Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bản chất hiện tượng tự tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.64 KB, 10 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
LỜI NÓI ĐẦU
Từ ngày đất nước ta có sự đổi mới về kinh tế , chuyển từ kinh tế tập trung sang cơ chế
thị trường nhiều thành phần, tự do hoạch động và hạch toán nên đất nước cũng có nhiều
thay đổi. Sự thay đổi này đã mang lại cho đất nước nhiều thành tựu về kinh tế cũng như xã
hội. Nhưng xét đến tính hai mặt của vấn đề thì cơ chế thị trường bên cạnh những mặt
được thì cũng còn những mặt chưa được : Một trong những mặt chưa được đó là những
mặt đó là tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp ngày càng tăng, vấn đề xã hội mà gần
như không có trong nền kinh tế bao cấp.
Đất nước muốn phát triển thì phải đi lên từ lao động, mà sinh viên là lực lượng lao động
trẻ, năng động, dồi dào và được đào tạo. Vì vậy đây là nguồn nhân lực rất quan trọng cần
được sử dụng một cách hợp lý hiệu quả.
Tình trạng sinh viên thất nghiệp sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước. Vấn đề này nguyên nhân do đâu, phải chăng là:
- Trình độ của sinh viên không đáp ứng được yêu cầu ngày một cao của công việc, do
chất lượng đào tạo thấp của các trường đại học,cao đẳng ?
- Do lượng cung lớn hơn cầu về nguồn lao động ?
- Do chính sách của nhà nước chưa hợp lý trong việc sử dụng lao động ?
- Do sự chủ quan của sinh viên không muốn công tác tại những vùng xa, khó khăn ?
Vấn đề này được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau vì mỗi người có một quan điểm
khác nhau. Điều này xảy ra là vì về mặt nhận thức chủ thể chưa nhìn nhận vấn đề một cách
toàn diện, tổng thể mà chỉ nhìn ở một phía nhất định.Do vậy bài tiểu luận này em sẽ vận
dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác _ Lê Nin để giải thích nguyên nhân của vấn
đề và đưa ra một vài giải pháp.
Phần nội dung của bài tiểu luận sẽ gồm các mục sau :
Chương I : Phần nội dung
I. Quan điểm toàn diện của triết học Mác _ Lê Nin
II. Thực trạng của vấn đề sinh viên ra trường thất nghiệp.
III. Nguyên nhân của vấn đề
Chương II : Kết luận và một số giải pháp
Trong lần viết này bài tiểu luận của em chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Em kính


mong nhận được nhiều ý kiến phê bình của các thầy cô giáo để em có thể hoàn thiện tốt
hơn trong những lần viết sau. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô
giáo trong khoa đã giúp em hoàn thành tốt bài tiểu luận này.
Chương I : Phần nội dung
Chương I : Phần nội dung
I. Quan điểm toàn diện của triết học Mac _ Lê Nin
I. Quan điểm toàn diện của triết học Mac _ Lê Nin
Trong sự tồn tại của thế giới quanh ta, mọi sự vật và hiện tượng đều có mối liên hệ và
tác động qua lại với nhau chứ không tách rời nhau, cô lập nhau.
Như chúng ta đã biết “ Quan điểm toàn diện” là quan điểm được rút ra từ nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến.
Muốn nhận thức hoặc hoạt động thực tiễn đúng về đối tượng nào đó phải tính đến
những mối liên hệ trong sự tồn tại của đối tượng, đề phòng khắc phục quan điểm phiến
diện
Mối liên hệ giữa các sự vật , hiện tượng là mối liên hệ của bản thân thế giới vật chất,
không do bất cứ ai quy định và tồn tại độc lập với ý thức. Trên thế giới này có rất nhiều
mối liên hệ chẳng hạn như mối liên hệ giữa sự vật và hiện tượng vật chất, giữa cái vật chất
và cái tinh thần. Các mối liên hệ đều là sự phản ánh những tác động qua lại, phản ánh sự
quy định lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan.
Không chỉ có vậy, các mối liên hệ còn có tính nhiều vẻ ( đa dạng)
+ Mối liên hệ bên trong và bên ngoài
+ Mối liên hệ cơ bản và không cơ bản
+ Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu
+ Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp
Ở thế giới của các mối liên hệ, mối liên hệ bên ngoài tức là sự tác động lẫn nhau giữa
các sự vật, mối liên hệ bên trong tức là sự tác động qua lại lẫn nhau của các mặt, các yếu
tố, các bộ phận bên trong của sự vật. Có mối liên hệ cơ bản thuộc về bản chất của sự vật,
đóng vai trò quyết định, còn mối liên hệ không cơ bản chỉ đóng vai trò phụ thuộc, không
quan trọng. Đôi khi lại có mối liên hệ chủ yếu hoặc thứ yếu. ở đó còn có mối liên hệ trực
tiếp giữa hai hoặc nhiều sự vật và hiện tượng, có mối liên hệ gián tiếp trong đó có các sự

vật và hiện tượng tác động lẫn nhau thông qua nhiều khâu trung gian.
Khi nghiên cứu hiện tượng khách quan, chúng ta có thể phân chia các mối liên hệ ra
thành từng loại như trên tuỳ theo tính chất đơn giản hay phức tạp, phạm vi rộng hay hẹp,
vai trò trực tiếp hay gián tiếp, nghiên cứu sâu hay sơ qua….
Phân chia các mối liên hệ phải phụ thuộc vào việc nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi
và phát triển của chúng. Hay nói khác đi, khi xem xét sự vật thì phải có quan điểm toàn
diện tức là nhìn nhận sự việc, vấn đề ở mọi góc cạnh, mọi phương diện. Theo Lê _ Nin
“Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mối quan
hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách
hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự vật cần thiết phải xét đến tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho
chúng ta khỏi phạm phải sai lầm và cứng nhắc” ( Lê Nin toàn tập – NXB tiến bộ)
Khi xem xét sự vật hiện tượng thì luôn phải chú ý đến quan điểm toàn diện tức là khi
xem xét sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu mọi mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa
chúng, sự tác động qua lại của các yếu tố, kể cả khâu trung gian, gián tiếp cấu thành sự vật
đó, phải đặt nó trong một không gian, thời gian cụ thể, nghiên cứu quá trình phát triển từ
quá khứ, hiện tại và dự đoán cho tương lai. Thế nhưng xem xét toàn diện không có nghĩa
là xem xét tràn lan mà phải xem xét từng yếu tố cụ thể nhưng có tính chọn lọc. Có như thế
chúng ta mới thực sự nắm được bản chất của sự vật.
Và cả khi nghiên cứu xã hội thì cũng rất cần đến quan điểm toàn diện vì các mối quan
hệ trong xã hội không cô lập nhau, tách rời nhau mà trái lại chúng đan xen tác động qua lại
với nhau .
Tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp cũng là một vấn đề xã hội mà nguyên nhân
gây ra là tập hợp của nhiều yếu tố tác động ảnh hưởng đến nhau. Chính vì vậy, trong bài
tiểu luận này em sẽ dùng quan điểm toàn diện của triết học Mác – Lê Nin để phân tích tình
trạng này.
II . Thực trạng về sự thất nghiệp của sinh viên sau khi thất nghiệp ra trường
Từ khi đất nước ta có chính sách mở cửa giao lưu hợp tác với các nước trong khu vực
cũng như các nước trên thế giới, kinh tế chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần tự do
cạnh tranh phát triển đã phát huy rất nhiều mặt tích cực. Mặt tích cực đáng chú ý là sự cố
gắng vươn lên của lớp thanh niên mới để có thể đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của công

việc.Sự mở rộng phát triển kinh tế thị trường thực sự đã mang lại những cơ hội việc làm
cho sinh viên có khả năng, có năng lực, linh hoạt. Nhưng không phải mọi sinh viên ra
trường đều có việc làm và đây là một vấn đề đang được quan tâm của xã hội. Căn cứ vào
điều tra mới nhất của bộ GD- ĐT thì “năm 2000 cả nước có 126 trường đại học, cao đẳng
với hơn 73000 sinh viên chính qui tốt nghiệp thì đến năm học 2001-2003 đã có 157 trường
đại học, cao đẳng với gần 12200 sinh viên ra trường’’(nguồn tin trên mạng Internet). Kết
quả cho thấy tỷ lệ chung của sinh viên có việc làm sau khi ra trường hiện nay là 72,47%,
trong đó khối kĩ thuật công nghiệp chiếm 79,43% nông lâm ngư chiếm 71,55%, kinh tế
luật chiếm 74,8%, sư phạm chiếm 81,5%(báo tiền phong số 115 ra ngày 24-3-2002). Và
theo số liệu mới của viện kinh tế phát triển thì sinh viên khối kinh tế ra trường năm 2002
thất nghiệp 87% hoặc làm việc trái nghề.
Bên cạnh những sinh viên có đủ những yêu cầu mà nhà tuyển dụng đòi hỏi hoặc những
người có người thân, xin việc hộ thì số còn lại phải chật vật chạy đi chạy lại với các trung
tâm giới thiệu việc làm. Cũng phải nói thêm rằng chính dựa vào sự khan hiếm việc làm
này mà nhiều trung tâm giới thiệu việc làm “ ma ” mọc lên vài ba bữa để thu tiền lệ phí,
tiền môi giới việc làm rồi biến mất. Hoặc một số sinh viên ra trường chấp nhận làm trái
nghề hoặc bất cứ nghề gì miễn là có thu nhập.
Đó là về phía sinh viên, còn về phía nhà tuyển dụng thì họ vẫn ‘ than’ là thiếu lao động
mà theo họ là thiếu những người có kinh nghiệm và khả năng làm việc độc lập cũng như
một số yêu cầu khác.
Vậy nguyên nhân của vấn đề này do đâu?
III. Nguyên nhân của vấn đề
1. Từ phía nền kinh tế- xã hội.
Trong những năm nước ta còn thực hiện chính sách bao cấp thì không có hiện tượng
sinh viên ra trường thất nghiệp. Phần lớn là vì ngày đó sinh viên còn ít số lượng các trường
đại học không nhiều nhưng chủ yếu là sinh viên sau khi tốt nghiệp thường được nhà nước
phân công tác. Nhìn bề ngoài thì có thể là đủ việc làm nhưng đôi khi những vị trí được sắp
xếp vào chỉ cho đủ vị trí, cho có hình thức, nhiều lúc ‘chơi dài ngày’ hết tháng thì nhận
lương nhà nước.
Nhưng từ khi nhà nước có chính sách mở cửa kinh tế nhà nước chuyển sang kinh tế thị

trường, các doanh nghiệp phải tự lo cho mình, tự tính toán “ lời ăn, lỗ chịu” không có sự
bao cấp của nhà nước thì vấn đề việc llàm thực sự trở nên bức bách. Cũng từ đây cơ cấu
bộ máy trong các cơ quan gọn nhẹ hơn nhiều do số lao động tuyển vào được cân nhắc kỹ
lưỡng theo khối lượng và mức độ đòi hỏi của công việc. Hiện nay, sau khi tốt nghiệp thì
đa số sinh viên phải tự đi tìm việc cho mình ngoại trừ một số trường thuộc nghành quân
đội hay công an thì nghành chủ quản sẽ phân công công tác.
Ngày nay, chúng ta có thể thấy một hiện tượng là sinh viên tốt nghiệp ra trường chỉ
muốn trụ lại thành phố để làm việc kể cả những sinh viên xuất thân và lớn lên từ những
miền quê. Họ chấp nhận ở lại thành phố để làm việc dù là việc không đúng với nghành
được đào tạo hoặc có thu nhập. Như vậy một số nơi như hải đảo, vùng sâu, vùng xa thì vẫn
thiếu trầm trọng nguồn nhân lực trong khi thành phố vẫn phải đương đầu với sức ép của
tình trạng thất nghiệp.
Đến đây ta có thể thấy được tính hai mặt của nền kinh tế thị trường.
Một mặt nó tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế có khả năng phát triển mạnh hơn, nó
cũng tạo ra sự cạnh tranh và chính sự cạnh tranh cũng là động lực thúc đẩy kinh tế phát

×