN B¾C (1954 – 1975)






LUẬN VĂN THẠC SĨ





Hà Nội - 2014





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





ĐẶNG THỊ THU HƢỜNG




PHONG TRµO QUÇN CHóNG THAM GIA B¶O VÖ, GI÷ G×N
TRÞ AN ë MIÒN B¾C (1954 – 1975)




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đình Lê




Hà Nội – 2014

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, thông tin trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.



Tác giả



Đặng Thị Thu Hƣờng




















LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của các cán bộ, quý thầy cô tại
khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội, tôi xin chân thành cảm ơn và trân trọng sự giúp đỡ quý báu đó, đặc
biệt là những thầy cô đã tận tình giảng dạy tôi suốt quá trình nghiên cứu, học
tập tại Khoa. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Đình Lê đã
dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn
thành luận văn tốt nghiệp. Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc sự
quan tâm của lãnh đạo Cục Chính trị, hậu cần, Tổng cục Cảnh sát phòng,
chống tội phạm cùng các anh chị, em đồng nghiệp nơi tôi công tác đã tạo rất
nhiều điều kiện để tôi học tập và hoàn thành tốt khóa học.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự
nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được những đóng góp của quý thầy cô và các bạn./.
Hà Nội, tháng 4 năm 2014
Học viên



Đặng Thị Thu Hường










MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1
MỞ ĐẦU 2
Chƣơng I. Phong trào quần chúng tham gia bảo vệ, giữ gìn trị an ở miền
Bắc (1954-1964) 10
1.1. Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Bộ Công an. 10
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử và tình hình an ninh trật tự 10
1.1.2. Đường lối, chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Bộ Công an 13
1.2. Nhân dân tham gia giữ gìn trật tự trị an ở miền Bắc (1954-1964) 23
1.2.1. Chống địch dụ dỗ, cưỡng ép di cư vào miền Nam 23
1.2.2. Chấp hành, thực hiện có hiệu quả các biện pháp quản lý hành chính về
trật tự xã hội 25
1.2.3. Củng cố vùng xung yếu, khoanh vùng chống phản. 28
1.2.4. Chống gián điệp, biệt kích 31
1.2.5. Giám sát, giúp đỡ các đối tượng cải tạo. 33
1.2.6. Đấu tranh chống đối tượng“nhân văn giai phẩm”, tội phạm hình sự,
thực hiện bảo mật, phòng gian. 34
Tiểu kết chƣơng 1. 39
Chƣơng 2. Phong trào quần chúng tham gia giữ gìn, bảo vệ trị an ở miền
Bắc (1965-1975) 43
2.1. Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Bộ Công an 43
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử, tình hình an ninh trật tự 43
2.1.2. Đường lối, chủ trương của Đảng và chỉ đạo của ngành Công an 48
2.2. Nhân dân tham gia giữ gìn, bảo vệ trị an ở miền Bắc (1965 - 1975) 55

2.2.1. Tham gia công tác phòng không nhân dân. 55
2.2.2. Phòng, chống gián điệp, biệt kích và chiến tranh tâm lý. 61
2.2.3. Đấu tranh chống phản cách mạng 65

2.2.4. Giáo dục, cảm hóa đối tượng cải tạo tại chỗ, chấp hành nghiêm quy
định hành chính về trật tự xã hội 68
2.2.5. Thực hiện bảo mật phòng gian, bảo vệ tài sản, đấu tranh chống tội
phạm hình sự 70
Tiểu kết chƣơng 2. 74
Chƣơng III. Nhận xét, đánh giá, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm 77
3.1. Nhận xét, đánh giá về phong trào quần chúng tham gia giữ gìn, bảo vệ trị
an (1954 – 1975) 77
3.1.1. Phong trào đã từng bước phát triển và thực hiện có hiệu quả 77
3.1.2. Phong trào đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia 79
3.1.3. Nổi bật trong phong trào quần chúng là phòng, chống gián điệp, biệt
kích 81
3.1.4. Một số tồn tại, hạn chế của phong trào 84
3.2. Ý nghĩa của phong trào quần chúng tham gia giữ gìn, bảo vệ trật tự trị an
ở miền Bắc (1954 – 1975) 85
3.2.1. Góp phần quan trọng giúp lực lượng Công an hoàn thành nhiệm vụ mà
Đảng, nhân dân giao phó. 85
3.2.2. Thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố hậu phương
miền Bắc vững mạnh 87
3.2.3. Khẳng định quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, sức mạnh to lớn của quần chúng 91
3.2.4. Góp phần phát triển lý luận nghiệp vụ Công an trong công tác vận động
quần chúng. 94
3.3. Bài học kinh nghiệm 97
3.3.1. Củng cố, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, tổ chức quần chúng giữ gìn,
bảo vệ trị an về mọi mặt, thực hiện thường xuyên và lâu dài. 97

3.3.2. Nội dung, hình thức tổ chức quần chúng tham gia phù hợp với đặc điểm
tình hình, đảm bảo yêu cầu, nhiệm vụ chính trị. 100
3.3.3. Chú trọng xây dựng lực lượng cán bộ nòng cốt ở cơ sở 103

3.3.4. Kết hợp tính tích cực cách mạng của quần chúng với biện pháp nghiệp
vụ công tác Công an. 106
3.3.5. Xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh, dựa vào dân, vì
nhân dân phục vụ 108
3.3.6. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phát huy sức
mạnh của mọi lực lượng xã hội 111
Tiểu kết chƣơng 3 113
KẾT LUẬN 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO 119
PHỤ LỤC 125

1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


ANTT: An ninh trật tự
CAND: Công an nhân dân
CBCS: Cán bộ chiến sỹ
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CSND: Cảnh sát nhân dân
NXB: Nhà xuất bản
TTATXH: Trật tự an toàn xã hội
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
TW: Trung ương



















2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin về dân và vai trò của nhân dân
là một cuộc cách mạng về thế giới quan, nhân sinh quan trong lĩnh vực đời
sống xã hội. Trong đó nổi bật là quan điểm quần chúng có sức mạnh vô cùng
to lớn, sức mạnh đó chỉ được phát huy khi họ được tập hợp, tổ chức lại, có sự
đoàn kết, thống nhất, có sự lãnh đạo nếu không đó cũng chỉ là một tập hợp
người không có sức mạnh. Tiếp nối quan điểm này, Lê nin- người học trò vĩ
đại của Các Mác, Ph. Ăng ghen đã chỉ ra rằng “Đảng, Nhà nước phải liên hệ
chặt chẽ với quần chúng, sống trong lòng quần chúng, biết tâm trạng quần
chúng, biết tất cả, hiểu quần chúng. Biết đến với quần chúng. Giành được
lòng tin tuyệt đối của quần chúng. Những người lãnh đạo không được tách rời
khỏi quần chúng bị lãnh đạo” [61, 608]. Những luận điểm khoa học, biện

chứng trên là nền tảng để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò,
sức mạnh của quần chúng. Người khẳng định nhân dân chính là cái “gốc” làm
nên sức mạnh của cách mạng, “Gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi
trên nền nhân dân” [57, 410], bởi vậy, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên:
“Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá, lực lượng bao nhiêu
hết là nhờ ở dân”. Nhận thấy vị trí, vai trò vô cùng to lớn của nhân dân, Người
đã tập trung chỉ đạo các cấp, các Ngành trong đó có lực lượng Công an phải:
“vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân không để sót một người nào, góp
thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công
việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho” [58, 698].
Tư tưởng chỉ đạo ấy đã trở thành nền tảng xuyên suốt quá trình hình
thành, phát triển của lực lượng CAND cho tới tận ngày hôm nay. Dấu ấn nhân
dân in đậm trong mỗi chiến công, thành tích của Ngành. Trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, sức mạnh cội nguồn ấy bao chùm lên mọi hoạt
động của lực lượng Công an từ đấu tranh chống gián điệp, biệt kích, chống
phản cách mạng, đến ngăn ngừa tội phạm hình sự, tham gia bảo vệ tài sản
Nhà nước. Đội quân hùng hậu triệu mắt, triệu tay ấy đã sát cánh lực lượng

3
Công an giữ gìn trật tự trị an ở địa bàn cơ sở là nền tảng để miền Bắc đi lên
XHCN, trở thành hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam.
21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước là quãng thời gian đầy gian
chuân, thử thách nhưng cũng rất đỗi vinh quang tự hào. Kết tinh nên chiến
thắng vĩ đại ấy có rất nhiều những yếu tố nhưng quan trọng phải kể đến vai
trò của hậu phương miền Bắc. Miền Bắc là chính là cái gốc, gốc có chắc, có
vững thì trước phong ba, bão táp cây mới đứng vững, không thể gục ngã.
Vượt qua những khó khăn, thử thách của điều kiện kinh tế còn nghèo nàn, đời
sống nhân dân còn nhiều lạc hậu, lại phải trực tiếp đương đầu với hai cuộc
chiến tranh leo thang phá hoại của đế quốc Mỹ, song với tinh thần “tất cả vì
tiền tuyến miền Nam”, miền Bắc đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành về

mọi mặt cùng miền Nam chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ. Để miền Bắc
thực sự trở thành hậu phương vững mạnh thì một trong những nhân tố không
thể không nhắc đó là bảo vệ, giữ gìn trị an.
Trị an là sự ổn định và phát triển bền vững của thể chế chính trị. Trị an
có vững, nội bộ có thống nhất, ổn định thì mới có cơ sở để phát triển kinh tế,
văn hóa, chăm lo đời sống cho nhân dân. Trong những năm tháng kháng
chiến đầy gian khổ ấy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn trị an ở
miền Bắc không chỉ là chiến công riêng của lực lượng Công an mà còn có
đóng góp lớn lao của nhân dân. Không phải là lực lượng chính quy, không có
được sự bài bản, sắc bén trong phát hiện, ngăn ngừa các hoạt động phản cách
mạng của CBCS Công an nhưng nhân dân luôn nêu cao tinh thần cách mạng,
phát huy năng lực, sáng tạo phát huy nguồn sức mạnh to lớn tích cực tham gia
giúp đỡ lực lượng Công an hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Quần chúng giữ gìn, bảo vệ trật tự trị an được thể hiện thông qua việc
làm cụ thể góp phần phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phá hoại như bọn gián điệp, biệt
kích, tổ chức phỉ, các loại tội phạm xâm phạm tới quyền công dân, tài sản của
Nhà nước, âm mưu, hoạt động lôi kéo, cưỡng bức đồng bào di cư vào Nam.
Ngoài ra thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, giữ gìn, bảo vệ trị an còn bao gồm

4
giúp đỡ, giáo dục các đối tượng cải tạo, phòng, chống tội phạm hình sự các
loại, đối tượng nhân văn giai phẩm, Các hoạt động trên đã thu hút đông đảo
của các tầng lớp nhân dân trên toàn miền Bắc tạo thành một phong trào quần
chúng phát triển sôi nổi, rộng khắp ở mọi vùng miền, góp phần vào sự ổn
định và phát triển bền vững của chế độ chính trị. Thông qua các thực tiễn đấu
tranh, ý thức cách mạng của quần chúng được nâng cao, bản thân mỗi người
thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc giữ gìn trật tự, trị an ở cơ sở.
Phong trào quần chúng tham gia giữ gìn, bảo vệ trị an ở miền Bắc giai
đoạn 1954 – 1975 có một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Từ phong trào “ba không”

đến phong trào bảo vệ trị an rộng khắp ngoài xã hội, phong trào bảo mật,
phòng gian được đẩy mạnh trong các cơ quan, xí nghiệp, các nhà máy, quần
chúng đã khẳng định được vị trí, vai trò trên mọi mặt trận giữ gìn ANTT, tạo
nên thế trận “thiên la, địa võng” đối với quân thù.
Lựa chọn đề tài luận văn “Phong trào quần chúng nhân dân tham gia
giữ gìn trật tự trị an ở miền Bắc 1954 – 1975”, ngoài những lý do trên, bản
thân tôi mong muốn rút ra một số những bài học kinh nghiệm từ lịch sử góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác vận động quần chúng tham gia
giữ gìn TTATXH trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Có thể nói, các sách, các công trình nghiên cứu, phản ánh về công tác
giữ gìn trật tự, an ninh của lực lượng Công an có khá nhiều. Tuy nhiên, số
lượng các sách chuyên khảo nghiên cứu, phản ánh trực tiếp về vị trí, vai trò,
các hoạt động, phong trào của quần chúng trong thực hiện giữ gìn ANTT còn
hạn chế. Một số công trình tiêu biểu phải kể đến như:
- Tổng cục Xây dựng lực lượng (2006), Biên niên phong trào quần
chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc 1945 - 1954, Biên niên phong trào
quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc 1954 – 1975…Trong đó có đề
cập tới những sự kiện, nội dung, những đóng góp nổi bật của quần chúng
trong thực hiện nhiệm vụ, công tác cụ thể ở các địa phương qua từng năm
cũng như đường lối lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Công an trong

5
việc phát huy sức mạnh, vai trò của quần chúng phục vụ giữ gìn, bảo vệ trật
tự trị an thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
+ Công trình Tổng kết lịch sử vận động quần chúng bảo vệ ANTT 1945
– 2000 do Bộ Công an tiến hành nghiên cứu và xuất bản năm 2003. Cuốn
sách đã khái quát quá trình vận động và phát triển của phong trào quần chúng
qua các giai đoạn lịch sử từ 1945 đến 2000, trên cơ sở đó chỉ rõ những bài học
kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn phong trào xuyên suốt 55 năm qua.

+ Trong các chuyên đề tổng kết lịch sử CAND trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ cứu nước do Bộ Công an tiến hành (2014) như: công tác
phòng, chống tội phạm hình sự và các loại tội phạm khác, công tác quản lý
hành chính về trật tự an toàn xã hội, công tác quản lý và cải tạo phạm nhân
và các đối tượng tập trung cải tạo, công tác chống gián điệp biệt kích,…đều
khẳng định dựa vào dân là một trong những bài học quý được đúc rút từ thực
tiễn đấu tranh thực hiện các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó của các
lực lượng trong Ngành Công an.
+ TS. Nguyễn Đình Tập (2002), Một số vấn đề về phát huy vai trò nhân
dân bảo vệ ANTT ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, đã
nêu lên những lý luận và kinh nghiệm từ việc vận động nhân dân trong quá
trình đấu tranh từ 1945 đến 2000. Đồng thời trên cơ sở khái quát những yêu
cầu thực tế công tác đấu tranh hiện nay, tác giả nêu lên một số những giải
pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò to lớn của nhân dân.
+ Năm 2009, Cục phong trào quần chúng, Bộ Công an (V28) có nghiên
cứu, tổng kết đề tài Biện pháp vận động quần chúng trong công tác Công an-
những vấn đề lý luận và thực tiễn. Thông qua việc nghiên cứu lý luận kết hợp
cùng với thực tiễn biện pháp vận động quần chúng phục vụ các mặt Công an,
đề tài đã khẳng định vị trí, vai trò và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả của biện pháp này trong nhiệm vụ công tác của Ngành
Công an.
- Các nghiên cứu sinh, thạc sỹ cũng đã lựa chọn vận động quần chúng
trong thực hiện các nhiệm vụ công tác cụ thể để làm vấn đề nghiên cứu của

6
mình. Điển hình như: Lê Quốc Trân với Luận án Sử dụng biện pháp vận động
quần chúng tham gia điều tra vụ án hình sự của lực lượng CSND trong giai
đoạn điều tra các vụ án trộm cắp tài sản (năm 2010), Nguyễn Cảnh Tài, Luận
văn thạc sỹ: Vận động quần chúng tham gia hoạt động điều tra vụ án hình sự
của lực lượng CSND, Công an thành phố Hồ Chí Minh (năm 2008); Vũ Ngọc

Hoan, Luận văn thạc sỹ, Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân
vận trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường sắt (năm 2002)…
- Trên các báo, nhất là tạp chí CAND cũng có nhiều bài nghiên cứu về
vai trò, vị trí, biện pháp phát động quần chúng tham gia đấu tranh chống tội
phạm như: Bùi Minh Trung (2000), Nâng cao hiệu quả của biện pháp phát
động quần chúng tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy, Nguyễn
Văn On (2004), Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân
trong sự nghiệp bảo vệ ANTT; Hà Việt Dũng (2004), Tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh
quốc gia,…
Nhìn chung, các sách báo, công trình khoa học đã có những nghiên cứu,
đề cập tới nhiều khía cạnh liên quan tới vấn đề “dân” trong công tác công an
như: tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân trong đấu tranh bảo vệ ANTT; vai trò
nhân dân; việc thực hiện công tác vận động quần chúng nhân dân bảo vệ
ANTT nói chung và trong từng lĩnh vực cụ thể,…Thời gian nghiên cứu chủ
yếu tập trung trong giai đoạn hiện nay.
Có thể khẳng định rằng, cho tới hiện nay, chưa có bất kỳ công trình đi
sâu nghiên cứu về thực tế phong trào quần chúng tham gia giữ gìn, bảo vệ trật
tự trị an trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ở miền Bắc nước ta một cách sâu
sắc, toàn diện.
3. Mục đích và nhiệm vụ
- Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích phong trào quần chúng
trên các mặt công tác cụ thể, của từng thời kỳ lịch sử, luận văn làm sáng tỏ
những đóng góp của phong trào đối với thực hiện công tác giữ gìn trật tự trị

7
an. Đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm trong công tác tổ chức vận
động nhân dân tham gia giữ gìn trật tự xã hội trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn xác định nhiệm vụ chủ yếu sau:

+ Trình bày, phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và trực
tiếp của Ngành Công an về vận động nhân dân tham gia giữ gìn trật tự trị an ở
miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975).
+ Trình bày nội dung và đánh giá những đóng góp của phong trào quần
chúng tham gia giữ gìn trật tự trị an.
+ Rút ra một số những bài học kinh nghiệm phục vụ công tác vận động
nhân dân bảo vệ ANTT trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: phong trào quần chúng trong sự nghiệp bảo vệ
ANTT của đất nước. Để quần chúng phát huy vai trò tích cực, chủ động của
mình trong thực hiện nhiệm vụ trên, phải có sự tham mưu, hướng dẫn của lực
lượng Công an. Do vậy, luận văn đồng thời đề cập đến sự chỉ đạo, lãnh đạo tổ
chức thực hiện của Ngành trong việc thúc đẩy phong trào phát triển.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Không gian: ở miền Bắc Việt Nam (tính từ vĩ tuyến 17 trở ra)
+ Thời gian: trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân
tộc (1954 – 1975).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả
đồng thời sử dụng các phương pháp khác như: logic, phân tích, tổng hợp,
thống kê,…để thực hiện luận văn. Trong đó phương pháp lịch sử, phương pháp
logic là chủ đạo.
- Phương pháp lịch sử: là phương pháp nghiên cứu các sự kiện lịch sử
trong một bối cảnh lịch sử nhất định; nghiên cứu các sự kiện theo trình tự thời
gian phát sinh, phát triển và kết thúc của nó; nghiên cứu những nét khác biệt

8
của các sự kiện, phân biệt sự kiện này với sự kiện khác. Trong chương 1 và
chương 2 luận văn lấy phương pháp lịch sử làm chủ đạo.
- Phương pháp logic: là phương pháp nghiên cứu các sự kiện lịch sử

qua bản chất của nó, không phải bằng diễn biến bên ngoài; nghiên cứu tính tất
yếu của sự kiện; kết hợp chặt chẽ giữ phương pháp logic và phương pháp lịch
sử là nguyên tắc cần vận dụng sáng tạo, linh hoạt. Phần bài học kinh nghiệm
lấy phương pháp logic làm chủ đạo để rút ra vấn đề có tính quy luật.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa và nêu lên nội dung về đường lối chỉ đạo của Đảng, Nhà
nước, của Ngành Công an về công tác vận động nhân dân tham gia giữ gìn,
bảo vệ ANTT trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Làm rõ những hoạt động của phong trào quần chúng để thực hiện giữ
gìn, bảo vệ.
- Đúc rút ra một số bài học kinh nghiệm có giá trị và cần thiết nhằm
thúc đẩy phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc trong giai đoạn
hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận
+ Làm rõ thêm những nhận thức về công tác vận động nhân dân bảo vệ
ANTT trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của Đảng, Nhà nước mà trực tiếp nhất
là Bộ Công an.
+ Khẳng định sự đúng đắn trong quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, sức mạnh quần chúng trong lĩnh vực giữ
gìn, bảo đảm trật tự trị an. Đồng thời góp phần xây dựng, bổ sung lý luận về
biện pháp nghiệp vụ quần chúng- một trong những biện pháp quan trọng phục
vụ nhiệm vụ công tác Công an.
- Ý nghĩa thực tiễn
Từ những bài học kinh nghiệm, các đơn vị CAND và các tổ chức chính
trị, đoàn thể có thể tham khảo, áp dụng nhằm thực hiện tốt hơn công tác vận
động nhân dân bảo vệ ANTT trong giai đoạn hiện nay.

9
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương và 7 tiết.
Chương 1. Phong trào quần chúng tham gia bảo vệ, giữ gìn trị an ở
miền Bắc (1954 -1964)
Chương 2. Phong trào quần chúng tham gia bảo vệ, giữ gìn trị an ở
miền Bắc (1965 -1975)
Chương 3. Nhận xét, đánh giá, bài học kinh nghiệm về phong trào quần
chúng tham gia bảo vệ, giữ gìn trị an ở miền Bắc (1954-1975).





















10

Chƣơng I. Phong trào quần chúng tham gia bảo vệ, giữ gìn trị an ở
miền Bắc (1954-1964)
1.1. Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Bộ
Công an.
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử và tình hình an ninh trật tự
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc
hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế xã hội.
Ở miền Nam, Mỹ hất cẳng Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới,
căn cứ quân sự của Mỹ, âm mưu tiến hành chia cắt nước ta lâu dài.
Những hoạt động chống đối, phá hoại của các thế lực thù địch đã khiến
cho tình hình ANTT sau giải phóng ở miền Bắc thêm phức tạp. Mặc dù buộc
phải rút quân, thực dân Pháp vẫn tiếp tục các hoạt động phá hoại, vi phạm các
điều khoản đã ký kết, trì hoãn tập kết quân. Trong khi đó, Mỹ và Ngô Đình
Diệm kích động, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào miền Bắc (nhất là đồng bào Thiên
chúa giáo) di cư vào Nam; bí mật cài cắm gián điệp, thả biệt kích, kích động
xưng vua, nổi phỉ. Một số tổ chức đảng phái phản động cũ, bọn tàn quân ngụy
lén lút hoạt động khủng bố, cướp bóc,…
Tình hình địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam diễn ra ngày
một phức tạp và nghiêm trọng cả ở vùng mới giải phóng và vùng kháng
chiến cũ. Từ chỗ tổ chức từng đoàn nhỏ đi lẻ tẻ, chúng kích động bà con
giáo dân tập trung hàng vạn người mít tinh, biểu tình đòi di cư. Không dừng
ở đó, chúng còn gây ra bạo loạn chống lại chính quyền cách mạng. Nhiều
nơi, bọn phản động tổ chức thanh niên theo đạo Thiên chúa, vũ trang rèn
giáo mác, tự động canh gác làng, lập đội “Thanh niên quyết tử” chống đối
chính quyền địa phương, gây ra nhiều vụ đánh cán bộ, bộ đội, có nơi biến
thành những vụ bạo loạn như: ở Phát Diệm (Ninh Bình), Ba Làng (Thanh
Hóa), Trù Sơn (Nghệ An)…
Ngày 28/1/1961, Tổng thống Mỹ Kennơđi chính thức thông qua chiến
lược chiến tranh đặc biệt chọn miền Nam làm nơi thí nghiệm, lấy việc lập ấp


11
chiến lược làm trọng tâm hòng dập tắt phong trào nổi dậy của nhân dân nơi
đây, đồng thời ráo riết tiến hành phá hoại miền Bắc thông qua các hoạt động
gián điệp. Chúng coi đó là một nội dung quan trọng cần triển khai nhanh
chóng, có hiệu quả nhằm gây bất ổn về chính trị, suy yếu về kinh tế và quốc
phòng, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, từng bước mở
rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra cả nước.
Đế quốc Mỹ và tay sai thường xuyên tiến hành các hoạt động gián điệp
hòng thu thập tình báo trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa phục
vụ cho âm mưu phá hoại và gây chiến của chúng. Chúng sử dụng nhiều
phương thức thâm nhập vào miền Bắc như: thông qua đường giới tuyến Vĩnh
Linh, đường biên giới Việt – Lào, đường hồi hương Việt Kiều, đường biển
với nhiều hình thức khác nhau khi thì lợi dụng hình thức công khai hợp pháp,
khi thì bí mật thâm nhập bất hợp pháp. Gián điệp ẩn nấp miền Bắc ngoài một
số tên là người Việt Nam còn có những phần tử trong Hoa kiều và ngoại kiều
các nước tư bản. Mục đích của hoạt động tung gián điệp, biệt kích này là
nhằm liên lạc với các phần tử phản cách mạng ở miền Bắc, tăng cường hoạt
động điều tra, phá hoại, ám sát cán bộ, gây những khu vực phỉ quấy rối, lợi
dụng tình hình miền Bắc còn một số khó khăn để kích động quần chúng lạc
hậu chống lại Chính phủ.
Những tác động bên ngoài cùng với những âm mưu chống phá chính
quyền của các thế lực thù địch bên trong đã khiến cho tình hình ANTT ở miền
Bắc càng trở nên phức tạp hơn. Đầu năm 1957, lợi dụng những khó khăn của
Đảng, Nhà nước khi đang tập trung sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất,
các phần tử phản động ngóc đầu dậy, tập hợp lực lượng, tiến hành chống phá
chính quyền cách mạng. Ở miền núi, bọn biệt kích, bọn trùm phỉ gây ra các
vụ xưng vua, bạo loạn ở Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Nghĩa Lộ, Nghệ
An,…Ở vùng tập trung đồng bào theo Công giáo, bọn phản động kích động
phá hoại, có nơi đã gây ra các vụ đánh giết cán bộ, rào làng, gây rối,…Ở Hà
Nội và các tỉnh lân cận một số văn nghệ sỹ bất mãn lập nhóm “Nhân văn giai


12
phẩm” chống phá cách mạng gây không ít những khó khăn cho công tác giữ
gìn, bảo vệ trị an.
Không chỉ có vậy, trước khi rút khỏi miền Bắc thực dân Pháp đã thả hết
số lưu manh, tội phạm hình sự ở các trại do chúng bắt, giam giữ (chỉ riêng ở
Hải Phòng, Thanh Hoá, Nghệ An chúng đã thả 326 tên lưu manh). Bọn lưu
manh được thả nhanh chóng cấu kết với bọn lưu manh ngoài xã hội gây ra
nhiều vụ phạm pháp như: giết người, cướp của, giả danh bộ đội để tống tiền,
giả mạo cán bộ để lừa đảo,…gây rối trật tự trị an. Cùng với đó là những hậu
quả của chiến tranh và chế độ thực dân phong kiến cũ để lại mà nhiều tệ nạn
xã hội phát triển, lan rộng nhất là tình trạng buôn bán thuốc phiện, cờ bạc, nấu
rượu lậu Bọn tội phạm hình sự lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong công
tác quản lý để hoạt động tham ô, buôn lậu, trộm cắp gây thiệt hại tài sản Nhà
nước, tính mạng, tài sản của nhân dân. Chỉ tính riêng năm 1964 tại Vĩnh Phú
qua kiểm tra 111 hợp tác xã đã phát hiện 3220 vụ tham ô. Trong 10 năm 1955
– 1964 đã phát hiện 4372 vụ tham ô gây thiệt hại xấp xỉ 45 triệu đồng (tiền
ngân hàng năm 1958), với 5297 cán bộ nhân viên phạm tội [21, 26]. Nhiều vụ
tham ô với thủ đoạn táo bạo, trắng trợn như: tham ô rồi đốt nhà, đốt kho để
phi tang, làm giả giấy tờ gây không ít những khó khăn cho công tác điều tra
của lực lượng Công an.
Có thể nói, cùng với những âm mưu, thủ đoạn hoạt động ngày càng
tinh vi, xảo quyệt nhằm phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, những thay đổi
về kinh tế, xã hội từ thời chiến chuyển sang thời bình đã đặt ra yêu cầu cấp
thiết của nhiệm vụ giữ gìn ANTT ở miền Bắc. Lực lượng Công an đứng trước
nhiều khó khăn thử thách, gánh vác những trọng trách lớn lao: bảo vệ Đảng,
bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân, giữ vững thế trận an ninh vững chắc để
miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc chi viện sức người, sức của cho
tiền tuyến miền Nam.
Trong hoàn cảnh đó, những thắng lợi cơ bản trong cải cách ruộng đất,

cải tạo XHCN, khôi phục kinh tế góp phần cải thiện đời sống nhân dân, củng

13
cố thế trận an ninh quốc phòng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng
9/1960) đã họp và xác định nhiệm vụ cách mạng cho từng miền. Để miền Bắc
trở thành hậu phương của cách mạng cả nước, Đảng nhấn mạnh yêu cầu cần
phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội để mau chóng
tạo ra một cuộc sống mới cho nhân dân, làm cho miền Bắc phát huy được đầy
đủ tính hơn hẳn của nó so với miền Nam, trở thành cơ sở vững chắc cho cuộc
đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, miền
Bắc tiến hành kế hoạch kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965) và đạt được
nhiều thành tựu to lớn, góp phần củng cố an ninh chính trị, TTATXH, đảm
bảo yêu cầu, nhiệm vụ chi viện cho chiến trường, cổ vũ nhân dân miền Nam
đứng lên, đánh bại chiến lược chiến tranh kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Những chuyển biến về kinh tế, chính trị, xã hội miền Bắc từ thời chiến
sang thời bình tác động không nhỏ tới công tác bảo vệ, giữ gìn ANTT của lực
lượng Công an. Trong khi đó thế lực thù địch, phản cách mạng, các loại tội
phạm hình sự, kinh tế,…luôn tìm cách móc ngoặc liên kết với nhau nhằm phá
hoại, gây bất ổn về chính trị, kìm hãm sự phát triển kinh tế, xã hội. Nhiệm vụ
của lực lượng Công an lúc này là phải bóc gỡ hết mạng lưới hậu chiến của
địch cài lại, thiết lập trật tự cách mạng trên toàn miền Bắc, đảm bảo an ninh
toàn diện cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Để thực hiện được điều đó,
Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Công an nhanh chóng, kịp thời thực hiện các
nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài, đấu tranh để giữ vững sự ổn định về
ANTT trong đó nhấn mạnh tới việc phát huy hơn nữa vai trò phát động quần
chúng nhân dân tham gia đấu tranh chống phản cách mạng và các loại tội
phạm khác.
1.1.2. Đường lối, chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Bộ Công an
Đầu tháng 9/1954, Bộ Chính trị, TW Đảng đã họp, ra Nghị quyết xác
định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Nghị

quyết đã nêu bật 2 đặc điểm lớn lúc này là: “Từ chiến tranh chuyển sang hòa
bình và đất nước tạm chia làm 2 miền”. Từ đó đề ra nhiệm vụ chung là:

14
“Đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, đề
phòng âm mưu phá hoại hiệp định của địch, củng cố hòa bình, ra sức hoàn
thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, củng cố miền
Bắc”[1, 9]. Nghị quyết của Bộ Chính trị chính là cơ sở ban đầu để lực lượng
Công an đoàn kết toàn dân thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống các âm mưu
phá hoại của địch, nhanh chóng ổn định ANTT trên toàn miền Bắc.
Trước âm mưu và hoạt động dụ dỗ, cưỡng ép di cư của địch, ngày
8/9/1954, TW Đảng ra Chỉ thị số 91/CT – TW “Về việc đấu tranh chống Pháp
và Ngô Đình Diệm dụ dỗ và bắt ép một số đồng bào ta vào Nam” và xác định
“một cuộc đấu tranh chính trị gay go và cấp bách hiện nay, cốt tranh thủ quần
chúng ở lại quê hương, làng mạc tham gia công việc kiến thiết nước nhà, không
bị địch bắt đi làm lính, làm phu đồn điền và bị đày ải khổ sở. Nếu địch thực
hiện được âm mưu của chúng thì sẽ không có lợi cho ta về chính trị” [1, 25].
Ngày 23/8/1956, TW Đảng tiếp tục ra Chỉ thị 45/TW- CT về công tác
vận động quần chúng chống địch dụ dỗ cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam
hoặc khiêu khích phá hoại, nhấn mạnh việc tuyên truyền, vận động ổn định tư
tưởng quần chúng, để quần chúng tin tưởng vào đường lối của Đảng. Giải
quyết những vấn đề cấp thiết của quần chúng, vận động nhân dân yên tâm sản
xuất, tổ chức cuộc sống nề nếp, sinh hoạt bình thường. Kiên quyết sửa chữa
những sai lầm, thiếu sót trong quá trình thực hiện các chính sách của Đảng,
Nhà nước, nhất là các chính sách tôn giáo (như vấn đề ruộng đất của nhà
chùa, nhà sứ,…). Chỉ thị của TW đã kịp thời giúp chính quyền các cấp và
Công an các địa phương nâng cao cảnh giác, chủ động trong công tác tuyên
truyền, vận động quần chúng bảo vệ ANTT ở cơ sở, từng bước làm thất bại
âm mưu của địch.
Thực hiện chỉ đạo của Đảng, Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc

lần thứ IX (tháng 2/1955) đã vạch rõ nguyên tắc khi tiến hành vận động quần
chúng đó là: “Ra sức tranh thủ nhiều người ở lại miền Bắc, làm cho những
người chưa đi thì kiên quyết không đi, những người đã ra đi mà chưa vào

15
Nam thì trốn trở lại hoặc đòi Pháp phải đưa về quê cũ, những người đã vào
Nam thì đòi Pháp trả lại miền Bắc” [62]. Nội dung vận động quần chúng bao
gồm: tuyên truyền sâu rộng và cụ thể những chính sách của Đảng, Nhà nước,
vạch rõ những âm mưu và thủ đoạn lừa dối, bắt ép của địch…Hướng dẫn và
tổ chức quần chúng đấu tranh chống cưỡng ép di cư. Cùng với sự quan tâm
kịp thời của Đảng, của Ngành, Công an các đơn vị, địa phương đã nhanh
chóng tập trung lực lượng tăng cường tuyên truyền, vận động đồng bào công
giáo tham gia thực hiện nhiệm vụ công tác trị an.
Bên cạnh đấu tranh chống địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư vào
miền Nam, Đảng chủ trương phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng
đất. Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành TW Đảng khóa II
(tháng 8/1955) chỉ đạo “Phải kết hợp với phát động quần chúng cải cách
ruộng đất mà trấn áp bọn phản cách mạng, nâng cao cảnh giác cho quần
chúng để quần chúng giúp đỡ đắc lực cho công tác trị an và phòng gian bảo
mật. Ở vùng rừng núi phải quét sạch thổ phỉ, biệt kích”, “Phương châm trấn
áp phản cách mạng là đi đúng đường lối quần chúng” [2, 78].
Để huy động sức mạnh to lớn của nhân dân tháng 2/1957, Bộ Công an
đã tổ chức Hội nghị bảo vệ kinh tế lần 2 và nhấn mạnh ngoài lực lượng Công
an là nòng cốt thì các tổ chức bảo vệ của nhà máy, xí nghiệp có nhiệm vụ bảo
vệ an toàn cho sản xuất, bí mật cho các ngành kinh tế tài chính, tiêu diệt bọn
gián điệp, bọn phá hoại, chống trộm cắp, tham ô, lãng phí, giữ gìn tài sản quốc
gia. Lực lượng được Công an huấn luyện về nghiệp vụ chuyên môn không để
vụ việc xảy ra, khi có việc thì kịp thời truy xét. Với chủ trương này, ngành
Công an đã huy động được sức mạnh to lớn của các cơ quan, xí nghiệp kịp thời
triệt phá âm mưu phá hoại của địch, bắt giữ bọn buôn lậu, đầu cơ, trộm cắp tài

sản XHCN, đảm bảo sản xuất được duy trì thường xuyên và ổn định.
Đế quốc Mỹ ngày càng tăng cường tung các toán gián điệp, biệt kích
nhằm phá hoại kinh tế, ANTT. Để đối phó với tình hình trên, ngày 22/6/1961,
Ban Bí thư ra Chỉ thị số 20 CT/TW lưu ý các địa phương bên cạnh việc xác

16
định rõ vai trò, nhiệm vụ của lực lượng Công an thì vấn đề quan trọng là phải
dựa vào quần chúng, phát huy tác dụng phòng ngừa, đấu tranh của chi bộ xã,
Công an xã, Dân quân du kích, bộ đội, cán bộ, giữ bên trong là chính, giữ
dưới đất là chính. Chỉ thị của Đảng chính là cơ sở để lực lượng Công an tiến
hành triển khai các mặt công tác nghiệp vụ, kết hợp chặt chẽ với phát động
quần chúng, phối hợp với các ngành, các đoàn thể xây dựng, thực hiện các
biện pháp phòng ngừa, bảo vệ nội bộ, quản lý trật tự, tăng cường công tác
nắm tình hình, xây dựng và thực tập các phương án phòng chống gián điệp,
biệt kích.
Để phát huy hơn nữa sức mạnh của quần chúng trong thực hiện các
nhiệm vụ công tác Công an, ngày 20/1/1962, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số
39/NQ-TW “về nhiệm vụ đấu tranh chống phản cách mạng, bảo vệ ANTT
trong tình hình mới”. Không chỉ xác định rõ đường lối lãnh đạo, phương
châm, chính sách và phương pháp thực hiện, Nghị quyết nhấn mạnh tới việc
tổ chức vận động quần chúng tham gia bảo vệ trật tự trị an cả về hình thức lẫn
nội dung. Nghị quyết nêu rõ: “Hiện nay, hình thức thích hợp nhất và phổ biến
nhất là tiến hành tuyên truyền giáo dục sâu rộng về tinh thần yêu nước và ý
thức cảnh giác cách mạng để phát huy khí thế cách mạng của quần chúng”,
“Phải thông qua phong trào bảo vệ trị an có tính chất quần chúng để thường
xuyên tiến hành giáo dục cải tạo những người trước kia là tề, ngụy, phỉ và
những phần tử đã tham gia các tổ chức phản động cũ và các cơ sở xã hội khác
mà địch dễ dàng lợi dụng ở ngoài xã hội” [63].
Quán triệt ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, ngay trong kế hoạch đề
phòng chiến tranh gọi tắt là “kế hoạch 69” (tháng 10/1962), Bộ Công an đã

chỉ thị cho các đơn vị nghiệp vụ, Công an địa phương mở các cuộc vận động
quần chúng bảo vệ trị an và bảo mật phòng gian, hướng dẫn quần chúng cung
cấp những tin tức về âm mưu, hoạt động của các đối tượng và những biểu
hiện nghi vấn cho cơ quan Công an nhằm tiến công mạnh mẽ vào bọn phản
cách mạng. Kế hoạch 69 ra đời đã thể hiện tinh thần tích cực phòng ngừa và

17
chủ động tiến công trên cơ sở phát huy sức mạnh, vai trò của quần chúng
trong đấu tranh chống phản cách mạng.
Không chỉ nhấn mạnh vai trò, vị trí của quần chúng trong thực hiện
các mặt công tác Công an như: đấu tranh chống địch dụ dỗ, cưỡng ép di cư
vào miền Nam, chống phản cách mạng,…lãnh đạo các cấp chủ trương xây
dựng một phong trào lớn thu hút đông đảo nhân dân tham gia thực hiện “bảo
vệ trị an”.
Ngay từ những ngày đầu miền Bắc mới giải phóng, tại Hội nghị Công
an toàn quốc lần thứ 9 (ngày 17/2/1955) lãnh đạo Bộ Công an đã có những
nhận định, đánh giá sâu sắc về đóng góp của quần chúng trong kháng chiến
như: “việc kết hợp vận động nhân dân vây bắt với việc vũ trang truy lùng,
đánh vào bọn đầu sỏ đã làm cho chúng không tập hợp được tay chân, bắt
được hàng trăm biệt kích, thám báo, phá được một số mạng lưới gián điệp
nguy hiểm,…” [72, 9-10]. Trên cơ sở những kết quả đã đạt được, kết hợp
cùng thực tiễn các cuộc vận động quần chúng thực hiện “3 không”, “Ngũ liên
gia bảo”, “3 phòng” trong các giai đoạn cách mạng trước đó, ngày 5/12/1959,
Bộ Công an ra Chỉ thị số 1785/V10 mở cuộc vận động quần chúng tham gia
phong trào bảo vệ trị an.
Chỉ thị nêu rõ: “Đây là cuộc vận động lâu dài để quần chúng tự đảm
nhận việc giữ gìn an ninh, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và quy ước
bảo vệ trị an, xây dựng và củng cố tổ chức bảo vệ trị an. Cuộc vận động phải
do Đảng lãnh đạo, Công an làm tham mưu, phối hợp với các ngành tuyên
truyền, dân quân, thanh niên, phụ nữ…Nội dung của cuộc vận động là: phòng

gian, phòng hỏa, phòng tai nạn; nơi nào chưa có phong trào cần mở ngay cuộc
vận động, nơi nào đã mở cuộc vận động thì sơ kết, rút kinh nghiệm, xây dựng
quy ước bảo vệ trị an, quy tắc trật tự” [18, 155]. Chỉ thị 1785/V10 đã mở ra
cuộc vận động toàn dân tham gia giữ gìn trật tự trị an phát triển rộng khắp
trong tình hình mới.

18
Để phát huy hơn nữa vai trò của quần chúng trong thực hiện nhiệm vụ
giữ gìn ANTT, ngày 13/11/1961, Ban Bí thư TW Đảng đã ra Chỉ thị 32
CT/TW về xây dựng đẩy mạnh phong trào bảo vệ trị an. Chỉ thị yêu cầu các
cấp, các ngành “Cần nhận thức một cách thật đầy đủ về tầm quan trọng của
phong trào bảo vệ trị an trong việc đề phòng, ngăn chặn hoạt động của bọn
phản cách mạng và bọn tội phạm hình sự, có kế hoạch lãnh đạo phong trào bảo
vệ trị an một cách chặt chẽ. Cần rút kinh nghiệm về mặt lãnh đạo phong trào trị
an, cần định kỳ nghe phản ánh tình hình phong trào; chú ý gắn liền phong trào
bảo vệ trị an với phong trào sản xuất, hợp tác hóa với việc thực hiện các chính
sách của Đảng, Chính phủ, phát huy được khí thế cách mạng của quần chúng
trong đấu tranh chống phản cách mạng, tội phạm hình sự; Cần nghiên cứu kinh
nghiệm của xã Yên Phong (Ninh Bình) là một gương mẫu trong phong trào bảo
vệ trị an,…phát động một phong trào thi đua với Yên Phong trong các xã thuộc
địa phương” [43].
Đặc biệt tại Hội nghị “4 chuyên đề” (tháng 4/1963), phát động quần
chúng tham gia giữ gìn trật tự trị an đã trở thành một nội dung quan trọng
được Bộ Công an tăng cường quán triệt tới các địa phương. Hội nghị đã xác
định 7 nội dung cơ bản của phong trào: Nắm vững kịp thời về tình hình chính
trị, thu thập tin tức tài liệu về hoạt động của kẻ địch, về tình hình đối tượng;
Phòng chống gián điệp, biệt kích Mỹ - Diệm; Cải tạo những người trước kia
là ngụy quân, ngụy quyền, phỉ, những phần tử đã tham gia các tổ chức phản
động cũ ở ngoài xã hội; Bảo vệ sản xuất, bảo vệ các hợp tác xã, kho tàng,
đường sắt, cầu cống, dây điện…, bảo vệ thôn, bản, xã; Đấu tranh chống tội

phạm hình sự và các tai nạn, giữ gìn trật tự chung ở thôn, xã, khu phố; Củng
cố lực lượng Công an xã, lực lượng bảo vệ hợp tác xã và lực lượng bảo vệ
dân phố. Việc xác định nội dung, phạm vi phong trào là cơ sở để Công an các
đơn vị, địa phương tổ chức, bố trí lực lượng nhằm phát huy sức mạnh của quần
chúng tham gia giữ gìn trật tự trị an.

×